Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: U hiển »»
(安然, Annen, 841-915?): học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, húy là An Nhiên (安然), thông xưng là Ngũ Đại Viện A Xà Lê (五大院阿闍梨), Bí Mật Đại Sư (秘密大師); hiệu là Phước Tập Kim Cang (福集金剛), Chơn Như Kim Cang (眞如金剛); thụy hiệu là A Giác Đại Sư (阿覺大師); xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Hồi còn nhỏ, ông theo hầu Viên Nhân (圓仁, Ennin), rồi đến năm 859 thì thọ Bồ Tát giới với vị này. Sau khi Viên Nhân qua đời, ông theo hầu Biến Chiếu (遍照, Henjō) và chuyên tâm nghiên cứu về Mật Giáo cũng như Hiển Giáo. Năm 877, ông nhận được điệp phù cho sang nhà Đường cầu pháp, nhưng việc ông có lên thuyền đi hay không thì có nhiều thuyết khác nhau. Cùng năm đó, ông được trao truyền cho các sở học về Tất Đàm, Kim Cang Giới của Viên Nhân từ Đạo Hải (道海, Dōkai) và Trường Ý (長意, Chōi). Vào năm 984, ông lại được Biến Chiếu trao truyền cho Thai Tạng (胎藏) cũng như Kim Cang Giới Thọ Vị Quán Đảnh (金剛界授位灌頂), và trở thành Tam Bộ Đô Pháp Truyền Pháp Đại A Xà Lê (三部都法傳法大阿闍梨). Ông dựng nên Ngũ Đại Viện (五大院) ở trên Tỷ Duệ Sơn và sống ở đây chuyên tâm nghiên cứu cũng như trước tác, nên ông được gọi là bậc tiên đức của Ngũ Đại Viện. Trước tác của ông có Bắc Lãnh Giáo Thời Vấn Đáp Sao (北嶺敎時問答抄), Bồ Đề Tâm Nghĩa Lược Vấn Đáp Sao (菩提心義略問答抄), Phổ Thông Thọ Bồ Tát Giới Nghi Quảng Thích (普通授菩薩戒儀廣釋), Bát Gia Bí Lục (八家秘錄), Thai Kim Tô Đối Thọ Ký (胎金蘇對受記), Giáo Thời Tránh Luận (敎時諍論), v.v., tổng cọng hơn 100 bộ. Trong khi đó, theo truyền thuyết về An Nhiên thì đương thời cũng có một nhân vật cùng tên với ông, nhưng người đó đến giữa đời bần cùng đói mà chết. An Nhiên kế thừa Viên Nhân và Viên Trân (圓珍, Enchin), tuyên dương giáo chỉ Viên Mật Nhất Trí của Thiên Thai Tông Nhật Bản, lập nên Giáo Tướng Phán Thích (敎相判釋) của Ngũ Thời Ngũ Giáo (五時五敎) và làm cho Mật Giáo hưng long tột đỉnh.
(白象): voi trắng toàn thân, vì con voi có uy lực lớn nhưng tánh tình nhu thuận, cho nên khi vị Bồ Tát vào mẫu thai thường cỡi con voi trắng có sáu ngà hay hiện thân hình con voi trắng, biểu thị tánh của vị Bồ Tát khéo nhu hòa nhưng có oai lực vĩ đại. Bên cạnh đó, 6 ngà voi thể hiện tinh thần Lục Độ (六度), 4 chân là Tứ Như Ý (四如意). Bồ Tát Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢) cỡi con voi trắng 6 ngà cũng thí dụ cho oai lực vô song như vậy. Như trong Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát (普賢菩薩勸發品) thứ 28 của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka,妙法蓮華經) có giải thích rằng: “Thị nhân nhược tọa, tư duy thử kinh, nhĩ thời ngã phục thừa bạch tượng vương, hiện kỳ nhân tiền, kỳ nhân nhược ư Pháp Hoa Kinh, sở hữu vong thất nhất cú nhất kệ, ngã đương giáo chi, dữ cọng độc tụng, hoàn linh thông lợi (是人若坐、思惟此經、爾時我復乘白象王、現其人前、其人若於法華經、有所忘失一句一偈、我當敎之、與共讀誦、還令通利, người ấy nếu ngồi, suy nghĩ kinh này, lúc bấy giờ ta lại cỡi vua voi trắng, hiện trước mặt người đó, nếu người đó đối với Kinh Pháp Hoa, bị sai mất một câu một bài kệ, ta sẽ chỉ cho, cùng với người đó đọc tụng, khiến được thông lợi).” Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō 3, 624) quyển 1 có đoạn rằng: “Nhĩ thời, Bồ Tát quán giáng thai thời chí, tức thừa lục nha bạch tượng phát Đâu Suất cung; vô lượng chư thiên tác chư kỷ nhạc, thiêu chúng danh hương, tán thiên diệu hoa, tùy tùng Bồ Tát (爾時、菩薩觀降胎時至、卽乘六牙白象發兜率宮、無量諸天作諸伎樂、燒眾名香、散天妙花、隨從菩薩, lúc bấy giờ, Bồ Tát quán sát đã đến lúc giáng xuống bào thai, liền cỡi con voi trắng sáu ngà từ trên cung trời Đâu Suất xuống; vô lượng các vị trời trỗi những thứ âm nhạc, đốt các loại hương thơm, rãi hoa trời tuyệt diệu, theo Bồ Tát xuống)”. Bên cạnh đó, Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō 46, 14) quyển 2 có giải thích rằng: “Ngôn lục nha bạch tượng giả, thị Bồ Tát vô lậu lục thần thông; nha hữu lợi dụng như thông chi tiệp tật, tượng hữu đại lực, biểu pháp thân hà phụ, vô lậu vô nhiễm, xưng chi vi bạch (言六牙白象者、是菩薩無漏六神通、牙有利用如通之捷疾、象有大力、表法身荷負、無漏無染、稱之爲白, voi trắng sáu ngà là vị Bồ Tát có sáu thần thông vô lậu; ngà có mũi nhọn có thể xuyên qua rất nhanh; voi có sức mạnh phi thường, thể hiện cho pháp thân gánh vác nặng; không bị rỉ ra, không bị nhiễm ô, cho nên gọi nó là trắng)”.
(s: advaya, 不二): không hai. Trong thế giới hiện tượng này sanh khởi đủ loại sự vật, hiện tượng, giống như mình người, nam nữ, già trẻ, vật tâm, sống chết, thiện ác, khổ vui, đẹp xấu, v.v., chúng được chỉnh lý theo hai trục đối lập. Tuy nhiên, các cặp phạm trù này không phải có thực thể tồn tại độc lập, cố định, mà trên cơ sở của Không (s: śūnya, p: suñña, 空), Vô Ngã (s: nirātman, nairātmya, p: anattan, 無我), căn để của chúng là Bất Nhị, Nhất Thể (一体). Bất Nhị là cách nói khác của Không về mặt quan hệ. Một trong các kinh điển Bát Nhã giải thích về Không có Duy Ma Kinh (s: Vimalakīrti-nideśa, 維摩經); trong Phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn (入不二法門品) của kinh này có giải thích rất rõ về pháp môn Bất Nhị như: “Đức Thủ Bồ Tát viết: 'Ngã, ngã sở vi nhị, nhân hữu ngã cố, tiện hữu ngã sở; nhược vô hữu ngã, tắc vô ngã sở, thị vi nhập Bất Nhị pháp môn' (德守菩薩曰、我、我所爲二、因有我故、便有我所、若無有我、則無我所、是爲入不二法門, Đức Thủ Bồ Tát nói rằng: 'Tôi và cái của tôi là hai; nhân vì có tôi mới có cái của tôi; nếu không có tôi, tất không có cái của tôi; đó là vào pháp môn Không Hai').” Từ đó, Bất Nhị cũng như Không là chơn tướng của sự vật; hiểu được điều này được gọi là ngộ. Ngay như trong triết học Vedanta của Bà La Môn Giáo cũng có nhấn mạnh Bất Nhị (advaita), nó được lập cước trên Phát Sinh Luận; hoàn toàn khác với tư tưởng Bất Nhị (advaya) của Phật Giáo. Phật Giáo không lấy Phát Sinh Luận, mà quán sát một cách như thật sự vật hiện thực và làm sáng tỏ sự hiện hữu của chúng. Bất Nhị theo quan điểm của Phật Giáo là nói về hình thức hiện hữu của sự vật hiện thực, là Bất Nhị với tư cách Quan Hệ Luận. Tại Nhật Bản, người nhấn mạnh pháp môn Bất Nhị là Đại Sư Không Hải (空海, Kūkai, 774-835), tổ sư khai sáng Chơn Ngôn Tông Nhật Bản. Đại Sư dùng Thích Ma Ha Diễn Luận (釋摩訶衍論) để ứng dụng giải thích bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận (大乘起信論), tận lực hệ thống hóa Mật Giáo. Đây chính là tiên phong của tư tưởng Bản Giác ở Nhật Bản. Trong Thích Ma Ha Diễn Luận, ngoài tư tưởng Bản Giác, Bất Nhị Ma Ha Diễn Pháp (不二摩訶衍法) được khẳng định rõ ràng. Sau khi Không Hải qua đời, tư tưởng Bản Giác này di nhập vào Thiên Thai Tông của Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) và đến thời Trung Đại thì trở thành Bất Nhị Luận khẳng định hiện thực. Trong Pháp Hoa Văn Cú (法華文句) 6 có câu: “Nhị nhi Bất Nhị, Bất Nhị nhi nhị (二而不二、不二而二, hai mà Không Hai, Không Hai mà hai).” Hay như trong tác phẩm Gia Truyện (家傳, Kaden, tức Đằng Nguyên Gia Truyện [藤氏家傳, Tōshikaden]) quyển thượng do Huệ Mỹ Áp Thắng (惠美押勝, Emi-no-Oshikatsu, tức Đằng Nguyên Trọng Ma Lữ [藤原仲麻呂, Fujiwara-no-Nakamaro, 706-764]) soạn, có đoạn: “Mỗi năm và tháng 10, trang nghiêm pháp diên, kính ngưỡng di hạnh của Duy Ma, thuyết diệu lý Bất Nhị (毎年十月法筵を荘厳し、維摩の景行を仰ぎ、不二の妙理を説く).”
(平清盛, Taira-no-Kiyomori, 1118-1181): vị Võ Tướng sống vào cuối thời Bình An, trưởng tử của Bình Trung Thạnh (平忠盛, Taira-no-Tadamori), còn gọi là Bình Tướng Quốc (平將國), Tịnh Hải Nhập Đạo (淨海入道), Lục Ba La Mật Điện (六波羅蜜殿), v.v. Sau hai vụ loạn Bảo Nguyên (保元), Bình Trị (平治), ông thay thế dòng họ Nguyên (源, Minamoto) nắm toàn bộ thế lực, càng lúc càng thăng tiến, thậm chí làm quan cho đến chức Tùng Nhất Vị Thái Chính Đại Thần (從一位太政大臣). Con gái ông là Đức Tử (德子) được làm Hoàng Hậu của Cao Thương Thiên Hoàng (高倉天皇, Takakura Tennō, tại vị 1168-1180), rồi con trai người này là An Đức Thiên Hoàng (安德天皇, Antoku Tennō, tại vị 1180-1185) cũng được trao truyền ngôi vị; cho nên ông rất tự hào về thế lực ngoại thích của Hoàng Thất. Con cháu ông đềU hiển đạt làm quan chức, cho nên đã có biết bao người rắp tâm muốn trừ khử thế lực của ông, nhưng không thành, mãi cho đến sau khi ông qua đời mấy năm, hàng cháu dòng họ Bình (平, Taira) mới thật sự diệt vong.
(卜兆): người xưa thường đốt mai rùa, xem thử hình thái các đường nứt trên mai con rùa ấy như thế nào để đoán tốt xấu; đó gọi là triệu (兆). Trong bài Phục Chí Phú (復志賦) của thi sĩ Hàn Dũ (韓愈, 768-824) nhà Đường có câu: “Giả đại quy dĩ thị triệu hề, cầu u trinh chi sở lô (假大龜以視兆兮、求幽貞之所廬, giả rùa lớn để xem bói chừ, cầu u nhàn nơi vui sống).” Từ đó, bốc triệu có nghĩa là bói tìm huyệt chôn. Như trong Ngụy Thư (魏書) quyển 14 có đoạn: “Tích Hiên Viên bốc triệu quy tiêu, bốc giả thỉnh phỏng chư hiền triết, Hiên Viên nãi vốn Thiên lão, Thiên lão vị vi thiện, toại tùng kỳ ngôn, chung trí xương cát (昔軒轅卜兆龜焦、卜者請訪諸賢哲、軒轅乃問天老、天老謂爲善、遂從其言、終致昌吉, xưa kia Hiên Viên đốt mai rùa để bói tìm mộ huyệt chôn; khi bói thì phải thỉnh ý của các bậc hiền triết, Hiên Viên bèn hỏi ông Trời; ông Trời bảo là tốt, liền nghe lời ông Trời, cuối cùng thì được tốt đẹp).” Hay như trong Đại Nhật Bản Sử (大日本史), quyển 111 có đoạn: “Liêm Túc thường vị Định Tuệ viết: 'Đàm phong chi vi địa dã, đông liên Y Thế Sơn, tây đối Kim Cang Sơn, nam giới Kim Phong Sơn, bắc lân Đại Thần Sơn, kỳ linh thánh bất hạ Đường chi Ngũ Đài; ngã bách tuế hậu, bốc triệu vức ư thử, tắc hậu diệp phồn diễn hỷ' (鎌足嘗謂定慧曰:談峰之爲地也、東連伊勢山、西對金剛山、南界金峰山、北鄰大神山、其靈聖不下唐之五臺、我百歲後、卜兆域於此、則後葉繁衍矣, Tướng Quân Liêm Túc thường nói với Định Tuệ rằng: 'Bàn luận đỉnh núi để chọn đất, phía đông gắn liền với Y Thế Sơn, phía tây đối diện với Kim Cang Sơn, phía nam giáp giới Kim Phong Sơn, phía bắc gần với Đại Thần Sơn, sự linh thiêng của mấy ngọn núi này chẳng thua gì Ngũ Đài Sơn bên nhà Đường; sau khi ta qua đời, nên chọn đất mộ chôn ở nơi đây, tất sau này con cháu hưng thịnh vậy').”
(本能寺, Honnō-ji): một trong 4 ngôi chùa trung tâm của Dòng Bổn Môn (本門流) thuộc Pháp Hoa Tông; hiện tọa lạc tại Teramachidōri (寺町通), Chūkyō-ku (中京區), Kyoto-shi (京都市); hiệu là Mão Mộc Sơn (卯木山). Tượng thờ chính là bức đồ hình Mạn Trà La Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (南無妙法蓮華經). Đây là ngôi chùa rất nổi tiếng mà ai ai cũng biết đến như là nơi cuối đời của Tướng Quân Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga) dưới thời đại Chiến Quốc. Tên cũ của chùa là Bổn Ứng Tự (本應寺). Chùa được Nhật Long Thượng Nhân (日隆上人) sáng lập vào năm 1415 (Ứng Vĩnh [應永] 22), nhưng không bao lâu sau đó thì bị phá tan tành do cuộc tranh giành trong cùng môn phái. Đến năm 1433 (Vĩnh Hưởng [永享] 5), chùa được Như Ý Vương Hoàn (如意王丸) tái kiến lại, và đổi tên chùa như hiện tại. Vào năm 1535 (Đại Vĩnh [大永] 5), chùa lại bị đồ chúng Sơn Môn đốt cháy lần nữa. Quần thể kiến trúc đương thời khi xảy ra Vụ Biến Động Bổn Năng Tự là kiến trúc vô cùng to lớn do Nhật Thừa (日承), vị Tổ đời thứ 8 của chùa, di dời đến vào năm 1545 (Thiên Văn [天文] 14). Thế nhưng vào ngày mồng 2 tháng 6 năm 1582 (Thiên Chánh [天正] 10), Chức Điền Tín Trưởng bị Minh Trí Quang Tú (明智光秀, Akechi Mitsuhide) tấn công bất ngờ và đốt cháy toàn bộ kiến trúc chùa. Địa vức hiện tại của chùa là vị trí được di chuyển đến vào năm 1591 (Thiên Chánh 17), được dòng họ Đức Xuyên hộ trì đắc lực, nhưng cũng đã mấy lần bị hỏa tai. Bổn Năng Tự hiện tại là kiến trúc được xây dựng vào năm 1928 (Chiêu Hòa [昭和] 3), có tháp cúng dường cho Chức Điền Tín Trưởng, mộ của vị quan sủng mộ của ông là Sum Lan Hoàn (森蘭丸), v.v.
(s: Guṇabhadra, j: Gunabadara, 求那跋陀羅, 394-468): ý dịch là Công Đức Hiền (功德賢), vị tăng dịch kinh dưới thời Đông Tấn (東晉), xuất thân miền Trung Ấn Độ, thuộc dòng dõi Bà La Môn. Lúc nhỏ ông đã học Ngũ Minh và các bộ luận thư, nghiên cứu rộng về thiên văn, toán số, y học, chú thuật, v.v. Sau đó, nhân đọc bộ A Tỳ Đàm Tâm Luận (阿毘曇心論) mà khởi tâm sùng tín Phật pháp, bèn xuống tóc xuất gia và thọ Cụ Túc giới. Ông là người nhân từ, nhu thuận, chuyên cần học tập; ban đầu học giáo pháp Tiểu Thừa, thông cả Tam Tạng, sau đó học giáo lý Đại Thừa, nghiên cứu sâu về Đại Phẩm Bát Nhã Kinh (大品般若經), Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經), v.v. Ông còn dùng Phật pháp để khuyến hóa song thân mình và cuối cùng họ cũng quy y về với Phật Giáo. Vào năm thứ 12 (435) niên hiệu Nguyên Gia (元嘉) nhà Lưu Tống, ông đến Quảng Châu (廣州) bằng đường biển, vua Văn Đế sai sứ nghênh đón vào Kỳ Hoàn Tự (祇洹寺) ở Kiến Khang (建康) để tham gia công tác dịch kinh. Tại đây ông đã cùng với Huệ Nghiêm (慧嚴), Huệ Quán (慧觀), v.v., chiêu tập tăng tài dịch bộ Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經) 50 quyển; sau đó tại Đông An Tự (東安寺) dịch Đại Pháp Cổ Kinh (大法鼓經) 2 quyển, và tại Quận Đơn Dương (丹陽郡) dịch Thắng Man Kinh (勝鬘經) 1 quyển. Về sau, ông chuyển đến trú tại một ngôi chùa mới ở Kinh Châu (荆州), thường giảng thuyết Hoa Nghiêm Kinh, v.v. Ngoài ra, ông còn cư trú ở một số nơi khác như Đạo Tràng Tự (道塲寺), Trung Hưng Tự (中興寺), Bạch Tháp Tự (白塔寺), v.v. Đến năm thứ 7 (463) niên hiệu Đại Minh (大明) nhà Lưu Tống, ông vâng chiếu lập đàn cầu mưa và được ứng nghiệm cho nên nhà vua ban tặng rất hậu hỷ. Đời ông đã trãi qua 3 đời vua Văn Đế, Hiếu Võ Đế và Minh Đế, cả 3 đều quy ngưỡng và sùng kính ông. Ngoài các kinh điển nêu trên, ông còn dịch một số khác như Lăng Già Kinh (楞伽經) 4 quyển, Tiểu Vô Lượng Thọ Kinh (小無量壽經) 1 quyển, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經) 4 quyển, Tội Phước Báo Ứng Kinh (罪福報應經) 1 quyển, v.v., tổng cọng lên đến 52 bộ và 134 quyển. Vào năm thứ 4 niên hiệu Thái Thỉ (泰始) đời vua Minh Đế, ông thị tịch, hưởng thọ 75 tuổi.
(正法寺, Shōhō-ji): ngôi danh sát của Tào Động Tông, hiện tọa lạc tại Ōshū-shi (奥州市), Iwate-ken (岩手縣); hiệu là Đại Mai Niêm Hoa Sơn Viên Thông Chánh Pháp Tự (大梅拈華山圓通正法寺), tượng thờ chính là Như Ý Luân Quan Âm. Người khai sáng ngôi chùa này là Vô Để Lương Thiều (無底良韶), một trong 25 đệ tử nổi tiếng của Nga Sơn Thiệu Thạc (峨山紹碩), vị Tổ đời thứ 2 của Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji) ở vùng Hạc Kiến (鶴見, Tsurumi). Ngôi chùa được sáng lập vào năm 1348. Thiền sư cảm mộng có con gấu hiện ra, từ đó phát nguyện lập nên nơi đây một ngôi chùa. Nơi đây là lãnh địa của hai vị lãnh chúa Hắc Thạch (黑石) và Trường Bộ (長部), ông được sự sùng tín của Hắc Thạch Chánh Đoan (黑石正端) và Trường Bộ Thanh Trường (長部清長), nên dựng lên nơi đây ngôi già lam, và trở thành ngôi danh sát nổi tiếng nhất ở địa phương Áo Vũ (奥羽). Vào năm 1350, Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji) và Tổng Trì Tự được Sùng Quang Thiền Hoàng (崇光天皇, Sukō Tennō, tại vị 1348-1351) công nhận tư cách của hai ngôi Đại Bản Sơn của Tào Động Tông; đến năm 1441, chùa lại được Hậu Hoa Viên Thiên Hoàng (後花園天皇, Gohanazono Tennō, tại vị 1428-1464) ban tặng cho hiệu là Tứ Tử Xuất Thế Đạo Tràng (賜紫出世道塲). Từ đó trở về sau, nó trở thành ngôi chùa bổn sơn trung tâm của Phái Vô Để (無底派) ở hai châu Áo Châu (奥州) và Vũ Châu (羽州). Tất cả những tăng lữ của phái này trong đời phải một lần nhập sơn tu hành tại chùa này, và chùa có đến khoảng hơn 1000 ngôi chùa con trực thuộc. Chùa rất trang nghiêm tráng lệ, nhưng do bị hỏa tai, nên kiến trúc ngày xưa còn sót lại chỉ có Sơn Môn mà thôi. Chánh Điện, Khai Sơn Đường, Lầu Chuông, Nhà Kho, v.v., tất cả gồm 16 kiến trúc thì được xây dựng lại gần đây thôi. Đại Chánh Điện, Tăng Đường là hai kiến trúc rất to lớn, hùng vĩ. Hiện chùa vẫn còn có 78 ngôi tự viện con trực thuộc, và nơi đây là chốn tu hành chuyên môn, nên chư tăng thường xuyên tập trung về tu tập. Chùa hiện còn lưu lại rất nhiều bảo vật.
(眞空): cảnh giới Niết Bàn của Phật Giáo Nguyên Thủy. Không phải ngụy nghĩa là chân (眞), lìa tướng gọi là không (空). Lý tánh của chân như lìa hết thảy tướng mê tình thấy được, dứt bặt và vượt qua tương đối của cái gọi là “không”, “có”; nên gọi là chân không. Đó là Không Chân Như (空眞如) của Khởi Tín Luận (起信論), là Nhị Không Chơn Như (二空眞如) của Duy Thức (唯識), cũng là Chân Không Quán (眞空觀) trong Tam Quán của Hoa Nghiêm (華嚴). Bên cạnh đó, Phật Giáo Đại Thừa lấy cái có (有, hữu) của chẳng phải có (非有, phi hữu) gọi là diệu hữu (妙有), và gọi cái không (空) của chẳng phải không (非空, phi không) là chân không. Đây chính là cảnh giới chân không tối cực của Phật Giáo Đại Thừa. Như trong Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh (六祖大師法寶壇經, Taishō Vol. 48, No. 2008) có câu: “Niệm niệm thuyết không, bất thức chơn không (念念說空、不識眞空, mỗi niệm bảo không, chẳng biết chơn không).” Hay trong bản văn Trường Can Tự Chúng Thực Bi (長干寺眾食碑) của Từ Lăng (徐陵, 507-583) nhà Trần thời Nam Triều có đoạn: “An trú Đại Bát Niết Bàn, hành tại chơn không, thâm nhập vô vi Bát Nhã (安住於大般涅槃、行在眞空、深入於無爲般若, an trú Đại Bát Niết Bàn, hành ở chơn không, nhập sâu vô vi Bát Nhã).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Đại Trai Phổ Lợi Đạo Tràng Tánh Tướng Thông Luận (法界聖凡水陸大齋普利道塲性相通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1498) quyển 3 lại có bài kệ rằng: “Diệu hương khởi xứ vô sở khởi, bổn lai vô vật tức chân không, thái hư châu biến thành hương vân, bất ly chân không hiện diệu giả (妙香起處無所起、本來無物卽眞空、太虛周遍成香雲、不離眞空現妙假, hương mầu dấy khởi không chốn khởi, xưa nay không vật tức chân không, trời đất cùng khắp thành mây hương, chẳng lìa chân không hiện tướng giả).” Thiền sư Thanh Đàm (清潭, ?-1173) của Việt Nam có bài thơ rằng: “Tây lai trực chỉ vị tâm tông, hà nãi cửu niên diện bích trung, tất dã đầu cơ cơ vị thục, thục thời nhiên hậU hiển chân không (西來直指謂心宗、何乃九年面壁中、悉也投機機未熟、熟時然後顯眞空, từ Tây thẳng đến chỉ tâm tông, sao lại chín năm mặt vách tường, ắt cũng căn cơ chưa được chín, chín rồi sau mới lộ chân không).”
(証誠寺, Shōjō-ji): ngôi chùa Tổ trung tâm của Phái Sơn Nguyên (山元派) thuộc Chơn Tông, hiện tọa lạc tại số 13-43 Yokogoshi-chō (横越町), Sabae-shi (鯖江市), Fukui-ken (福井縣); hiệu là Sơn Nguyên Sơn Hộ Niệm Viện (山元山護念院), thường được gọi là Hoành Việt Bản Sơn (横越本山), là một trong 4 ngôi chùa Tổ trung tâm ở vùng Việt Tiền (越前, Echizen). Phái Sơn Nguyên là một trong 10 phái lớn của Chơn Tông. Xưa kia, Thân Loan (親鸞, Shinran) kiến lập một ngôi chùa ở vùng Sơn Nguyên (山元), rồi sau đó Thiện Loan (善鸞, Zenran), Tịnh Như (淨如, Jōnyo) kế thế làm trú trì chùa, đến năm 1304 (Gia Nguyên [嘉元] 2) thì được sắc phong của Hậu Nhị Điều Thiên Hoàng (後二條天皇, Gonijō Tennō) với hiệu chùa như hiện tại. Vào năm 1475 (Văn Minh [文明] 7), dưới thời vị trú trì thứ 8 của chùa là Đạo Tánh (道性), chùa được dời về vị trí hiện tại. Dưới thời đại Giang Hộ, chùa phụ thuộc vào Thánh Hộ Viện (聖護院) của Thiên Thai Tông, nhưng đến thời Minh Trị (明治, Meiji) thì được hoàn trả cho Phái Bổn Nguyện Tự và sau đó thì hoàn toàn độc lập, tách riêng hẳn thành một tông phái. Tương truyền tượng thờ chính của chùa là A Di Đà Như Lai do Tăng Đô Huệ Tâm (惠心) sáng tác.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập