Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tỳ Da »»
(s: Akṣhobhya-buddha, t: Saṅs-rgyas mi-ḥkhrugs-pa, 阿閦佛): gọi tắt là A Súc (阿閦), còn gọi là A Súc Tì Phật (阿閦鞞佛), A Sô Tì Da Phật (阿芻鞞耶佛), Ác Khất Sô Tỳ Dã Phật (噁乞蒭毘也佛); ý dịch là Bất Động Phật (不動佛), Vô Động Phật (無動佛), hay Vô Nộ Phật (無怒佛), Vô Sân Nhuế Phật (無瞋恚佛); là tên gọi của một trong 5 vị Phật ở 5 phương khác nhau; vị này thường ngự ở phương Đông. Theo Phẩm Phát Ý Thọ Tuệ (發意受慧) và Thiện Khoái (善快) của A Súc Phật Quốc Kinh (阿閦佛國經, Taishō Vol. 11, No. 313) quyển Thượng, vào thời quá khứ cách hơn Phật quốc độ về phương Đông có thế giới tên gọi là A Tỷ La Đề (s: Abhirati, 阿比羅提), đức Đại Mục Như Lai (大目如來) xuất hiện trong thế giới ấy, vì các Bồ Tát thuyết về hạnh Lục Độ Vô Cực (六度無極). Khi ấy có một vị Bồ Tát nhân khi nghe pháp bèn phát tâm vô thượng chánh chân; đức Đại Mục Như Lai thấy vậy rất hoan hỷ nên ban cho hiệu là A Súc. Bồ Tát A Súc thành Phật ở thế giới A Tỷ La Đề, cho đến hiện tại vẫn còn đang thuyết pháp tại quốc độ của Ngài. Hơn nữa, lại căn cứ vào Phẩm Hóa Thành Dụ (化城喩品) của Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經, Taishō Vol. 9, No. 262) cho hay rằng khi chưa xuất gia, đức Đại Thông Trí Thắng Phật (大通智勝佛) có 16 vương tử, về sau tất cả đều xuất gia làm Sa Di; trong đó người con thứ nhất tên Trí Tích (智積), tức là A Súc, thành Phật tại nước Hoan Hỷ ở phương Đông. Bi Hoa Kinh (s: Karuṇā-puṇḍarīka-sūtra, 悲華經, Taishō Vol. 3, No. 157) quyển 4 có ghi rằng đức A Di Đà Phật (s: Amitāyus, Amitābha, 阿彌陀佛) trong thời quá khứ khi làm vua Vô Tránh Niệm (無諍念), có cả ngàn người con, trong đó người con thứ 9 tên Mật Tô (蜜蘇), tức là A Súc, thành Phật ở phương Đông, cõi nước tên là Diệu Lạc (妙樂). Mật Giáo xem A Súc Phật này là một trong 5 vị Phật của Kim Cang Giới (金剛界), tượng trưng cho Đại Viên Cảnh Trí (大圓境智), hay Kim Cang Trí (金剛智). Ngài ngự ở trung ương chánh Đông Nguyệt Luân trong Ngũ Giải Thoát Luân (五解脫輪), phía trước là Kim Cang Tát Đỏa (金剛薩埵), bên phải là Kim Cang Vương Bồ Tát (金剛王菩薩), bên trái là Kim Cang Ái Bồ Tát (金剛愛菩薩), phía sau là Kim Cang Hỷ Bồ Tát (金剛喜菩薩). Hình tượng của Ngài màu vàng kim, tay trái bắt ấn để trên bắp vế, tay phải buông xuống chạm đất, nên được gọi là A Súc Xúc Địa ấn (阿閦觸地印). Mật hiệu của Ngài là Bất Động Kim Cang (不動金剛); chủng tử là hūṃ. Chơn ngôn là “án ác khất sô tỳ dã hồng (唵噁乞蒭毘也吽).” Thân Ngài màu xanh, như trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn rằng: “Phụng thỉnh Đông phương A Súc Phật, kỳ thân thanh sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Hàng Ma Chử, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請東方阿閦佛、其身青色放光明、手印執持降魔杵、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Đông phương A Súc Phật, thân Ngài sắc xanh phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Chày Hàng Ma, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Trong Diệu Cát Tường Bình Đẳng Bí Mật Tối Thượng Quán Môn Đại Giáo Vương Kinh (妙吉祥平等祕密最上觀門大敎王經, Taishō Vol. 20, No. 1192) quyển 4 lại dạy thêm rằng: “Cầu trường thọ thư A Súc Phật Chủng Trí tự (求長壽書阿閦佛種智字, nếu cầu sống lâu thì viết chữ Chủng Trí của A Súc Phật).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Kim Cang Kiên Cố Tự Tánh Thân A Súc Phật (南慕金剛堅固自性身阿閦佛, Kính Lễ Phật A Súc Thân Tự Tánh Kiên Cố Như Kim Cang).”
(寶蓋): lọng báu, dù báu; là từ mỹ xưng cho lọng hay dù; tức chỉ cho lọng trời được trang sức bằng 7 thứ báu; còn gọi là hoa cái (華蓋, lọng hoa). Loại này thường được treo trên tòa cao của Phật, Bồ Tát hay Giới Sư. Theo Phật Thuyết Duy Ma Cật Kinh (佛說維摩詰經, Taishō Vol. 14, No. 474), Phẩm Phật Quốc (佛國品) thứ 1, cho biết rằng trong thành Tỳ Da Ly (s: Vaiśālī, p: Vesālī, 毘耶離) có người con một vị trưởng giả tên Bảo Tích (寶積), cùng với 500 con trưởng giả khác, cầm lọng bảy báu đến chỗ đức Phật. Ngoài ra, trong các kiến trúc thời cổ đại, trên đỉnh tháp đá, v.v., có điêu khắc rất tinh xảo hình dạng giống như cái lọng. Trong Huệ Lâm Tông Bổn Thiền Sư Biệt Lục (慧林宗本禪師別錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1450) có câu: “Thiên thùy bảo cái trùng trùng tú, địa dũng kim liên diệp diệp tân (天垂寶蓋重重秀、地涌金蓮葉葉新, trời buông lọng báu lớp lớp đẹp, đất vọt sen vàng lá lá tươi).” Hay trong Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh (佛說大乘無量壽莊嚴經, Taishō Vol. 12, No. 363) quyển Hạ có đoạn: “Đông phương Hằng hà sa số Phật sát, nhất nhất sát trung, hữu vô lượng vô số Bồ Tát Ma Ha Tát, cập vô lượng vô số Thanh Văn chi chúng, dĩ chư hương hoa tràng phan bảo cái, trì dụng cúng dường Cực Lạc thế giới Vô Lượng Thọ Phật (東方恆河沙數佛剎、一一剎中、有無量無數菩薩摩訶薩、及無量無數聲聞之眾、以諸香花幢幡寶蓋、持用供養極樂世界無量壽佛, Hằng hà sa số cõi Phật ở phương Đông, trong mỗi một cõi ấy, có vô lượng vô số Bồ Tát Ma Ha Tát, và vô lượng vô số chúng Thanh Văn, lấy các hương hoa, tràng phan, lọng báu, mang đến cúng dường đức Phật Vô Lượng Thọ của thế giới Cực Lạc).” Hoặc trong Viên Ngộ Phật Quả Thiền Sư Ngữ Lục (圓悟佛果禪師語錄, Taishō Vol. 47, No. 1997) quyển 4 lại có đoạn: “Tổ Phật đồng căn bổn, nhân thiên cọng tán dương, kết thành bảo cái tường vân, cọng chúc Nam sơn thánh thọ (祖佛同根本、人天共讚揚、結成寶蓋祥雲、共祝南山聖壽, Tổ Phật cùng gốc rễ, trời người cùng ngợi khen, kết thành lọng báu mây lành, cùng chúc núi Nam thánh thọ).”
(關煞): là dụng ngữ thuật số, ngày xưa nhà Tinh Số (chiêm tinh gia bói toán về số mạng con người) cho rằng con người gặp tai nạn do vận mạng quyết định, đó là “Quan Sát”. Con người cho rằng các em nhỏ khi chưa đến tuổi thành niên, thường gặp 36 Quan Sát và 72 sao Thiên Cương (天罡), dễ sanh nhiều bệnh tật, tai họa và chết yểu. 36 Quan Sát gồm:
(1) Thiên Nhật Quan (千日關), người sanh ở tuổi Dần, Thân, Tỵ thuộc năm Ngọ, sự tai họa rơi từ trên cao xuống, sanh ra trong vòng 1.000 ngày không nên đến nhà thờ thần linh của bà ngoại, không nên ngồi xe đi phương xa, chủ yếu bị bệnh kinh phong, nôn ọe sữa, không phạm những điều trên thì sẽ bảo đảm bình an;
(2) Lôi Công Quan (雷公關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Ngọ; ngày Ất, Mậu gặp giờ Tuất; ngày Bính, Đinh, Nhâm, Quý gặp giờ Tý; ngày Canh, Tân gặp giờ Dần, khi nghe tiếng sấm sét, tiếng trống đánh, chớ đến gần giếng nước, hay đồ vật bằng sắt, đề phòng ngồi cao té ngã, em bé vui đùa bò lên cao, như vậy sẽ nguy hiểm, chớ ẵm bé lên chỗ cao đùa giỡn, vậy mới bảo đảm bình an;
(3) Lạc Tỉnh Quan (落井關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Tỵ; sanh ngày Ất, Canh gặp giờ Tý; sanh ngày Bính, Tân gặp giờ Thân; sanh ngày Đinh, Nhâm gặp giờ Tuất, chớ đến gần bên giếng, bên sông, nước, đi thuyền bè, đến chơi nơi chỗ nào có huyệt động sâu đều nguy hiểm, có tai họa về nước, chủ yếu chớ nên gần;
(4) Kê Phi Quan (雞飛關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Tỵ, Dậu, Sửu; sanh ngày Ất, Bính, Đinh, Tuất gặp giờ Tý; ngày Canh gặp giờ Hợi, Mão, Mùi; ngày Tân, Nhâm, Quý gặp giờ Dần, Ngọ, Tuất, tránh nhìn thấy sát sanh, giết hại gà, vịt, cá thì sợ, đề phòng bệnh kinh phong khi gà bay qua quá đầu và mổ lên đầu, cần phải thận trọng thì sẽ tránh được chuyện không hay;
(5) Thủ Mạng Quan (取命關), là những người sanh ngày Giáp, Ất, Bính, Đinh gặp giờ Thân, Tý, Thìn; ngày Mậu, Kỷ, Canh gặp giờ Hợi, Mão, Mùi; ngày Tân, Nhâm, Quý gặp giờ Dần, Ngọ, Tuất, đề phòng chỗ cao nguy hiểm, chớ nhìn người mất hung dữ, không nên đến gần nơi tang lễ, những đền miếu mới xây, đàn tràng Giải Oan Bạt Độ vào dịp Trung Nguyên;
(6) Bạch Hổ Quan (白虎關), là những người sanh năm Kim gặp giờ Mão, Tuất; năm Mộc gặp giờ Thìn, Dậu; năm Hỏa gặp giờ Tý, Mùi, Thân; năm Thủy, Thổ gặp giờ Sửu, Dần, Ngọ, suốt đời nhiều tai hoạn máu me, đề phòng mất chân, phải nên thận trọng ở những chỗ cao nguy hiểm, đối với mạng người nữ cần phải rất thận trọng khi sinh đẻ, để tránh mất mác cả mẹ lẫn con, coi chừng bị bệnh sởi, đậu mùa;
(7) Thiết Xà Quan (鐵蛇關), là những người sanh năm Kim gặp giờ Mão, Tuất; năm Mộc gặp giờ Dậu, Thìn; năm Hỏa gặp giờ Sửu, Dần, Ngọ, ngựa đi trên đường cần phải thận trọng, chớ đến gần để tránh nguy hiểm, coi chừng phát sinh bệnh sởi, đậu mùa, dễ bị động vật cắn;
(8) Đoạn Trường Quan (斷膓關), là những người sanh ngày Giáp, Ất gặp giờ Ngọ, Mùi; ngày Bính, Đinh gặp giờ Thìn, Tỵ; ngày Mậu gặp giờ Ngọ; ngày Kỷ gặp giờ Mùi; ngày Canh, Tân gặp giờ Dần; ngày Nhâm, Quý gặp giờ Sửu, kỵ nhìn thấy giết heo, dê, chớ vào chỗ đồ tể;
(9) Đoản Mạng Quan (短命關), là những người sanh năm Thân, Tý, Thìn gặp giờ Tỵ; năm Tỵ, Dậu, Sửu gặp giờ Dần; năm Dần, Ngọ, Tuất gặp giờ Thìn; năm Hợi, Mão, Mùi gặp giờ Mùi, đề phòng nói lảm nhảm buổi tối, hay kinh sợ;
(10) Hòa Thượng Quan (和尚關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu; năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi gặp giờ Dần, Thân, Tỵ, Hợi, chớ vào các đàn tràng cúng chay (trai đàn), không nên vào nhà đám ma, chớ vào chùa gặp Hòa Thượng, tăng ni, nếu không lưu tâm sẽ bị tai ương một đời, nên tránh không nên theo mẹ vào đền miếu dâng hương;
(11) Thiên Điếu Quan (天吊關), là những người sanh năm Thân, Tý, Thìn gặp giờ Tỵ, Ngọ; năm Tỵ, Dậu, Sửu gặp giờ Tý, Mão; năm Dần, Ngọ, Tuất gặp giờ Thìn, Ngọ; năm Hợi, Mão, Mùi gặp giờ Ngọ, Thân, qua núi qua sông bất lợi, đi đêm trên đường bất an, đồng thời có nhiều tai nạn cấp bách, họa hoạn;
(12) Dạ Đề Quan (夜啼關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Ngọ; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Dậu; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Tý; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Mão, ban đêm không nên ra ngoài du ngoạn, nhìn mặt trời lặn hướng Tây cũng không tốt, buổi tối không nên nhìn ánh sáng đèn để tránh con nít khóc nhè đêm;
(13) Mai Nhi Quan (埋兒關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Sửu; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp giờ Mão; năm Dần, Thân, Tỵ Hợi gặp giờ Thân, kỵ nhìn thấy nhập liệm, tống táng, khi nhỏ đã khó nuôi, nên lạy thần minh để xin làm con nuôi mới bảo toàn tánh mạng;
(14) Ngũ Quỷ Quan (五鬼關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Thìn; năm Sửu gặp giờ Mão; năm Dần gặp giờ Dần; năm Mão gặp giờ Sửu; năm Thìn gặp giờ Tý; năm Tỵ gặp giờ Hợi; năm Ngọ gặp giờ Tuất; năm Mùi gặp giờ Dậu; năm Thân gặp giờ Thân; năm Dậu gặp giờ Mùi; năm Tuất gặp giờ Ngọ, năm Hợi gặp giờ Tỵ, không nên đến gần đàn tràng Giải Oan Bạt Độ, nếu đến gần sẽ sanh tai tật, kỵ nhìn thấy gỗ làm quan tài, mộ địa;
(15) Thiên Cẩu Quan (天狗關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Tuất; năm Sửu gặp giờ Hợi; năm Dần gặp giờ Tý; năm Mão gặp giờ Sửu; năm Thìn gặp giờ Dần; năm Tỵ gặp giờ Mão; năm Ngọ gặp giờ Thìn; năm Mùi gặp giờ Tỵ; năm Thân gặp giờ Ngọ; năm Dậu gặp giờ Mùi; năm Tuất gặp giờ Thân; năm Hợi gặp giờ Dậu, Thiên Cẩu ăn mặt trời, không nên nhìn, sợ nghe tiếng chó sủa, em bé thường có khuôn mặt phá tướng, bị thương tích, sanh ra trong vòng 40 ngày, xuất hành đi xa không lợi, cũng không nên đi đêm, để bảo đảm một năm bốn mùa được bình an;
(16) Quỷ Môn Quan (鬼門關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Dậu; năm Sửu gặp giờ Ngọ; năm Dần gặp giờ Mùi; năm Mão gặp giờ Thân; năm Thìn gặp giờ Hợi; năm Tỵ gặp giờ Tuất; năm Ngọ gặp giờ Sửu; năm Mùi gặp giờ Dần; năm Thân gặp giờ Mão; năm Dậu gặp giờ Tý; năm Tuất gặp giờ Tỵ; năm Hợi gặp giờ Thìn, không thể đi xa, suốt đời nơi nào có miếu âm cung thì chớ nên vào, đồng thời cũng không nên vào nhà hung dữ;
(17) Chàng Mạng Quan (撞命關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Sửu; năm Sửu gặp giờ Mùi; năm Dần gặp giờ Tý; năm Mão gặp giờ Tỵ; năm Thìn gặp giờ Thìn; năm Tỵ gặp giờ Ngọ; năm Ngọ gặp giờ Ngọ; năm Mùi gặp giờ Sửu; năm Thân gặp giờ Ngọ; năm Dậu gặp giờ Dậu; năm Tuất gặp giờ Mùi; năm Hợi gặp giờ Hợi, khó nuôi con, thân thể suy nhược, nhiều bệnh, có hiện tượng chết yểu;
(18) Thang Hỏa Quan (湯火關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Ngọ; năm Sửu, Thân, Hợi gặp giờ Mùi; năm Dần gặp giờ Tỵ; năm Mão gặp giờ Tý; năm Ngọ, Dậu gặp giờ Dần, chủ yếu chú ý về lửa, nước nóng, dầu, không nên đến gần nhà bếp, rất dễ bị thương tích;
(19) Trực Nạn Quan (直難關), là những người sanh tháng Mão, Dần (1, 2) gặp giờ Ngọ; tháng Thìn, Tỵ (3, 4) gặp giờ Mùi; tháng Ngọ, Mùi (5, 6) gặp giờ Mão, Tuất; tháng Thân, Dậu (7, 8) gặp giờ Tỵ, Thân; tháng Tuất, Hợi (9, 10) gặp giờ Dần, Mão; tháng Tý, Sửu (11, 12) gặp giờ Thìn, Dậu, thận trọng đề phòng đao khí, vật bén nhọn làm tổn thương;
(20) Thâm Thủy Quan (深水關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Dần, Thân, chớ đến gần bên sông, hồ nước, đề phòng tai họa về nước, phạm cha mẹ đời trước, không lạy vào dịp Thanh Minh (清明, khoảng đầu tháng 3 Âm Lịch), Đoan Ngọ (端午, mồng 5 tháng 5 Âm Lịch), Thất Tịch (七夕, mồng 7 tháng 7 Âm Lịch), Trung Thu (中秋, rằm tháng 8 Âm Lịch);
(21) Đoạn Kiều Quan (斷橋關), là những người sanh tháng 1, 2 gặp giờ Dần, Mão, chớ qua cầu dài, thuyền nông, chớ đi thuyền qua cầu tre;
(22) Tứ Trụ Quan (四柱關), là những người sanh năm Tỵ, Hợi, tháng 1, 2 gặp giờ Thìn, Tỵ, chớ đến gần trước mặt công trình xây dựng, Động Thổ, kỵ ngồi xe con nít;
(23) Kim Tỏa Quan (金鎖關), là những người sanh tháng 1, 2 gặp giờ Thân, Mão; tháng 1, 7 gặp giờ Thân; tháng 2, 8 gặp giờ Dậu; tháng 3, 9 gặp giờ Tuất; tháng 4, 10 gặp giờ Hợi; tháng 5, 11 gặp giờ Tý; tháng 6, 12 gặp giờ Sửu, coi chừng dây tiền, mảnh sắt, vàng, đồng rơi vào miệng, hoặc sinh tật bệnh chết yểu;
(24) Bách Nhật Quan (百日關), là những người sanh tháng 1, 4, 7, 10 gặp giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; tháng 2, 5, 8, 11 gặp giờ Dần, Thân, Tỵ, Hợi; tháng 3, 6, 9, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu, sanh ra trong vòng 100 ngày, không nên đến nhà bà ngoại, sợ gặp tai họa, không nên ra khỏi nhà, kỵ đi xa, sợ trúng kinh phong;
(25) Vô Tình Quan (無情關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Tý, Dần, Dậu; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Tỵ, Tuất, Hợi; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Sửu, Thân; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, trong thời gian còn nhỏ ít nên đến nhà bà ngoại, tránh cho em nhỏ nhìn thấy người mài dao, nên lạy thần thánh làm cha nuôi, gọi cha mẹ là chú, cô, dì;
(26) Cấp Cước Quan (急腳關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Tý, Hợi; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Mão, Mùi; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Dần, Tuất; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Sửu, Thìn, chớ nên đi xa, chớ xem lễ Thượng Lương, Động Thổ, xây dựng;
(27) Dục Bồn Quan (浴盆關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Thân, ba buổi sáng kỵ tắm rửa thân thể, khi tắm rửa nên thận trọng;
(28) Tướng Quân Tiễn (將軍箭), là những người sanh năm Thìn, Dậu, Tuất gặp giờ Mùi, tất sẽ làm tổn thương người thân ruột thịt, không bắn người khác cũng như chính mình, chớ vào miếu thờ Tướng Quân;
(29) Huyết Quang Quan (血光關), là những người sanh vào giờ Sửu tháng 1, giờ Mùi tháng 2, giờ Dần tháng 3, giờ Thân tháng 4, giờ Mão tháng 5, giờ Dậu tháng 6, giờ Thìn tháng 7, giờ Tuất tháng 8, giờ Tỵ tháng 9, giờ Hợi tháng 10, giờ Ngọ tháng 11, giờ Tý tháng 12, dễ bị tai họa chảy máu, hay họa về xe và trúng thương tích, nên dùng tiền bổn mạng và tiền trị nguy hại về xe để khắc chế;
(30) Thủy Hỏa Quan (水火關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Mùi, Tuất; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Sửu, Thìn; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Dậu; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Sửu, chủ yếu chú ý về nước nóng, lửa, không nên đến gần nhà bếp, gần nước, lửa;
(31) Diêm Vương Quan (閻王關), là những người sanh tháng 7, 8, 9, 10, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, Dần, Mão; tháng 1, 2, 3 gặp giờ Sửu, Mùi; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Thìn, Tuất; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Tý, Ngọ; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Dần, Mão, không nên đến gần miếu âm cung, đền Thành Hoàng (城隍);
(32) Tứ Quý Quan (四季關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Sửu, Tỵ; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Thìn, Thân; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Hợi, Mùi; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Dần, Tuất, một đời nhiều bệnh, trước khí tiết của bốn mùa, chớ nên đi xa để đề phòng tai ương;
(33) Tứ Trụ Quan (四柱關), là những người sanh giờ Thìn, Tỵ, tháng 1, 2 thuộc năm Tỵ, Hợi, em nhỏ nếu phạm quan sát này, cha mẹ không sống lâu với mình, kỵ ngồi xe ngựa, lan can, ghế tre;
(34) Đa Ách Quan (多厄關), người nam sinh năm thuộc Kim, gặp tháng 5, 6; sinh năm thuộc Mộc, tháng 2, 3; sinh năm thuộc Thủy, tháng 8, 9; sinh năm thuộc Hỏa, tháng 11, 12; sinh năm thuộc Thổ, tháng 1, 4, phạm loại Quan Sát này; nữ sinh năm thuộc Kim, tháng 8, 9; sinh năm thuộc Mộc, tháng 11, 12; sinh năm thuộc Thủy, tháng 2, 3; sinh năm thuộc Hỏa, tháng 5, 6; sinh năm thuộc Thổ, tháng 1, 4, phạm loại Quan Sát này tai ách liên tục hằng năm;
(35) Kiếp Sát Quan (劫煞關), là những người sinh năm Thân, Tý Thìn, thuộc tháng 4; năm Tỵ Dậu, Sửu thuộc tháng 1; năm Dần, Ngọ, Tuất thuộc tháng 10; năm Hợi, Mão Mùi thuộc tháng 7, nên thận trọng đề phòng tiền tài hao tổn;
(36) Cơ Bại Quan (基敗關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 thuộc giờ Mùi, Tuất, Hợi; tháng 4, 5, 6 thuộc giờ Tý, Thìn, Tỵ; tháng 7, 8, 9 thuộc giờ Sửu, Thân, Dậu; tháng 10, 11, 12 thuộc giờ Dần, Mão, Ngọ, sau khi sinh ra, trạng huống thân thể khác lạ, khó nuôi, kỵ đào đất, nên lạy thần minh xin làm con nuôi, chú ý trị liệu về ruột, mới có thể chuyển nguy thành an.
Trong tác phẩm Dụ Thế Minh Ngôn (喻世明言) của Bằng Mộng Long (馮夢龍, 1574-1646) quyển 28 Lý Tú Khanh Nghĩa Kết Hoàng Trinh Nữ (李秀卿義結黃貞女) có câu: “Ấu niên gian đa nương dữ ngã toán mạng, thuyết hữu Quan Sát nan dưỡng, vi thử xuyên phá lưỡng nhĩ (幼年間爹娘與我算命、說有關煞難養、爲此穿破兩耳, lúc còn nhỏ cha mẹ xem mạng số cho tôi, bảo rằng bị Quan Sát khó nuôi, vì đó mà phá lũng hai tai).”
(城隍): có hai nghĩa khác nhau.
(1) Đường hào bảo vệ chung quanh thành quách. Từ Thành Hoàng được tìm thấy đầu tiên trong thư tịch Dịch Kinh (易經), phần Thái Quái (泰卦): “Thành phục ư hoàng (城復於隍, thành lại ở trong hào).” Thuyết Văn Giải Tự (說文解字) giải thích rằng: “Thành, dĩ thạnh dân chi (城、以盛民也, thành trì để bảo vệ dân)” và “Hoàng, thành trì dã (隍、城池也, hoàng là cái hào bảo vệ thành)”, hay “vô thủy viết hoàng (無水曰隍, nơi không có nước gọi là hoàng).” Như vậy, theo nghĩa xa xưa, từ thành hoàng là con sông, cái hào bảo vệ thành quách. Nhân đó, Ban Cố có đoạn văn rằng: “Tu cung thất, tuấn thành hoàng (修宮室、浚城隍, sửa cung thất, đào hào thành).”
(2) Tên gọi của vị thần bảo vệ thành trì hay quốc gia, hộ trì dân chúng. Với tư cách là vị thần, từ Thành Hoàng được tìm thấy đầu tiên trong Bắc Tề Thư (北齊書), Truyện Mộ Dung Nghiễm (慕容儼傳): “Thành trung tiên hữu thần từ nhất sở, tục hiệu Thành Hoàng Thần, công tư mỗi hữu kỳ đảo (城中先有神祠一所、俗號城隍神、公私每有祈禱, trong thành có một chỗ thờ thần, thế gian thường gọi là Thần Thành Hoàng, công tư mỗi người đều có cầu nguyện).” Sau thời Tùy Đường (隋唐, 581-907), việc sùng bái Thành Hoàng bắt đầu lưu hành rộng rãi. Trong điều Tuyên Châu Ty Hộ (宣州司戶) của Thái Bình Quảng Ký (太平廣記) gọi Thành Hoàng là úy quỷ (畏鬼, quỷ sợ), cho nên nhận xét rằng: “Mỗi châu huyện tất hữu Thần Thành Hoàng (每州縣必有城隍神, mỗi châu huyện đều có Thần Thành Hoàng).” Đến thời Ngũ Đại (五代, 907-960), Thần Thành Hoàng đã được sắc phong. Tỷ dụ như Thần Thành Hoàng ở Hàng Châu (杭州) được phong là Thuận Nghĩa Bảo Ninh Vương (順義保寧王), ở Hồ Châu (湖州) là Phụ Tục An Thành Vương (阜俗安城王), ở Mông Châu (蒙州) là Linh Cảm Vương (靈感王), v.v. Dưới thời nhà Tống (宋, 960-1127), việc sùng bái Thành Hoàng trở thành tế điển quốc gia. Như trong Tân Thối Lục (賓退錄) của Triệu Dữ Thời (趙與時, ?-?) có đoạn rằng: “Kim kỳ tự cơ biến thiên hạ, triều gia hoặc tứ miếu ngạch, hoặc ban phong tước, vị danh giả hoặc tập lân quận chi xưng, hoặc thừa lưu tục sở truyền, quận dị nhi huyện bất đồng (今其祀幾遍天下、朝家或賜廟額、或頒封爵、未名者或襲鄰郡之稱、或承流俗所傳、郡異而縣不同, ngày nay việc cúng tế Thành Hoàng cùng khắp thiên hạ, triều đình hoặc ban ngạch cho miếu vũ, hay ban phong tước; nơi nào chưa có tên thì hoặc lấy theo tên gọi của quận lân bang, hay theo truyền thuyết lưu truyền ngoài đời, quận khác mà huyện chẳng giống).” Kế thừa nhà Tống đến thời nhà Nguyên (元, 1206-1368), khắp nơi từ trong triều nội cho đến ngoài dân dã đều có thiết lập miếu thời Thần Thành Hoàng; vị thần ở kinh đô được tôn xưng là Hựu Thánh Vương (佑聖王). Đến thời nhà Minh (明, 1368-1662), tín ngưỡng sùng bái Thành Hoàng trở nên cực thịnh. Vào năm thứ 2 (1369) niên hiệu Hồng Võ (洪武), vua Minh Thái Tổ (明太祖, tại vị 1368-1398), phong cho Thành Hoàng ở kinh đô là Thừa Thiên Giám Quốc Ty Dân Thăng Phước Minh Linh Vương (承天鑒國司民升福明靈王), phong cho Thành Hoàng ở Khai Phong (開封), Lâm Hào (臨濠), Thái Bình (太平), Hòa Châu (和州), Trừ Châu (滁州) là Chánh Nhất Phẩm (正一品); cho Thành Hoàng ở các phủ khác là Chánh Nhị Phẩm (正二品); cho Thành Hoàng ở các châu là Chánh Tam Phẩm (正三品); cho Thành Hoàng ở các huyện là Hiển Hựu Bá (顯佑伯), Tứ Phẩm (四品). Chức trách của Thần Thành Hoàng chủ yếu bảo hộ bá tánh trong thành được an toàn, sức khỏe, cũng như giám sát công lao các quan viên trên cõi thế, thay Trời trị ác trừ hung, hộ trì quốc gia, phán quyết việc sống chết, ban việc phước thọ cho con người. Trong phần Quần Tự Khảo (群祀考) của tác phẩm Tục Văn Hiến Thông Khảo (續文獻通考) có dẫn lời của Minh Thái Tổ rằng: “Trẫm thiết Kinh Sư Thành Hoàng, tỷ thống các Phủ Châu Huyện chi thần, dĩ giám sát dân chi thiện ác nhi họa phước chi (朕設京師城隍、俾統各府州縣之神、以鑒察民之善惡而禍福之, Trẫm thiết lập Thần Thành Hoàng ở kinh đô để thống lãnh chư vị thần ở các Phủ Châu Huyện, để giám sát việc tốt xấu của muôn dân mà ban cho họa phước).” Về việc cúng tế Thần Thành Hoàng, theo Chư Thần Thánh Đản Nhật Ngọc Hạp Ký (諸神聖誕日玉匣記), nhà Minh quy định ngày 11 tháng 5 Âm Lịch là ngày đản sinh của Thành Hoàng. Tuy nhiên, do vì Thành Hoàng ở các địa phương có công với người dân, nên ngày đản sinh cũng có khác nhau. Tại Việt Nam, tín ngưỡng Thành Hoàng cũng đã thịnh hành từ xa xưa. Giống như Táo Công và Thổ Công, Thành Hoàng cai quản và quyết định họa phúc của một làng và thường được thờ ở đình làng. Sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam, tục thờ Thành Hoàng đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết sức đa dạng, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn.” Ngài là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Thành Hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tùy theo sự tích mỗi vùng. Ngài có thể là một vị thần như Phù Đổng Thiên Vương, thần núi như Tản Viên Sơn Thần, thần có công với dân với nước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng, v.v. Hay có khi là các yêu thần, tà thần, v.v., với nhiều sự tích hết sức lạ lùng, nhiều khi có vẻ vô lý. Tuy nhiên, có khi Thành Hoàng chỉ là một người dân mà theo quan niệm, là người được các vị thần ban cho sứ mệnh để sau này thay họ cai quản làng xã, được gọi là Thành Hoàng sống. Truyền thống tín ngưỡng, cúng tế Thành Hoàng đã thật sự bám sâu vào gốc rễ tâm linh, văn hóa của người dân Việt, như trong tập truyện ngắn Cái Ve của Khái Hưng (1896-1947) có câu chuyện Tế Thành Hoàng: “Người ta đồn ông Thành Hoàng làng Tiền thiêng lắm. Mỗi lần rước Ngài là một lần vất vả khổ sở cho dân Ngài: nào Ngài bay, nào Ngài lùi, nào Ngài quay, có khi Ngài lại đứng ỳ ra nữa. Các quan viên tha hồ xuýt xoa van lạy, khấn khứa ngài đủ các câu, Ngài vẫn làm ngơ như không nghe thấy gì hết. Những lúc ấy nếu không đốt một tràng pháo thật dài để mừng Ngài, thì khó lòng Ngài chịu đi cho. Thế mà năm nào ra giêng vào đám, vẫn hai lượt dân làng Tiền phải rước Ngài, một lượt từ miếu ra đình để ngài chứng kiến việc hội họp ăn uống, và một lượt từ đình trở về miếu để Ngài an nghỉ. Khó khăn nhất, mệt nhọc nhất cho bọn khiêng kiệu là quãng đường qua đình Tràng. Ngài nô giỡn, Ngài chạy cuồng, Ngài nhảy cẫng như vui thích khoái trá về một điều gì. Người ta nói vì đức Thánh Đình Tràng là một vị nữ thần mà Ngài nghịch ngợm thích trêu ghẹo chơi. Dân làng Tiền cũng không ai phàn nàn về cái thiêng của Ngài. Trái lại, người ta còn lấy làm hãnh diện được thờ một vị thần mà khắp vùng đều kinh sợ. Không phải sợ bóng sợ vía, nhưng sợ những sự tác oai hiển hiện trước mắt. Một lần, một đứa trẻ chăn trâu trèo lên cây muỗm trước miếu, đã bị Ngài quật ngã chết tươi. Lại một lần một con bé bế em đi xem rước giơ tay chỉ trỏ kiệu Ngài, bị Ngài hành cho một trận ốm thập tử nhất sinh…”
(s: Vaiśālī, p: Vesālī, 毘舍離): âm dịch là Tỳ Da Ly (毘耶離), Phệ Xá Ly (吠舍離), Duy Da Ly (維耶離), gọi tắt là Tỳ Da (毘耶), ý dịch là Quảng Nghiêm, Quảng Bác, là thủ đô của nước Bạt Kỳ (s: Vṛji, p: Vajjī, 跋耆), do dòng dõi Ly Xa (p: Licchavi, 離車) kiến lập nên. Là một trong những đô thị nổi tiếng nhất dưới thời đức Phật, xưa kia nơi ấy đã từng có rất nhiều giảng đường của tự viện Phật Giáo, chính đức Phật thỉnh thoảng có lưu lại nơi này để thuyết pháp và chế giới. Sau khi đức Phật diệt độ một phần xá lợi của đức Phật đã được tôn thờ ở đây và nó đã trở thành một trong tám thánh địa của Phật Giáo. 100 năm sau khi đức Phật diệt độ cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai đã được diễn ra tại thành đô này. Duy Ma cư sĩ, người thuyết ra Kinh Duy Ma (s: Vimalakīrti-nideśa, 維摩經) được xem như là vị trưởng giả của đô thị này lân cận của đô thị này có rất nhiều di tích của Phật Giáo, hiện tại người ta vẫn đang còn khai quật. Di tích của kinh đô cũ này nằm ở phần phụ cận Besārh, cách 27 dặm về phía bắc sông Hằng từ thành phố Patna của tiểu bang Bengal.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập