Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập »»
(辨長, Benchō, 1162-1238): vị Tăng của Tịnh Độ Tông, sống vào khoảng đầu và giữa thời kỳ Liêm Thương, trú trì đời thứ 2 của Thanh Tịnh Hoa Viện (清淨華院), Tổ khai sơn Thiện Đạo Tự (善導寺), Tổ của Dòng Trấn Tây (鎭西流); húy là Biện Trường (辨長), thông xưng là Trấn Tây Thượng Nhân (鎭西上人), Khủng Tử Thượng Nhân (筑紫上人), Thiện Đạo Tự Thượng Nhân (善導寺上人), Nhị Tổ Thượng Nhân (二祖上人); hiệu là Thánh Quang Phòng (聖光房), Biện A (辨阿), thụy hiệu là Đại Thiệu Chánh Tông Quốc Sư (大紹正宗國師); xuất thân vùng Hương Nguyệt (香月), Trúc Tiền (筑前, Chikuzen, thuộc Fukuoka-ken [福岡縣]); con của Cổ Xuyên Đàn Chánh Tả Vệ Môn Tắc Mậu (古川彈正左衛門則茂). Ông theo thọ pháp với Thường Tịch (常寂) ở Minh Tinh Tự (明星寺) vùng Trúc Tiền, rồi học giáo học Thiên Thai trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan). Năm 1193, ông bôn ba tận lực tái kiến ngôi tháp 3 tầng ở đây. Rồi đến năm 1197, ông lên kinh đô Kyoto để đặt làm tượng thờ cho ngôi tháp này, nhờ vậy ông gặp Nguyên Không (源空, Genkū, tức Pháp Nhiên), được vị này khai hóa và từ đó ông chuyển sang pháp môn Niệm Phật. Đến năm 1204, ông trở về cố hương; rồi vào năm 1228, ông chuyên tu pháp môn Biệt Thời Niệm Phật (別時念佛) ở Vãng Sanh Viện (徃生院) vùng Phì Hậu (肥後, Higo), viết cuốn Mạt Đại Niệm Phật Thọ Thủ Ấn (末代念佛授手印) và lập nên huyết mạch của Tịnh Độ Tông. Về sau, ông đi bố giáo khắp các địa phương vùng Cửu Châu (九州, Kyūshū); lấy Thiện Đạo Tự ở vùng Trúc Hậu (筑後, Chikugo) làm đạo tràng căn bản để tạo cơ sở phát triển. Trước tác của ông để lại cho hậu thế có Mạt Đại Niệm Phật Thọ Thủ Ấn 1 quyển, Tịnh Độ Tông Yếu Tập (淨土宗要集) 6 quyển, Triệt Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (徹選擇本願念佛集) 2 quyển, Niệm Phật Danh Nghĩa Tập (念佛名義集) 3 quyển, v.v.
(法然, Hōnen, 1133-1212): vị tổ sư khai sáng Tịnh Độ Tông Nhật Bản, húy là Nguyên Không (源空), người vùng Mỹ Tác (美作, Mimasaka). Ông theo lời di huấn của cha mà xuất gia, vào núi Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) theo hầu hạ Hoàng Viên (皇圓), Duệ Không (叡空). Đến năm 43 tuổi, ông quay về với pháp môn chuyên tu niệm Phật, và thuyết giảng về pháp môn Tịnh Độ ở vùng Đông Sơn Cát Thủy (東山吉水, Higashiyama Yoshimizu). Bên cạnh đó, ông đã cùng vời tăng đồ của Nam Đô Bắc Lãnh luận bàn về pháp môn này ở Đại Nguyên (大原, Ōhara). Vào năm 1207 (năm đầu niên hiệu Thừa Nguyên [承元]), do vì hai người đệ tử ông là Trú Liên (住蓮) và An Lạc (安樂) bị tử tội, nên ông bị lưu đày đến vùng Tán Kì (讚岐, Sanuki), nhưng vào cuối năm đó thì được tha tội. Ông có để lại nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất là Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集). Ông được ban cho thụy hiệu là Viên Quang Đại Sư (圓光大師), thông xưng là Hắc Cốc Thượng Nhân (黒谷上人) và Cát Thủy Thượng Nhân (吉水上人).
(三部經, Sambukyō): tên gọi ba bộ kinh có cùng chung nhất với nhau về nghĩa lý, được rút ra từ trong kinh điển. Tiêu biểu nhất là ba bộ Pháp Hoa, gồm Vô Lượng Nghĩa Kinh (無量義經), Pháp Hoa Kinh (法華經) và Quán Phổ Hiền Kinh (觀普賢經). Ở Nhật ngoài ba bộ này ra còn có ba bộ Trấn Hộ Quốc Gia, được gọi là Hộ Quốc Tam Bộ Kinh (護國三部經), gồm Pháp Hoa Kinh, Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), và Kim Cang Minh Kinh (金剛明經). Thêm vào đó còn có ba bộ Đại Nhật gồm Đại Nhật Kinh (大日經), Kim Cang Đảnh Kinh (金剛頂經) và Tô Tất Địa Kinh (蘇悉地經); ba bộ Di Lặc gồm Di Lặc Thượng Sanh Kinh (彌勒上生經), Di Lặc Hạ Sanh Kinh (彌勒下生經), và Di Lặc Thành Phật Kinh (彌勒成佛經), v.v. Trong bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) của Pháp Nhiên, lần đầu tiên dùng đến tên gọi Tịnh Độ Tam Bộ Kinh (淨土三部經), gồm Vô Lượng Thọ Kinh (無量義經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量義經), và A Di Đà Kinh (阿彌陀經).
(三皈): hay Tam Quy Y (s: tri-śaraṇa-gamana, p: ti-saraṇa-gamana, 三皈依、三歸依), Tam Quy (三歸), Tam Tự Quy (三自歸), Tam Quy Giới (三歸戒), Thú Tam Quy Y (趣三歸依). Riêng từ quy y hàm nghĩa cứu hộ, hướng về. Tam Quy Y tức là quay trở về và nương tựa vào Tam Bảo (三寶, Ba Ngôi Báu gồm Phật, Pháp và Tăng) và cầu xin quý Ngài cứu giúp để được vĩnh viễn thoát khỏi tất cả khổ. Đó là Quy Y Phật (s: Buddhaṃ śaraṇaṃ gacchāmi, 皈依佛, I take refuge in the Buddha), Quy Y Pháp (s: Dharmaṃ śaraṇaṃ gacchāmi, 皈依法, I take refuge in the Dharma) và Quy Y Tăng (s: Saṃghaṃ śaraṇaṃ gacchāmi, 皈依僧, I take refuge in the Sangha). Đây là nghi thức cần phải có để trở thành tín đồ Phật Giáo. Sau khi đức Phật Thích Ca thành đạo, khi chưa có Tăng Bảo thì chỉ truyền thọ hai phép quy y Phật và Pháp mà thôi. Theo Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 15 cho biết rằng người thọ Tam Quy Y đầu tiên là thân phụ của Tỳ Kheo Da Xá (s: Yaśa, Yaśoda, 耶舍). Phép Tam Quy Y này có thể chia làm 2 loại:
(1) Phiên Tà Tam Quy (翻邪三歸), nghĩa là Ba Phép Quy Y thọ nhận khi từ bên tà đạo quay về với chánh đạo;
(2) Thọ Giới Tam Quy (受戒三歸), gồm có 4 loại như Ngũ Giới Tam Quy (五戒三歸, người Phật tử tại gia trước khi thọ Năm Giới thì phải thọ Ba Phép Quy Y); Bát Giới Tam Quy (八戒三歸, trước khi thọ Bát Quan Trai Giới thì phải thọ Ba Phép Quy Y); Thập Giới Tam Quy (十戒三歸, trước khi thọ Mười Giới để trở thành Sa Di [s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌], Sa Di Ni [s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼] thì phải thọ Ba Phép Quy Y); Cụ Túc giới Tam Quy (, trước khi thọ Cụ Túc giới để trở thành Tỳ Kheo [s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘], Tỳ Kheo Ni [s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼] thì phải thọ Ba Phép Quy Y).
Về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc Quy Y Tam Bảo, Câu Xá Luận (倶舍論) quyển 14 có giải thích rằng người phát tâm Quy Y Tam Bảo thì sẽ vĩnh viễn giải thoát hết thảy các khổ. Trong khi đó, Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章) quyển 10 có nêu ra 3 ý nghĩa khác về việc Quy Y Tam Bảo nhằm:
(1) Vì để xa lìa các điều ác bất thiện của sanh tử;
(2) Vì để cầu xuất thế Niết Bàn;
(3) Vì để lợi ích chúng sanh.
Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn (法界次第門) quyển Thượng cũng cho biết rằng công dụng của việc Quy Y Tam Bảo là để phá Ba Tà, cứu độ Ba Đường (Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh), v.v. Trước khi vào phần chính văn của Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 1, Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận (究竟一乘寶性論) quyển 1, Đại Thừa Khởi Tín Luận (大乘起信論), Phật Địa Kinh Luận (佛地經論) quyển 1, A Tỳ Đàm Tâm Luận (阿毘曇心論), v.v., đều có nêu văn Quy Kính Tam Bảo. Trong Tỳ Ni Thảo Yếu (毘尼討要) quyển 5 có đoạn: “Ngã mỗ giáp tận hình thọ Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng [tam thuyết]; ngã mỗ giáp tận hình thọ Quy Y Phật cánh, Quy Y Pháp cánh, Quy Y Tăng cánh [tam thuyết] (我某甲盡形壽歸依佛、歸依法、歸依僧[三說]、我某甲盡形壽歸依佛竟、歸依法竟、歸依僧竟[三說], con … nguyện suốt đời Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng [ba lần]; con … nguyện suốt đời Quy Y Phật rồi, Quy Y Pháp rồi, Quy Y Tăng rồi [ba lần]).” Bên cạnh đó, trong Thọ Bồ Tát Giới Nghi (授菩薩戒儀) của Trạm Nhiên (湛然) lại có đoạn: “Đệ tử mỗ giáp nguyện tùng kim thân, tận vị lai tế, Quy Y Phật Lưỡng Túc Tôn, Quy Y Pháp Ly Dục Tôn, Quy Y Tăng Chúng Trung Tôn [tam thuyết]; đệ tử mỗ giáp nguyện tùng kim thân, tận vị lai tế, Quy Y Phật cánh, Quy Y Pháp cánh, Quy Y Tăng cánh [tam thuyết] (弟子某甲願從今身、盡未來際、歸依佛兩足尊、歸依法離欲尊、歸依僧眾中尊[三說]、弟子某甲願從今身、盡未來際、歸依佛竟、歸依法竟、歸依僧竟[三說], đệ tử … nguyện từ đời này cho đến cùng tận tương lai, Quy Y Phật Lưỡng Túc Tôn, Quy Y Pháp Ly Dục Tôn, Quy Y Tăng Chúng Trung Tôn [ba lần]; đệ tử … nguyện từ đời này cho đến cùng tận tương lai, Quy Y Phật rồi, Quy Y Pháp rồi, Quy Y Tăng rồi [ba lần]).” Nguyên Không (源空, Genkū), tức Pháp Nhiên (法然, Hōnen, 1133-1212), người khai sáng Tịnh Độ Tông Nhật Bản, có giải thích trong tác phẩm Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集, Senchakuhongannembutsushū) rằng “tận hình thọ (盡形壽, cho đến suốt đời này)” là Tam Quy của Tiểu Thừa; trong khi đó, “tận vị lai tế (盡未來際, cho đến tận cùng tương lai, tức đời sau và nhiều đời sau nữa)” là Tam Quy của Đại Thừa. Trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō No. 2122) quyển 87 còn cho biết rằng: “Vân hà danh vi Tam Quy ? Phật ngôn: 'Thiện nam tử vi phá chư khổ, đoạn trừ phiền não, thọ ư vô thượng tịch diệt chi lạc, dĩ thị nhân duyên thọ Tam Quy Y' (云何名爲三歸、佛言、善男子爲破諸苦、斷除煩惱、受於無上寂滅之樂、以是因緣受三歸依, Thế nào là Ba Phép Quy Y ? Phật dạy: 'Thiện nam tử vì phá các khổ, đoạn trừ phiền não, thọ niềm vui vắng lặng vô thượng, lấy nhân duyên này mà thọ Ba Phép Quy Y).” Riêng trong Thái Thượng Tam Nguyên Từ Bi Thủy Sám (太上三元慈悲水懺) có đề cập đến “Quy Thân, Quy Mạng, Quy Thần (歸身、歸命、歸神)” là Tam Quy Y của Đạo Giáo; và “Đạo, Kinh, Sư (道、經、師)” là Ba Ngôi Báu của họ.
(七箇條制誡, Shichikajōseikai): Bảy Điều Răn Dạy của Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (法然房源空) đối với chúng đệ tử; còn gọi là Thất Cá Điều Khởi Thỉnh Văn (七箇條起請文). Kể từ khi Nguyên Không tuyên xướng nghĩa của Tịnh Độ Tông vào năm 1175 (An Nguyên [安元] nguyên niên) cho đến khi trước tác cuốn Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) vào năm 1198 (Kiến Cửu [建久] thứ 9), ông bắt đầu chính thức công bố xướng đạo; trong vòng 10 năm trường, môn hạ ông tạp lẫn những hạng vô trí bất thiện, bao gồm cả chư tăng của giáo đoàn Phật Giáo cũ; cho nên chân ý của Nguyên Không bị truyền thừa sai lạc khá nhiều; cuối cùng phải chịu hậu quả bị phê phán mãnh liệt từ phía Phật Giáo Nam Đô Bắc Lãnh. Vào tháng 10 năm 1204 (Nguyên Cửu [元久] nguyên niên), đồ chúng của Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) tố cáo lên Tọa Chủ Chơn Tánh (眞性), yêu cầu đình chỉ nhóm Chuyên Tu Niệm Phật. Trước tình huống đó, vào ngày mồng 7 tháng 11, đối với chúng môn đồ lấy hiệu là Niệm Phật Thượng Nhân (念佛上人), Nguyên Không đưa ra 7 điều răn dạy. Nếu ai phản lại những điều này, họ không phải là môn nhân, là quyến thuộc của ma, cấm không được vãng lai thảo am ở vùng Cát Thủy (吉水, Yoshimizu). Ngày hôm ấy, Nguyên Không và đệ tử có 80 người, đến ngày mồng 8 có 61 người, rồi đến ngày mồng 9 có thêm 49 người nữa, tổng cọng là 190 người cùng nhau ký tên vào cuối bản Thất Cá Điều Chế Giới này, và thệ nguyện bảo vệ những điều răn dạy của tôn sư. Nguyên bản hiện được bảo tồn tại Nhị Tôn Viện (二尊院), Kyoto. Có bản đề năm 1824 (Văn Chính [文政] thứ 7). Bản này được thâu lục vào Tịnh Độ Tông Toàn Thư (淨土宗全書) 9, phần Tông Điển Bộ 3 của Quốc Dịch Đại Tạng Kinh (國譯大藏經), Nhật Bản Cổ Điển Toàn Tập (日本古典全集), Pháp Nhiên Thượng Nhân Toàn Tập (法然上人全集) 6, Nhật Bản Tư Tưởng Đại Hệ (日本思想大系) 10.
(靜遍, Jōhen, 1166-1224): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng đầu thời Liêm Thương, húy là Tĩnh Biến (靜遍), hay Tịnh Biến (淨遍), thông xưng là Thiền Lâm Tự Pháp Ấn (禪林寺法印), Đại Nạp Ngôn Pháp Ấn (大納言法印), hiệu là Tâm Viên Phòng (心圓房), Chơn Liên Phòng (眞蓮房), Chơn Vấn Phòng (眞問房); con của quan Đại Nạp Ngôn Bình Lại Thạnh (大納言平賴盛). Ông xuất gia tại Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), rồi thọ nhận Dòng Tiểu Dã (小野流) từ Thắng Hiền (勝賢) của Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji), Dòng Quảng Trạch (廣澤) từ Nhân Long (仁隆) của Nhân Hòa Tự. Sau đó, ông đến trú trì Thiền Lâm Tự (禪林寺, Zenrin-ji). Ông được bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) của Nguyên Không (源空, Genkū) cảm hóa, bèn đến tham bái mộ của vị này, lễ bái làm đệ tử và quy y theo Tịnh Độ Giáo. Ông truyền trao các pháp của mật giáo cho Dòng Tam Bảo Viện (三寶院), và chuyển đến trú tại Vãng Sanh Viện (徃生院) trên Cao Dã Sơn. Đệ tử phú pháp của ông có Đạo Phạm (道範), Thật Hiền (實賢), v.v.
(淨土宗, Jōdo-shū): tông phái tin vào bản nguyện của đức Phật A Di Đà (s: Amitābha, 阿彌陀佛), và tuyên thuyết rằng nhờ xưng danh hiệu của đức Phật ấy mà tất cả chúng sanh đều được vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tịnh Độ (極樂淨土). Vị tông tổ là Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (法然房源空, Hōnenbō Genkū). Tổng Bản Sơn (ngôi chùa tổ) của tông phái này là Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in), hiện tọa lạc tại Higashiyama-ku (東山區), Kyōto-shi (京都市). Vào tháng 3 năm đầu (1175) niên hiệu An Nguyên (安元), khi đang tu hành trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), Nguyên Không nhân đọc được bản Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (觀無量壽經疏) của Thiện Đạo (善導), có được niềm tin sâu xa, nên ông quay về với pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật. Sau đó, ông hạ sơn, chuyển đến Tây Sơn Quảng Cốc (西山廣谷), nhưng không bao lâu sau lại dời về vùng Cát Thủy (吉水, Yoshimuzu), Lạc Đông (洛東, Rakutō) và chuyên tâm bố giáo tại đây. Đến năm thứ 9 (1198) niên hiệu Kiến Cửu (建久), ông soạn bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) để thể hiện lập trường cứu độ kẻ phàm phu, lấy 3 bộ Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經), A Di Đà Kinh (阿彌陀經) cũng như Vãng Sanh Luận (徃生論) của Thế Thân (s: Vasubandhu, 世親) làm kinh luận y cứ cho tông phái, và chọn việc an tâm, khởi hành, tác nghiệp làm phương pháp tu hành. Tư tưởng của ông đã tạo ảnh hưởng to lớn đối với xã hội đương thời. Đặc biệt, nó đã kích động các tông phái của Phật Giáo cũ, làm gia tăng số lượng người ủng hộ pháp môn Niệm Phật và tạo ác cảm không ít. Sự đàn áp từ sự kiện của Trú Liên (住蓮) cũng như An Lạc Phòng Tuân Tây (安樂房遵西) ngày càng trở nên mãnh liệt, dẫn đến đình chỉ Niệm Phật; vì vậy vào năm đầu (1207) niên hiệu Thừa Nguyên (承元), từ Nguyên Không trở xuống cho đến nhóm đệ tử Thân Loan (親鸞, Shinran) đều bị lưu đày (gọi là Pháp Nạn Thừa Nguyên); nhưng từ đó số lượng người ủng hộ như hàng võ sĩ, nông dân lại tăng lên cao hơn. Vào năm thứ 2 (1212) niên hiệu Kiến Lịch (建曆), khi Nguyên Không qua đời, vị môn hạ trưởng lão Pháp Liên Phòng Tín Không (法蓮房信空) lên kế thừa, muốn thống lãnh giáo đoàn, nên về mặt đối ngoại ông đã tạo sự luận tranh đối kháng với vị tổ của Trường Lạc Tự (長樂寺, Chōraku-ji) là Long Khoan (隆寬). Chính vì vậy, giáo đoàn gặp Pháp Nạn Gia Lộc (嘉祿法難), miếu thờ của Nguyên Không bị phá hoại, Long Khoan thì bị lưu đày đến địa phương Lục Áo (陸奥, Mutsu); nhưng kết quả việc này đã tạo sự khích lệ vô cùng to lớn cho sự phát triển Tịnh Độ Giáo ở vùng Quan Đông (關東, Kantō). Dòng phái của Long Khoan vốn chủ trương Đa Niệm Nghĩa (多念義) thì được nhóm Trí Khánh (智慶) thọ dung; riêng Hạnh Tây (幸西), người chủ trương Nhất Niệm Nghĩa (一念義), thì bị lưu đày đến Nhất Khi (壱岐), nhưng lại được nhóm Minh Tín (明信) ủng hộ. Dòng phái của Trường Tây (長西), người chủ trương Chư Hạnh Bổn Nguyện Nghĩa (諸行本願義) cũng hưng thạnh một thời, nhưng dần dần suy tàn. Mặt khác, vị tổ của môn đồ vùng Tử Dã (紫野, Murasakino) là Nguyên Trí (源智) lại khuyến khích triển khai hoạt động báo ân cho Nguyên Không, tạc bức tượng Phật A Di Đà (hiện an trí tại Ngọc Quế Tự [玉桂寺] thuộc Shiga-ken) để kết duyên với mọi người, nỗ lực phục hưng Tri Ân Viện và có được số lượng tín đồ khá đông. Bên cạnh đó, Chứng Không (証空), vị tổ của Tây Sơn Nghĩa (西山義), thì hoạt động dựa trên bối cảnh thế lực của Từ Viên (慈圓), làm cho Tịnh Độ Giáo thẩm thấu vào trong tầng lớp võ sĩ và quý tộc. Như vậy, sau khi Nguyên Không qua đời, giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật đã phân hóa thành từng nhóm khác nhau và trở thành thời đại không thống nhất về mặt chính trị cũng như tổ chức giáo đoàn. Lương Trung (良忠), đệ tử của Biện Trường (辨長)—vị tổ của Trấn Tây Nghĩa (鎭西義) vốn hoạt động ở vùng Cửu Châu (九州, Kyūshū), đã đi qua vùng kinh đô Kyōto, Tín Nùng (信濃, Shinano), xuống Quan Đông (關東, Kantō), được cả dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba) quy y theo và giáo hóa khắp các nơi; nhưng trở thành bất hòa từ vấn đề kinh tế tại đây nên ông tiến về vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), được Đại Phật Triêu Trực (大佛朝直) quy y theo, sáng lập Ngộ Chơn Tự (悟眞寺) và xác lập cơ sở ở địa phương này. Ngay như tu sĩ của các tông phái khác cũng tín nhiệm ông, nên ông rất nổi tiếng; nhưng vì cao tuổi và để sửa đổi lại những điều không thống nhất trong giáo nghĩa Tịnh Độ Tông, ông xuống Kyōto và cùng hòa hợp với Tín Huệ (信慧), đệ tử của Nguyên Trí (源智). Từ đó, ông thống nhất với môn đồ vùng Tử Dã, tạo thành cứ địa cho Dòng Trấn Tây Chánh Thống. Sau khi Lương Trung qua đời, Lương Hiểu (良曉) của Bạch Kỳ Phái (白旗派), Tánh Tâm (性心, tức Tánh Chơn [性眞]) của Đằng Điền Phái (藤田派), Tôn Quán (尊觀) của Danh Việt Phái (名越派, cả ba được gọi là Ba Phái Quan Đông), Nhiên Không (然空) của Nhất Điều Phái (一條派), Đạo Quang (道光) của Tam Điều Phái (三條派), Từ Tâm (慈心) của Mộc Phan Phái (木幡派, cả ba được gọi là Ba Phái Kinh Đô) phân hóa rõ rệt, mỗi người tự nỗ lực mở rộng giáo tuyến cho giáo phái mình. Khi chủ trương này càng lúc càng mạnh mẽ, ba đời của Tịnh Độ Tông gồm Nguyên Không, Biện Trường, Lương Trung càng được xác định rõ và Dòng Trấn Tây trở thành dòng phái chính của Tịnh Độ Tông. Riêng cuộc luận tranh giữa Danh Việt Phái và Bạch Kỳ Phái vẫn tiếp diễn cho đến thời đại Minh Trị (明治, Meiji). Danh Việt Phái lấy Fukushima-ken (福島縣) làm cứ địa để mở rộng giáo tuyến ở vùng đông bắc, còn Bạch Kỳ Phái thì mở rộng bố giáo ở trung tâm vùng Quan Đông. Đặc biệt, đến thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi), có vị học tăng Tây Liên Xã Liễu Dự Thánh Quynh (西蓮社了譽聖冋) xuất hiện, đưa ra thuyết Ngũ Trùng Tương Truyền (五重相傳) để hệ thống hóa lại toàn bộ huyết mạch cũng như giáo nghĩa và tạo quyền uy đối với các tông phái khác. Sau đó, đệ tử ông là Đại Liên Xã Tây Dự Thánh Thông (大蓮社西譽聖聰) đã sáng lập Tăng Thượng Tự (増上寺) để nuôi dưỡng nhân tài. Hành Liên Xã Đại Dự Khánh Trúc (行蓮社大譽慶竺), đệ tử của Thánh Thông, tiến về kinh đô Kyōto và trú tại Tri Ân Tự (知恩寺, Chion-ji). Nhóm đệ tử của Thông Liên Xã Thán Dự Lương Triệu (聰蓮社嘆譽良肇), người khai sáng Hoằng Kinh Tự (弘經寺) ở Phạn Chiểu (飯沼), tiến về địa phương Tam Hà (三河, Mikawa), sáng lập Đại Ân Tự (大恩寺, Daion-ji), Đại Thọ Tự (大樹寺, Daijū-ji), Tín Quang Minh Tự (信光明寺, Shinkōmyō-ji), lấy những nơi này làm bàn đạp tiến về kinh đô Kyōto; cuối cùng Bạch Kỳ Phái làm chủ thế lực chiếm cứ toàn bộ vùng này. Sau đó, Tri Ân Viện và Tri Ân Viện tranh giành ngôi vị chủ tôn. Tịnh Hoa Viện (淨華院), căn cứ địa của Dòng Nhất Điều, được sự hộ trì của dòng họ Vạn Lý Tiểu Lộ (萬里小路) và trở nên hưng thịnh, nhưng lại bị quý tộc hóa. Trong lúc đó, Lương Như (良如)—đệ tử của Kính Pháp (敬法)—cũng tận lực giáo hóa hàng thứ dân ở địa phương Việt Tiền (越前, Echizen), còn Long Nghiêu (隆堯)—đệ tử của Định Huyền (定玄)—thì giáo hóa tại vùng Cận Giang (近江, Ōmi) và mở rộng giáo tuyến của họ. Như vậy, Tịnh Độ Tông đã được tổ chức hóa về mặt giáo nghĩa, tại các địa phương đều hình thành cơ sở hoạt động, nhưng không thống nhất. Nhân vật tổng hợp thống nhất toàn bộ những thế lực phân tán như vậy là Trinh Liên Xã Nguyên Dự Tồn Ứng (貞蓮社源譽存應), người từng lấy quyền lực của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) làm thế lực. Tồn Ứng chế ra Chế Độ Đàn Lâm (檀林制度), dựa trên Pháp Độ Nguyên Hòa (元和法度, các pháp độ của Tịnh Độ Tông) để xác lập Chế Độ Bản Mạt (本末制度, chế độ chùa tổ chùa con) và lập ra giáo đoàn mang tính hữu cơ. Tuy nhiên, dần dần nảy sinh hiện tượng sa đọa, phóng túng và thế tục hóa trong giáo đoàn. Đến thời Trung Kỳ của thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), lại xuất hiện những vị tăng xa lìa thế tục như Đàn Thệ (彈誓), Tồn Dịch (存易), cuộc vận động hành trì giới luật của nhóm Linh Đàm (靈潭) cũng bộc phát và đã đem lại tính cách cách tân cho giáo đoàn. Về mặt giáo học, có nhóm Lương Định (良定), Văn Hùng (文雄) xuất hiện, tạo sự chú tâm của mọi người, nhưng cuối cùng cũng không có ảnh hưởng nào. Khi chính phủ Duy Tân (維新) ra đời, giáo đoàn đã gặp phải làn sóng Phế Phật Hủy Thích. Chế Độ Tri Ân Viện Môn Tích (知恩院門跡制度) bị phế chỉ và phải chịu biết bao thử thách đồng dạng với các tông phái khác. Tuy nhiên, nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của nhóm Phước Điền Hành Giới (福田行誡), giáo đoàn đã vượt qua thời kỳ hỗn loạn. Đến hậu bán thời đại Minh Trị (明治, Meiji), Tịnh Độ Tông đã xác lập thể chế với tư cách là giáo đoàn cận đại. Về mặt học vấn, có những học giả lãnh đạo giới Phật Giáo Học như Vọng Nguyệt Tín Hanh (望月信亨), Độ Biên Hải Húc (渡邊海旭) xuất hiện, đã tạo nên thời đại hoàng kim của Tịnh Độ Tông từ niên hiệu Đại Chánh (大正, Taishō, 1912-1926) đến Chiêu Hòa (昭和, Shōwa, 1926-1989). Ngoài ra, cuộc vận động tín ngưỡng bắt đầu dấy khởi như Cọng Sanh Hội (共生會) của Chuy Vĩ Biện Khuông (椎尾辨匡), Quang Minh Hội (光明會) của Sơn Khi Biện Vinh (山崎辨榮), v.v., tập trung sự quan tâm của đa số quần chúng. Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, phát sanh vấn đề độc lập phân phái trong Tịnh Độ Tông và cuối cùng vào năm thứ 36 (1961) niên hiệu Chiêu Hòa thì tông phái này đã thống nhất thành một thể. Hiện tại theo bản Tôn Giáo Niên Giám (宗敎年鑑, năm 1997) của Bộ Văn Hóa Nhật Bản, còn lại các phái như sau: Tịnh Độ Tông (淨土宗) có 7080 ngôi chùa, Tịnh Độ Tông Trấn Tây Thâm Thảo Phái (淨土宗鎭西深草派) có 283 ngôi chùa, Tịnh Độ Tông Tây Sơn Thiền Lâm Tự Phái (淨土宗西山禪林寺派) có 372 ngôi chùa, và Tây Sơn Tịnh Độ Tông (西山淨土宗) có 603 ngôi chùa. Một số ngôi tự viện trung tâm, nổi tiếng của tông phái này có Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in, Kyōto-shi); Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji, Kyōto-to); Kim Giới Quang Minh Tự (金戒光明寺, Konkaikōmyō-ji, Kyōto-shi); Bách Vạn Biến Tri Ân Tự (百萬遍知恩寺, Hyakumanbenchion-ji, Kyōto-shi); Thanh Tịnh Hoa Viện (清淨華院, Shōjōkein, Kyōto-shi); Thiện Đạo Tự (善導寺, Zendō-ji, Fukuoka-ken); Quang Minh Tự (光明寺, Kōmyō-ji, Kanagawa-ken); Thiện Quang Tự (善光寺, Zenkō-ji, Nagano-ken); Thiền Lâm Tự (禪林寺, Zenrin-ji, Kyōto-shi); Thệ Nguyện Tự (誓願寺, Seigan-ji, Kyōto-shi), v.v.
(摧邪輪, Zaijarin): thư tịch phản luận lại bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) do Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (源空) soạn, do Minh Huệ Phòng Cao Biện (明惠房高辨) trước tác, gồm 3 quyển; thành lập vào ngày 23 tháng 11 năm 1212 (Kiến Lịch [建曆] nhị niên). Vào ngày 22 tháng 6 năm sau, bản Tồi Tà Luân Trang Nghiêm Ký (摧邪輪莊嚴記), 1 quyển, bổ túc về sở luận của bộ này, được hình thành. Tên gọi đầy đủ của bộ này là Ư Nhất Hướng Chuyên Tu Tuyển Trạch Tập Trung Tồi Tà Luân (於一向專修選擇集中摧邪輪). Từ lập trường của Cao Biện, thư tịch này đã phê phán những ý nghĩa sai lầm từ trong Tuyển Trạch Tập (選擇集) và nêu lên 2 luận điểm chính. Thứ nhất là sai lầm triệt bỏ đi Bồ Đề Tâm, thứ hai là sai lầm tỷ dụ Thánh Đạo Môn như lũ giặc. Ngoài ra, còn có 5 diều sai lầm khác nữa. Nếu nhìn từ yếu chỉ tông môn của Cao Biện, Bồ Đề Tâm là căn bản cầu Phật đạo và không khác với tín tâm trong Tịnh Độ Giáo. Trong Hoa Nghiêm Kinh, Bồ Đề Tâm được đặc biệt tuyên xướng; cho nên đương nhiên khi xem Tuyển Trạch Tập, Cao Biện đã dùng lời lẽ rất mãnh liệt để phê phán. Tả bản có Bản Nhân Hòa Tự (仁和寺本, quyển Thượng và Trung thuộc thời đại Liêm Thương) và bản của Cao Dã Sơn Đại Học Đồ Thư Quán (高野山大學圖書館). San bản lưu hành ghi năm 1626 (Khoan Vĩnh [寛永] thứ 3).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập