Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tùy duyên »»
(高沙彌, Kōshami, ?-?): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, môn hạ thuộc dòng Thanh Nguyên, pháp từ của Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼), không rõ xuất xứ ở đâu. Sau khi từ giã thầy, ông đến trú tại một thảo am, thường ngày tiếp đón khách vãng lai và Tùy duyên hóa độ.
(眞相): tức bản tướng (本相, hình tướng gốc), thật tướng (實相, hình tướng thật), bản lai diện mục (本來面目, mặt mũi xưa nay) của sự vật, vạn pháp. Trong Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh Chú Giải (楞伽阿跋多羅寶經註解, Taishō Vol. 39, No. 1789) quyển 1 định nghĩa rằng: “Chơn tướng giả, Tùy duyên bất biến, thể tánh chơn tịnh dã (眞相者、隨緣不變、體性眞淨也, chơn tướng là Tùy duyên không thay đổi, thể tánh trong sạch).” Hay trong Tục Thanh Lương Truyện (續清涼傳, Taishō Vol. 51, No. 2100) quyển Hạ có đoạn: “Thứ nhật, cúng dường chơn dung cập chư Thánh tượng dĩ; ngọ hậu, hiện Bồ Tát đại chơn tướng, ư bạch vân chi đoan (次日、供養眞容及諸聖像己、午後、現菩薩大眞相、於白雲之端, ngày hôm sau, khi cúng dường chơn dung và các tượng Thánh xong; sau buổi trưa, hiện hình tướng thật to lớn của Bồ Tát, nơi đầu đám mây trắng).” Hoặc trong Vi Lâm Thiền Sư Lữ Bạc Am Cảo (爲霖禪師旅泊菴稿, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1442) quyển 4, bài Thế Tôn Chiên Đàn Thụy Tượng Tán (世尊旃檀瑞像贊), lại có câu: “Như Lai chơn tướng nguyên vô tướng, xảo tượng như hà khắc đắc thành (如來眞相原無相、巧匠如何刻得成, Như Lai chơn tướng vốn không tướng, thợ khéo làm sao khắc được thành).”
(s: Cundi, t: bskul-bye-kma, 準提): âm dịch là Chuẩn Đề (准提、准胝), Chuẩn Nê (准泥), ý dịch là thanh tịnh, còn gọi là Chuẩn Đề Quan Âm (准提觀音), Chuẩn Đề Phật Mẫu (准提佛母), Phật Mẫu Chuẩn Đề (佛母准提), Thiên Nhân Trượng Phu Quan Âm (天人丈夫觀音), Thất Câu Chi Chuẩn Đề Đại Phật Mẫu (七俱胝準提大佛母); là vị Bồ Tát thường xuyên hộ trì Phật pháp, hộ mạng và làm cho những người đoản mạng được sống lâu; có sự cảm ứng rất lớn, trí tuệ cũng như phước đức của Ngài thì vô lượng. Bên cạnh đó, Ngài còn được sùng tín để cầu tiêu trừ tai nạn, cầu con, trừ tật bệnh, v.v., Tùy duyên hóa hiện để cứu độ chúng sanh, làm cho thế gian và xuất thế gian tròn đầy hết thảy sự cầu nguyện. Trong Thiền Tông của Trung Quốc và Nhật Bản, Ngài được xem như là một trong những đấng chủ tôn của Quan Âm Bộ. Đặc biệt Thai Mật của Nhật Bản lấy Chuẩn Đề nhập vào Phật Mẫu, trở thành một trong những đối tượng tôn thờ của Phật bộ. Còn Đông Mật của Nhật Bản xem Chuẩn Đề là một trong 6 Quan Âm (Thiên Thủ Quan Âm, Thánh Quan Âm, Mã Đầu Quan Âm, Thập Nhất Diện Quan Âm, Chuẩn Đề Quan Âm, Như Ý Luân Quan Âm) của Liên Hoa Bộ. Ngài là thân ứng hóa của Quan Âm, phân nhập vào trong Sáu Đường để cứu độ chúng sanh. Ngài được an trí tại Biến Tri Viện (遍知院) của Hiện Đồ Thai Tạng Giới, hình tượng thường có 3 mắt với 2 tay, 4 tay, 6 tay, 8 tay, hay 18 tay, v.v. Trong Phật Thuyết Thất Câu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh (佛說七俱胝佛母心大准提陀羅尼經) có thuật lại rằng khi ở tại Vườn Cấp Cô Độc (給孤獨園), thuộc nước Xá Vệ (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛), đức Phật tư duy quán sát, thương tưởng các chúng sanh trong đời tương lai, nên tuyên thuyết “Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Chuẩn Đề Đà La Ni Pháp (七俱胝佛母心准提陀羅尼法)”, tức là Chuẩn Đề Chú (準提咒) được các tín đồ Phật Giáo thường trì tụng. Bản tiếng Sanskrit của thần chú này là: “Namaḥ saptānāṃ samyaksaṃbuddha-koṭīnāṃ tad yathā. Oṃ cale cule cundi svāhā.”; âm Hán dịch theo bản Thất Câu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh (七倶胝佛母所說准提陀羅尼經) của Bất Không (不空) dịch là: “Na mạc tát đa nam tam miệu tam một đà cu chi nam đát nhĩ dã tha, án, giả lễ chủ lễ chuẩn nê ta phạ ha (娜莫颯多南三藐三没駄倶胝南怛儞也他唵者禮主禮准泥娑嚩訶)”; nghĩa là “Con xin quy y theo đức Phật Chánh Đẳng Giác Thất Câu Chi (vạn ức). Tức là, Oṃ (Án). Hỡi đấng chuyển động quanh ! Hỡi đấng trên đảnh đầu ! Hỡi đức Chuẩn Đề ! Svāhā (ta phạ ha) !” Thần chú này được xem như là vua trong các thần chú, vì uy lực gia trì của nó không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng của nó thì rất nhanh và mãnh liệt. Người trì tụng thần chú này có thể cầu được thông minh, trí tuệ, biện luận lanh lợi; chồng vợ thương kính nhau, khiến cho người khác sanh tâm kính mến; cầu được con nối dõi, kéo dài mạng sống, trị lành các bệnh tật, diệt trừ tội chướng; cầu được trời mưa, rời xa giam cầm, thoát khỏi nạn ác quỷ, ác tặc, v.v. Chuẩn Đề Phật Mẫu còn có 8 vị Bồ Tát là quyến thuộc, như Quán Tự Tại Bồ Tát (觀自在菩薩), Di Lặc Bồ Tát (彌勒菩薩), Hư Không Tạng Bồ Tát (虛空藏菩薩), Phổ Hiền Bồ Tát (普賢菩薩), Kim Cang Thủ Bồ Tát (金剛手菩薩), Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (文殊師利菩薩), Trừ Cái Chướng Bồ Tát (除蓋障菩薩) và Địa Tạng Bồ Tát (地藏菩薩).
(華亭德誠, Katei Tokusei, ?-?): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, môn hạ dòng Thanh Nguyên, không rõ xuất xứ ở đâu. Ông theo hầu Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼) trong vòng 30 năm rồi kế thừa dòng pháp của vị này. Sau đó, ông đến vùng Hoa Đình (華亭), Tú Châu (秀州, Tỉnh Triết Giang), sống bằng một chiếc thuyền con, hằng ngày đưa người qua sông và Tùy duyên thuyết pháp hóa độ. Người đương thời gọi ông là Thuyền Tử Hòa Thượng (船子和尚). Ông truyền pháp lại cho Giáp Sơn Thiện Hội (夾山善會) rồi tự mình phiêu lãng với con thuyền và biến mất trong sương khói.
(s: sīmā-bandha, bandhaya-sīman, 結界): âm dịch là Bạn Đà Dã Tử Mạn (畔陀也死曼), tức nương vào tác pháp mà quy hoạch một khu vực nhất định nào đó; hay y cứ vào pháp gọi là Bạch Nhị Yết Ma (白二羯磨), tùy nơi chỗ mà hoạch định giới vức để giúp cho tăng chúng không vi phạm lỗi biệt chúng (別眾, tách khỏi chúng), ly túc (離宿, lìa xa 3 y và nghĩ lại qua đêm ở một nơi nào đó), túc chử (宿煮, ở lại qua đêm và nấu ăn), v.v. Về phạm vi kết giới, các bộ Luật đều thuyết khác nhau; nay theo Tứ Phần Luật (四分律) thì đại thể có 3 loại: Nhiếp Tăng Giới (攝僧界), Nhiếp Y Giới (攝衣界) và Nhiếp Thực Giới (攝食界). (1) Nhiếp Tăng Giới nghĩa là chư Tỳ Kheo tập trung tại một nơi để tiến hành Bố Tát (s: poṣadha, upavasatha, upoṣadha, upavāsa; p: uposatha, posatha, 布薩), v.v.; được phân thành Tự Nhiên Giới (自然界) và Tác Pháp Giới (作法界). Tự Nhiên Giới, còn gọi là Bất Tác Pháp Giới (不作法界), là khu vực không cần phải quy định đặc biệt nào, mà chỉ căn cứ vào địa hình để hoạch định. Trong Tự Nhiên Giới lại được chia thành 4 loại là: (a) Tụ Lạc Giới (聚落界, khu vực làng xóm, tụ lạc), tụ lạc (làng xóm) ở đây có hai loại là tụ lạc có thể phân biệt và tụ lạc không thể phân biệt. Theo thuyết của Thập Tụng Luật (十誦律), trường hợp tụ lạc có thể phân biệt thì lấy một tụ lạc làm giới vức. Trong khi đó, theo thuyết của Ma Ha Tăng Kỳ Luật (摩訶僧祇律), trường hợp tụ lạc không thể phân biệt thì lấy 63 bộ (một bộ là 6 thước) làm giới vức. (b) Lan Nhã Giới (蘭若界). Nếu không có người mắng pháp phản đối, thì đây là giới vức của nơi nhàn tĩnh, yên lắng; cách cự ly với tụ lạc là một Câu Lô Xá (s: krośa, p: kosa, 拘盧舍, có thuyết cho là tương đương với 600 bộ; Tạp Bảo Tạng Kinh [雜寶藏經] cho là 5 dặm). Trường hợp nếu có người mắng pháp phản đối, thì giới hạn trong vòng 58 bộ (Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa [善見律毘婆沙] cho là tương đương với 7 Bàn Đà [槃陀, đơn vị đo lường của Ấn Độ, một Bàn Đà tương đương 28 khuỷu tay]). Những người phản đối thì tự tác pháp Yết Ma ngoài phạm vi này. (c) Đạo Hành Giới (道行界), khi vị tỳ kheo đi du hành, có thể tùy theo nơi mình ở mà lấy ngang dọc một Câu Lô Xá làm giới vức. Trong phạm vi này thì không được ăn riêng, Bố Tát riêng. (d) Thủy Giới (水界), tức là kết giới trên tàu thuyền khi rời khỏi đất liền. Tác Pháp Giới thì được phân thành 3 loại: (a) Đại Giới (大界), có các trường hợp người và pháp cùng nhau, pháp và thức ăn cùng nhau, pháp giống mà thức ăn khác. Trong đó, trường hợp người và pháp cùng nhau làm chủ, còn hai loại kia Tùy duyên mà khai mở riêng. Người cùng nhau nghĩa là cùng chung một trú xứ, cùng chung một khu vực thuyết giới. Pháp cùng nhau nghĩa là mỗi nữa tháng cùng nhau tập trung tại một trú xứ để tiến hành pháp Bố Tát, thuyết giới. Phạm vi của Đại Giới lấy ngoại giới của một ngôi già lam nào đó làm giới hạn nhỏ nhất, rộng đến 10 dặm cho đến 100 dặm. Kết Đại Giới này với mục đích vào lúc chư tăng thuyết giới, v.v., khiến cho tăng chúng trong một khu vực rộng lớn tập trung lại, không ai trái phạm. Phàm Đại Giới nên lấy những sự vật có thể thấy rõ ở địa phương đó như núi, sông, cây cối, v.v., làm ranh giới; đó gọi là giới tướng (界相). Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 17 có nêu ra 8 loại giới tướng là sơn tướng (山相, hình dạng núi), thạch tướng (石相, hình dạng tảng đá), lâm tướng (林相, hình dạng khu rừng), thọ tướng (樹相, hình dạng cây), lộ tướng (路相, hình dạng con đường), giang tướng (江相, hình dạng dòng sông), nghị phong tướng (蟻封相, hình dạng ranh giới đàn kiến), thủy tướng (水相, hình dạng dòng nước). Về hình trạng của Đại Giới, các bộ Luật thuyết bất đồng. Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa quyển 17 lấy 5 loại hình vuông, hình tròn, hình trống, hình bán nguyệt và hình tam giác làm 5 tướng kết giới. Ngoài ra, khi kết Đại Giới, sau khi chúng tăng tập trung trong phạm vi giới tướng, vị tăng sống lâu tại đó nên tuyên xướng giới tướng của bốn phương mà tuyên bố rằng: “Đồng nhất trú xứ, đồng nhất thuyết giới để làm kết giới.” Nghi thức này được gọi là xướng giới tướng. (b) Giới Trường (戒塲), trường hợp trong tăng chúng có người phạm giới, tiến hành pháp sám hối, hay thọ giới, v.v., cần phải hợp đủ chúng 4 người cho đến 20 người; để tránh làm cho tăng mệt mỏi, đặc biệt kết Giới Trường hình 4 phương, gọi là tứ phương giới tướng (四方界相, giới tướng bốn phương). Giới Trường này có thể chứa tối thiểu 20 người. Theo Giới Trường của Ấn Độ, nguyên là nơi vùng đất trống; trong phạm vi ấy không được lập phòng tăng, nhưng có thể dựng điện Phật cũng như cây Bồ Đề. Hơn nữa, vì Giới Trường là nơi truyền trao giới pháp, nên chủ yếu cần phải thô sơ, đơn giản. Ban đầu, Giới Trường được kết ở ngoài Đại Giới, về sau, do vì nạn cướp bóc, nên được phép kết trong phạm vi Đại Giới. Về thứ tự kết giới, trước kết Giới Trường, sau kết Đại Giới. Nếu như đã kết Đại Giới rồi, thì phải giải bỏ Đại Giới, kết lại Giới Trường, rồi mới kết Đại Giới. Nếu Đại Giới và Giới Trường cùng kết, khi giải giới thì phải trước giải Đại Giới rồi kế đến Giới Trường; không được đảo lộn thứ tự. (c) Tiểu Giới (小界), sợ các Tỳ Kheo ác ở trong gây trở ngại mà rút lui, phế bỏ pháp sự, nên đặc biệt giới hạn trong thời gian nào đó, kết một giới vức tạm thời. Loại này được chia thành 3 tùy theo trường hợp thọ giới, thuyết giới, Tự Tứ. Bên cạnh đó, Tiểu Giới còn được kết tạm thời khi gặp già nạn, không có giới hạn về phạm vi, hình trạng, v.v. Cho nên, không giống như tác pháp lâu dài của Đại Giới và Giới Trường, mà khi việc hoàn thành thì tiến hành giải giới ngay. Nói chung, trong phần Tự Nhiên Giới của Nhiếp Tăng Giới, tùy theo xứ sở mà nói, có 4 loại bất đồng; tùy theo phạm vi lớn nhỏ mà nói, có 6 loại khác nhau. Đại Giới, Tiểu Giới trong Tác Pháp Giới đều có 3 loại, lại cọng thêm Giới Trường, thành 7 giới. (2) Nhiếp Y Giới, còn gọi là Bất Thất Y Giới (不失衣界), Bất Ly Y Túc Giới (不離衣宿界); tức là hoạch định một phạm vi nào đó để tránh cho các Tỳ Kheo vi phạm sai lầm về việc ly túc (離宿). Ly túc ở đây có nghĩa là chỉ việc Tỳ Kheo xa lìa 3 y của mình mà trú qua đêm ở nơi khác. Nếu đã hoạch định một phạm vi nào đó, trong phạm vi ấy vị Tỳ Kheo có thể khôn cần phải mang theo 3 y thường xuyên. Điều thứ 2 trong 30 pháp Xả Đọa (s: naiḥsargika-prāyaścittika,p: nissaggiya pācittiya, 捨墮, âm dịch là Ni Tát Kì Ba Dạ Đề [尼薩耆波夜提]) của Ba La Đề Mộc Xoa (s: prātimokṣa, pratimokṣa,p: pātimokkha, pāṭimokkha, 波羅提木叉, ý dịch là Tùy Thuận Giải Thoát [隨順解脫], Xứ Xứ Giải Thoát [處處解脫], v.v.) có quy định về việc ly túc này. Loại Nhiếp Y Giới này cũng được phần thành 2 loại là Tự Nhiên Giới và Tác Pháp Giới. (3) Nhiếp Thực Giới, tức quy định kết giới nơi cất chứa thức ăn, là giới vức có thể nấu nướng thức ăn, giúp cho vị Tỳ Kheo không phạm phải lỗi gọi là túc chử. Vùng đất được quy định được gọi là tịnh địa (淨地), hay tịnh trù (淨廚). Nếu trong phạm vi này mà nấu nướng thì không phạm tội này. Thực tế tác pháp của Nhiếp Thực Giới được chia thành hai loại là Thông Kết (通結, kết giới chung) và Biệt Kết (別結, kết giới riêng). Như muốn giải trừ kết giới nói trên, thì khi kết giới, cũng phải nên trãi qua tác pháp gọi là Bạch Nhị Yết Ma (s: jñaptidvitiyā-karmavacanā, 白二羯磨, tức một lần thưa bạch và một lần Yết Ma) rồi mới có thể giải trừ. Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký (四分律行事鈔資持記, Taishō Vol. 40, No. 1805) quyển Thượng giải thích rằng: “Y Giới giả, nhiếp y dĩ thuộc nhân, linh vô ly túc tội; Thực Giới giả, nhiếp thực dĩ chướng tăng, linh vô túc chử tội; Tăng Giới giả, nhiếp nhân dĩ đồng xứ, linh vô biệt chúng tội (衣界者、攝衣以屬人、令無離宿罪、食界者、攝食以障僧、令無宿煮罪、僧界者、攝人以同處、令無別眾罪, Nhiếp Y Giới là giữ gìn y luôn đi theo bên người, khiến cho không phạm tội ly túc; Nhiếp Thực Giới là giữ gìn thức ăn để ngăn chận chư tăng [khỏi sai phạm], khiến cho không phạm tội túc chử; Nhiếp Tăng Giới là giữ gìn mọi người cùng một trú xứ, khiến cho không phạm tội biệt chúng).” Trong Luật Học Phát Nhận (律學發軔, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1125) quyển Trung, phần Kết Giới (結界), có đoạn: “Tỳ Kheo trú xứ, tiên đương kết giới, cái Yết Ma, thuyết giới, thọ giới, trị tội đẳng sự, tất y giới lập; nhược vô giới, tắc chư pháp giai bất năng thành tựu dã (比丘住處、先當結界、蓋羯磨、說戒、授戒、治罪等事、悉依界立、若無界、則諸法皆不能成就也, trú xứ của Tỳ Kheo, trước phải kết giới, phàm các việc như Yết Ma, thuyết giới, truyền trao giới, trị tội, v.v., đều nương vào giới vức mà lập; nếu không giới vức, thì các pháp đều không thể thành tựu vậy).” Bên cạnh đó, kết giới còn có nghĩa là nữ nhân kết giới (女人結界), tức cấm chỉ người nữ ra vào khu vực quy định. Kết giới cũng chỉ cho phạm vi nội trận (內陣, bộ phận chính giữa an trí tượng Phật) và ngoại trận (外陣, chỉ chu vi của nội trận, hay phần bên ngoài khu vực tham bái) trong Chánh Điện thờ Phật. Ngoài ra, đây cũng chỉ cho pháp kết giới của Mật Giáo. Đối với Mật Giáo, khi tu pháp, để phòng ngừa ma chướng xâm nhập, một địa khu được hoạch định để bảo vệ cho đạo tràng và hành giả; đó gọi là kết giới hay kết hộ (結護, ý là kết giới hộ thân). Pháp kết giới của Mật Giáo có nhiều loại khác nhau. Theo Bất Không Quyên Sách Thần Biến Chơn Ngôn Kinh (不空罥索神變眞言經, Taishō Vol. 20, No. 1092) quyển 2, Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 1, v.v., có thể lấy hạt cải trắng, rãi bốn phương trên dưới để kết giới. Tô Tất Địa Yết La Kinh (蘇悉地羯羅經, Taishō Vol. 18, No. 893b) quyển Hạ, Phẩm Cúng Dường (供養品), thì lấy giới vức địa phương, hư không, tường Kim Cang, thành Kim Cang, v.v., mà kết giới chơn ngôn. Thông thường, kết giới thường dùng của pháp tu Mật Giáo phần lớn y cứ chuẩn vào thuyết của Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 3, Cam Lộ Quân Trà Lợi Bồ Tát Cúng Dường Niệm Tụng Thành Tựu Nghi Quỹ (甘露軍荼利菩薩供養念誦成就儀軌, Taishō Vol. 21, No. 1211), v.v., được phân thành 5 loại như sau: (1) Địa Kết (地結), còn gọi là Kim Cang Quyết (金剛橛), tức là dựng một cây cọc nơi đại địa, gốc cọc đó hoặc bảo là đến tận cùng Kim Luân (s: kāñcana-maṇḍala, 金輪), hay đến tận cùng Thủy Luân (s: jala-maṇḍala, 水輪), v.v., là pháp thứ 6 trong 18 đạo Khế Ấn (契印). (2) Tứ Phương Kết (四方結), còn gọi là Kim Cang Tường (金剛牆), tức lấy bốn phương làm giới vức để kết giới, là pháp thứ 7 trong 18 đạo Khế Ấn. (3) Hư Thất Võng (虛室網), còn gọi là Kim Cang Võng (金剛網); tức lấy lưới Kim Cang giăng ra giữa hư không, mép lưới rũ lên đàn Kim Cang, là pháp thứ 14 trong 18 đạo Khế Ấn. (4) Hỏa Viện (火院), còn gọi là Kim Cang Viêm (金剛炎), lấy lửa cháy rực xoay nhiễu quanh bốn góc hư không, có thể giúp đuổi lui chướng nạn của ma Ba Tuần (s: Māra-pāpman, 波旬), là pháp thứ 15 trong 18 đạo Khế Ấn. (5) Đại Tam Muội Da (大三昧耶), là tổng kết giới ngoại trừ Hỏa Viện vừa nêu trên.
(二入四行論, Ninyūshigyōron): 1 quyển, tác phẩm được xem như là của Đàm Lâm (曇琳, ?-?), đệ tử của Đạt Ma, ghi lại những giáo thuyết và ngôn hạnh của thầy mình cũng như các nhân vật thời kỳ đầu của Thiền Tông. Nó được trích dẫn trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) của Đạo Tuyên (道宣) và các bản của Đôn Hoàng cũng như Triều Tiên rất nổi tiếng. Bản Đôn Hoàng có S2715, S3375, S7159, P2923, P3018, P4634, P4795. Ngoài ra còn có Bồ Đề Đạt Ma Tứ Hành Luận (菩提達摩四行論) được thâu tập vào trong Thiền Môn Toát Yếu (禪門撮要). Bên cạnh đó, Nhị Nhập Tứ Hành Thuyết còn được thâu lục trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) 16, Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記), Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) 30, Thiếu Thất Lục Môn (少室六門). Nội dung của nó giới thiệu tổng quát con đường dẫn đến giác ngộ thông qua Lý Nhập (理入, lý luận) và Hành Nhập (行入, thật tiễn). Hành Nhập được chia giải thích làm 4 loại, cho nên Lý Nhập là niềm tin cho rằng “thông qua phép quán [bích quán], nếu trừ bỏ được lớp bụi làm che mờ chân tánh vốn sẵn có trong con người thì chân tánh ấy sẽ hiển hiện”. Bốn loại Hành Nhập gồm Báo Oán Hành (報怨行, chấp nhận cái khổ của đời này là kết quả của nghiệp quá khứ), Tùy duyên Hành (隨緣行, sự vui sướng cũng là nhân duyên quá khứ, không đặt thành vấn đề), Vô Sở Cầu Hành (無所求行, dứt hết mọi chấp trước, không mong cầu được gì cả) và Xưng Pháp Hành (稱法行, thực hành pháp Ba La Mật thanh tịnh). Rõ ràng tư tưởng này cũng chẳng giống gì với Thiền đời sau này, thế nhưng chúng ta có thể công nhận rằng thái độ tôn trọng tư tưởng Như Lai Tạng và tính thật tiễn cũng cọng thông với tư tưởng này.
(s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃): âm dịch là Nê Hoàn (泥洹), Niết Bàn Na (涅槃那), Niết Lệ Bàn Na (涅隷槃那); ý dịch là Diệt (滅), Diệt Độ (滅度), Tịch (寂), Tịch Diệt (寂滅). Theo nguyên ngữ tiếng Sanskrit nirvāṇa, nó có nghĩa là thổi tiêu đi, cho nên nó nói lên trạng thái thổi tiêu tan lửa phiền não của Ba Độc tham sân si. Về định nghĩa của từ này, trong các Kinh A Hàm (p: Āgama, 阿含) thì có câu định hình là diệt tận tham dục, sân nhuế và ngu si. Tỷ dụ như trong Kinh Tạp A Hàm 19 (雜阿含經) có đoạn rằng: "Vân hà vi Niết Bàn ? Xá Lợi Phất ngôn: Niết Bàn giả, tham dục vĩnh tận, sân nhuế vĩnh tận, ngu si vĩnh tận, nhất thiết chư phiền não vĩnh tận, thị danh Niết Bàn (云何爲涅槃、舍利弗言、涅槃者、 貪欲永盡、瞋恚永盡、愚癡永盡、一切諸煩惱永盡、是名涅槃, Thế nào gọi là Niết Bàn ? Xá Lợi Phất bảo rằng: Niết Bàn là hết sạch tham dục, hết sạch sân nhuế, hết sạch ngu si. Đó gọi là Niết Bàn)". Đến thời kỳ bộ phái Phật Giáo thì Niết Bàn được chia thành 2 loại là Hữu Dư Niết Bàn (有餘涅槃, hay Hữu Dư Y Niết Bàn) và Vô Dư Niết Bàn (無餘涅槃, hay Vô Dư Y Niết Bàn). Hữu Dư Niết Bàn là trạng thái mà người giác ngộ đã diệt tận phiền não nhưng nhục thân vẫn còn sống. Vô Dư Niết Bàn là trạng thái mà người giác ngộ đã diệt tận luôn nhục thân của mình sau khi chết. Từ quan niệm đó, sự qua đời của đức Phật được gọi là Niết Bàn hay nhập Niết Bàn, viên tịch, v.v.; cho nên kinh điển mà đức Phật thuyết trước khi nhập Niết Bàn thì được gọi là Niết Bàn Kinh (涅槃經) hay Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經). Trong Thành Duy Thức Luận 10 (成唯識論) lại chia Niết Bàn thành 4 loại là Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn (自性清淨涅槃), Hữu Dư Y Niết Bàn (有餘依涅 槃), Vô Dư Y Niết Bàn (無餘依涅槃) và Vô Trú Xứ Niết Bàn (無住處涅槃). Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn là chỉ về trạng thái mà tâm tánh của hết thảy chúng sanh xưa nay vốn thanh tịnh. Vô Trú Xứ Niết Bàn là cõi Niết Bàn lý tưởng của Đại Thừa, chỉ về trạng thái của chư Phật cũng như Bồ Tát chẳng trú vào sanh tử, cũng chẳng nương vào Niết Bàn, mà cho rằng sanh tử chính là Niết Bàn, với từ bi và trí tuệ đầy đủ, sống Tùy duyên tự tại, nhậm vận vô tác. Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士, 1230-1291) của Việt Nam có câu: “Niết Bàn tâm tịch tịch, sanh tử hải trùng trùng, bất sinh hoàn bất diệt, vô thỉ diệc vô chung (涅槃心寂寂、生死海重重、不生還不滅、無始亦無終, Niết Bàn tâm vắng lặng, sanh tử biển trùng trùng, chẳng sanh lại chẳng diệt, không trước lại không sau).”
(s: dharma-dhātu, p: dhamma-dhātu, 法界): chỉ cho sự vật vốn có của đối tượng duyên vào ý thức, là một trong 18 giới. A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 1 cho rằng Ba Uẩn Thọ (s, p: vedanā, 受), Tưởng (s: sañjā, p: saññā, 想), Hành (s: saṁkhāra, p: saṅkhāra, 行) cùng với Vô Biểu Sắc (s: avijñapti-rūpa, 無表色), Vô Vi Pháp (無爲法) được gọi là Pháp Giới; trong 12 Xứ thì gọi là Pháp Xứ (法處). Tuy nhiên trong 18 Giới, ngoài Pháp Giới ra, 17 giới kia được gọi là pháp; nên về nghĩa rộng thì Pháp Giới chỉ cho hết thảy các pháp Hữu Vi và Vô Vi. Về ngữ nghĩa mà nói, giới (界) có nghĩa là “chủng tộc sanh gốc”; tỷ dụ như trong núi tàng chứa các loại khoáng sản như vàng, bạc, v.v.; trong thân con người có đầy đủ các pháp mắt, tai, mũi, v.v., mỗi thứ đều tự tương tục mà sanh khởi. Hay giới còn có nghĩa là “chủng loại khác nhau”; tức là tự tánh của các pháp đều khác nhau. Trong Hoa Nghiêm Tông, Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký (華嚴經探玄記, Taishō Vol. 35, No. 1733) quyển 18 có nêu ra 3 nghĩa của Pháp Giới: (1) Là nhân sanh ra Thánh pháp, (2) Là thể tánh chân thật của các pháp, (3) Các pháp đều giữ sự phân chia đồng nhau, có thể phân biệt tướng trạng. Đồng thời, nương theo hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền mà nhập vào Pháp Giới, có 5 loại là Hữu Vi Pháp Giới (有爲法界), Vô Vi Pháp Giới (無爲法界), Pháp Giới vừa là Hữu Vi vừa là Vô Vi, Pháp Giới chẳng phải là Hữu Vi và cũng chẳng phải Vô Vi, và Vô Chướng Ngại Pháp Giới (無障礙法界, Pháp Giới không chướng ngại); và lập ra 5 loại sai biệt là Pháp Pháp Giới (法法界), Nhân Pháp Giới (人法界), Nhân Pháp Câu Dung Pháp Giới (人法俱融法界, Pháp Giới dung nhiếp của người và pháp), Nhân Pháp Câu Mẫn Pháp Giới (人法俱泯法界, Pháp Giới không có người và pháp), Vô Chướng Ngại Pháp Giới. Nếu quán từ hiện tượng và bản thể, có thể chia ra làm 4 nghĩa: gọi là Tứ Pháp Giới (四法界): (1) Pháp chỉ cho vạn pháp, giới là phân giới; các pháp đều vốn có tự thể mà phân giới bất đồng, bèn cấu thành trăm ngàn sai khác hiện tượng giới; đó gọi là Sự Pháp Giới (事法界). (2) Hiện tượng của các pháp tuy rất nhiều, nhưng thể tánh chân thật của nó thì thường trụ bất biến, bình đẳng nhất như, vượt qua cả ngôn ngữ, văn tự, là cảnh giới của Thánh trí vắng lặng; đó gọi là Lý Pháp Giới (理法界). (3) Hiện tượng giới và bản thế giới có mối quan hệ nhất thể không hai; mỗi một pháp của chúng, tương tức tương nhập, một với nhiều không ngăn ngại, tự nhiên viên dung; đó gọi là Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới (理事無礙法界). (4) Hết thảy hiện tượng giới có tác dụng hỗ tương lẫn nhau, một là tất cả, tất cả là một, trùng trùng vô tận, sự sự vô ngại; đó gọi là Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới (事事無礙法界). Ngoài ra, do vì duyên khởi trùng trùng vô tận, nên gọi là Pháp Giới Duyên Khởi (法界緣起). Mật Giáo lấy 6 Đại đất, nước, lửa, gió, không, thức làm thể tánh của Pháp Giới; cho đó là Tam Ma Da Thân (三摩耶身) của Đại Nhật Như Lai (s: Vairocana, 大日如來). Cung điện của Ngài gọi là Pháp Giới Cung (法界宮), định của Ngài là Pháp Giới Định (法界定), ấn quyết là Pháp Giới Định Ấn (法界定印), năng lực gia trì là Pháp Giới Gia Trì (法界加持). Mật Giáo còn thuyết về Ngũ Trí Ngũ Phật (法界體性智), lấy đức Đại Nhật Như Lai biểu thị cho Pháp Giới Thể Tánh Trí (五智五佛). Thiên Thai Tông thì lấy 10 Giới Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, A Tu La, Người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật gọi chung là Thập Pháp Giới (十法界). Trong Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh (菩薩瓔珞本業經, Taishō Vol. 24, No. 1485) quyển Thượng có đoạn rằng: “Ư nhất Pháp Giới trung, hữu Tam Giới báo, nhất thiết hữu vi pháp, nhược phàm nhược thánh, nhược kiến trước, nhược nhân quả pháp, bất xuất Pháp Giới; duy Phật nhất nhân, tại Pháp Giới ngoại (於一法界中、有三界報、一切有爲法、若凡若聖、若見著、若因果法、不出法界、唯佛一人、在法界外, trong một Pháp Giới, có Ba Cõi báo, hết thảy pháp hữu vi, là phàm là thánh, là thấy chấp, là pháp nhân quả, không ra khỏi Pháp Giới; chỉ có một mình Phật, ở ngoài Pháp Giới).” Hay trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 10, No. 279) quyển 6, Như Lai Hiện Tướng Phẩm (如來現相品) thứ 2, lại có đoạn: “Phật thân sung mãn ư Pháp Giới, phổ hiện nhất thiết chúng sanh tiền, Tùy duyên phó cảm mị bất châu, nhi hằng xử thử Bồ Đề tọa (佛身充滿於法界、普現一切眾生前、隨緣赴感靡不周、而恆處此菩提座, thân Phật tròn đầy nơi Pháp Giới, hiện khắp trước mặt các chúng sanh, Tùy duyên cảm ứng cùng nơi chốn, vẫn luôn an trụ Bồ Đề tòa).”
(s: dharmatā, p: dhammatā, 法性): còn gọi là Thật Tướng Chân Như (實相眞如), Chân Pháp Tánh (眞法性), Chân Tánh (眞性); là tên gọi khác của Chân Như (眞如), v.v.; tuy tên gọi khác mà đồng thể; là thể tánh chân thật của các pháp, cũng là bản tánh chân thật bất biến vốn có của hết thảy hiện tượng trong vũ trụ. Pháp Tánh là gốc của vạn pháp, nên còn gọi là Pháp Bổn (法本). Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 32 lấy tổng tướng và biệt tướng của các pháp cùng quy về Pháp Tánh; cho rằng các pháp có mỗi mỗi tướng (tướng sai biệt của hiện tượng) và thật tướng. Về cái gọi là mỗi mỗi tướng khác nhau, tỷ dụ như sáp ong đốt chảy thành nước, mất đi tướng ban đầu của nó, do vì không cố định, nên phân biệt tìm cầu không thể được; chính vì không thể được nên gọi là “không (空)” (tức không có tự tánh); vì vậy không chính là thật tướng của các pháp. Đối với hết thảy tướng sai biệt mà nói, do vì tự tánh của chúng là không, nên đều là đồng nhất, được gọi là “như (如).” Tất cả các tướng đều quy về không, vì vậy gọi không là Pháp Tánh. Lại nữa, như trong đá màu vàng có đủ tánh chất của vàng, trong tất cả các pháp trên thế gian đều có Pháp Tánh của Niết Bàn; vì vậy mới bảo rằng thật tánh bản nhiên của các pháp là Pháp Tánh. Điều này đồng nghĩa với ý nghĩa gọi là “chúng sanh, quốc độ đồng nhất Pháp Tánh (眾生、國土同一法性, chúng sanh, quốc độ cùng một Pháp Tánh)” trong Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh (大方廣圓覺修多羅了義經, Taishō Vol. 17, No. 842). Trong Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō Vol. 11, No. 310) quyển 52, đức Thích Tôn đã từng khai thị về nghĩa thật tánh của các pháp, dạy rằng Pháp Tánh không có đổi khác, không có tăng thêm, không tạo tác và chẳng có không tạo tác; Pháp Tánh không có phân biệt, không có sở duyên, đối với tất cả pháp có thể chứng đắc thể tướng cứu cánh. Cũng có thuyết cho rằng Như Lai Tạng (如來藏) đồng nghĩa với Pháp Tánh. Các luận sư giải thuyết về Pháp Tánh không giống nhau. Đại Sư Từ Ân (慈恩, tức Khuy Cơ [窺基, 632-682]) của Pháp Tướng Tông thì cho rằng Pháp Tánh là Viên Thành Thật Tánh (圓成實性) trong 3 tánh; Y Tha Khởi Tánh (依地起性) này là nơi nương tựa của hết thảy các pháp hữu vi. Trong khi đó, Gia Tường Đại Sư Cát Tạng (吉藏, 549-623) của Tam Luận Tông lại chủ trương rằng chân không là Pháp Tánh. Kế đến, Hiền Thủ (賢首, tức Pháp Tạng [法藏, 643-712]), vị Tổ thứ 3 của Hoa Nghiêm Tông, cho rằng chân như có hai nghĩa là bất biến và Tùy duyên; nếu lấy nghĩa Tùy duyên, biến tạo ra các pháp, tuy biến tạo mà vẫn giữ tánh chân như bất biến. Chân như Tùy duyên biến tạo vạn pháp như vậy, nên gọi chân như là Pháp Tánh. Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-597) của Thiên Thai Tông luận rằng Pháp Tánh có đủ ô nhiễm, trong sạch, tức tánh thiện tánh ác; vì tánh có đủ thiện và ác, nên sanh ra các pháp ô nhiễm, trong sạch. Như trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 10, No. 279) quyển 16, Phẩm Thăng Tu Di Sơn Đảnh (昇須彌山頂品) 13, có đoạn: “Pháp Tánh bổn không tịch, vô thủ diệc vô kiến, tánh không tức thị Phật, bất khả đắc tư lường (法性本空寂、無取亦無見、性空卽是佛、不可得思量, Pháp Tánh vốn không lặng, không cầm cũng không thấy, tánh không tức là Phật, suy lường chẳng thể được).” Trong bài tựa của Khởi Tín Luận Tục Sớ (起信論續疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 45, No. 764) quyển 1 giải thích rằng: “Pháp Tánh giả, vị chân như bất biến, Tùy duyên nhi năng thành nhất thiết pháp (法性者、謂眞如不變、隨緣而能成一切法, Pháp Tánh nghĩa là chân như bất biến, Tùy duyên mà có thể thành tất cả các pháp).” Hoặc trong Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 87 cũng có đoạn: “Hựu chư pháp tức Pháp Tánh nhân duyên, nãi chí Đệ Nhất Nghĩa diệc thị nhân duyên (又諸法卽是法性因緣、乃至第一義亦是因緣, lại các pháp là nhân duyên của Pháp Tánh, cho đến Đệ Nhất Nghĩa cũng là nhân duyên).”
(季冬): tên gọi tháng cuối cùng của tiết Đông, tức là tháng 12 Âm Lịch. Trong Lễ Ký (禮記), chương Nguyệt Lịnh (月令) có ghi rằng: “Quý Đông chi nguyệt, nhật tại Vụ Nữ, Hôn Lâu trung, Đán Đê trung (季冬之月、日在婺女、昏婁中、旦氐中, vào tháng cuối năm, mặt trời ở sao Vụ Nữ, buổi tối thì ở trong sao Lâu, buổi sáng sớm thì ở trong sao Đê).” Hay trong bài thơ Đầu Thánh Du (投聖俞) của Tư Mã Quang (司馬光, 1019-1086) nhà Tống có câu: “Cửu cù Quý Đông nguyệt, phong sa chánh thảm độc (九衢季冬月、風沙正慘黷, khắp nẻo đường tháng Chạp, gió cát thật nhơ nhớp).” Trong Kính Sơn Trích Nhũ Tập (徑石滴乳集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 67, No. 1308) quyển 3 có câu: “Quý Đông cực hàn, vạn mộc đoản tàn, duy hữu Mai hoa, thập phần thanh vận (季冬極寒、萬木短殘、惟有梅花、十分清韻, tháng Chạp băng hàn, cây cỏ điêu tàn, chỉ có hoa Mai, mười phần tươi xanh).” Trong bài Tặng Tường Cảnh Hưu Từ Chánh (贈祥景休嗣正) của Ngô Sơn Tịnh Đoan Thiền Sư Ngữ Lục (吳山淨端禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1449) quyển 2 có đoạn: “Hy Ninh Quý Đông tiết, dạ tọa canh dĩ cửu, nguyệt sắc xạ song hộ, tùng phong minh cốc khẩu (熙寧季冬節、夜坐更已久、月色射窗戶、松風鳴谷口, Hy Ninh tiết tháng Chạp, đêm ngồi canh đã lâu, ánh trăng xuyên song cửa, gió tùng vang miệng khe).” Hoặc trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 9 lại có đoạn: “Quý Đông hàn tiết, khứ lai vô biệt, thiên sơn vạn sơn, duy tích tàn tuyết, Thiền khách tương phùng, tương hà diễn thuyết, các thỉnh quy đường, Tùy duyên điềm yết (季冬寒節、去來無別、千山萬山、唯積殘雪、禪客相逢、將何演說、各請歸堂、隨緣憩歇, cuối Đông lạnh tiết, đến đi chẳng khác, ngàn núi vạn núi, chỉ chất trắng tuyết, khách Thiền gặp nhau, lấy gì diễn thuyết, đều mời về phòng, Tùy duyên nghỉ mệt).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập