Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tục Nhật Bản Kỷ »»
(東大寺, Tōdai-ji): ngôi chùa Tổng Bản Sơn của Hoa Nghiêm Tông Nhật Bản, hiện tọa lạc tại Zasshi-chō (雜司町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣). Chùa còn có các tên gọi khác như Kim Quang Minh Tứ Thiên Vương Hộ Quốc Chi Tự (金光明四天王護國之寺), Đại Hoa Nghiêm Tự (大華嚴寺), Thành Đại Tự (城大寺), Tổng Quốc Phận Tự (總國分寺), là một trong bảy ngôi chùa lớn của vùng Nam Đô. Hiệu chùa có nghĩa là ngôi chùa lớn nằm ở phía đông kinh đô Bình Thành (平城). Tên chùa được tìm thấy lần đầu tiên trong phần Đông Đại Tự Tả Kinh Sở Giải Án (東大寺冩經所解案) ghi tháng 11 năm thứ 9 (747) niên hiệu Thiên Bình (天平) thứ 9 của Chánh Thương Viện Văn Thư (正倉院文書) và đôi khi trong văn thư này chùa được gọi là Đông Tự (東寺). Theo Tục Nhật Bản Kỷ (續日本書紀), nhân ghé tham bái Tri Thức Tự (知識寺) ở tiểu quốc Hà Nội (河內, Kawauchi) vào tháng 2 năm thứ 12 (748) cùng niên hiệu trên, Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749) thấy tượng Lô Xá Na Phật (盧舍那佛) tướng hảo trang nghiêm, bèn thốt lên rằng: “Trẫm cũng tạo tượng này để tôn thờ”; cho nên nhà vua phát nguyện tạc tượng Phật. Vào ngày rằm tháng 10 năm thứ 15 cùng niên hiệu trên, dựa trên cơ sở giáo lý của Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經), chiếu chỉ tạo lập tượng Đại Phật Lô Xá Na được ban bố. Chiếu chỉ này thể hiện đế quyền vĩ đại trên cơ sở của Chế Độ Luật Lịnh, kêu gọi sự viện trợ của đại chúng quốc dân. Chánh điện chùa thờ đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana Buddha), rất nổi tiếng với danh hiệu là Đại Phật Nại Lương. Vào năm 751 (năm thứ 3 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳]), Đại Hùng Bảo Điện được hoàn thành, năm sau thì tiến hành lễ Khai Nhãn Cúng Dường tượng Đại Phật, rồi đến năm 754 vị Đường tăng của Trung Hoa là Giám Chơn (鑑眞, Ganjin) đã thiết lập Giới Đàn Viện tại chùa và đây được xem như là một trong ba giới đàn lớn nhất của Nhật Bản. Đến thế kỷ thứ 9, chùa có cả trang viên và Tăng binh rộng lớn, cho nên uy thế của chùa rất nổi bật. Kể từ khi thành lập cho đến nay, chùa hiện còn một số kiến trúc đường xá như Pháp Hoa Đường (法華堂), Chuyển Hại Môn (轉害門), Kinh Khố (經庫) và Chánh Thương Viện (正倉院), v.v. Chùa hiện tàng trữ các tượng Phật được làm vào thời đại Thiên Bình, và cổng Nam Đại Môn Nhân Vương thuộc thời đại Liêm Thương là do sự hợp tác của Vận Khánh (運慶) và Khoái Khánh (快慶). Chánh điện Đại Phật hiện tồn được trùng tu vào giữa thời Giang Hộ (江戸, Edo, 1600-1868), là kiến trúc làm bằng gỗ lớn nhất thế giới.
(法皇, Hōō): hay Thái Thượng Pháp Hoàng (太上法皇, Dajōhōō), từ dùng để gọi vị Thái Thượng Hoàng sau khi xuất gia, đồng nghĩa với Pháp Vương (法王, Hōō). Tuy nhiên, Thượng Hoàng (上皇, Jōkō, tức Thái Thượng Thiên Hoàng không xuất gia) với Pháp Hoàng không khác gì nhau về thân phận cả. Vũ Đa Thiên Hoàng (後宇多天皇, Gouda Tennō, tại vị 1274-1287) dưới thời đại Bình An được xem như là người đầu tiên dùng xưng hiệu này; thế nhưng, trong Tục Nhật Bản Kỷ (續日本紀, Shokunihongi) có ghi rằng Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749) nhường ngôi vị, tự xưng là Pháp Hoàng, rồi đến tham bái Lễ Khai Nhãn Cúng Dường Tượng Đại Phật ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji); cho nên ở đây có vấn đề cần xét lại. Dưới thời đại Bình An, Bạch Hà Pháp Hoàng (白河法皇), Điểu Vũ Pháp Hoàng (鳥羽法皇), Hậu Bạch Hà Pháp Hoàng (後白河法皇), v.v., tiến hành chế độ Viện Chính (院政). Linh Nguyên Pháp Hoàng (靈元法皇) dưới thời đại Giang Hộ là vị Pháp Hoàng cuối cùng.
(s: stūpa, p: thūpa, 塔): âm dịch là Tốt Đổ Bà (窣睹婆、窣堵婆), Tốt Đổ Ba (窣堵波), Tốt Đô Bà (窣都婆), Tẩu Đẩu Bà (藪斗婆), Tẩu Đẩu Ba (數斗波), Tô Thâu Bà (蘇偷婆), Tố Đổ Ba (素睹波), Suất Đô Bà (率都婆), Tốt Đô Bà (卒都婆); dịch tắt là Tháp Bà (塔婆), Thâu Bà (偷婆), Đâu Bà (兜婆), Phật Đồ (佛圖), Phù Đồ (浮圖、浮屠), Phật Tháp (佛塔); ý dịch là cao hiển xứ (高顯處), công đức tụ (功德聚), phương phần (方墳), viên trũng (圓塚), đại trũng (大塚), trũng (塚), phần lăng (墳陵), tháp miếu (塔廟), miếu (廟), quy tông (歸宗), đại tụ (大聚), tụ tướng (聚相), linh miếu (靈廟). Nguyên lai chỉ cho nơi an trí vật Xá Lợi, v.v., của đức Phật, lấy gạch ngói, v.v., dựng thành vật kiến trúc; nhưng đời sau phần lớn hỗn đồng với nghĩa Chi Đề (s: caitya, 支提), mà chỉ chung cho nơi đức Phật Đản Sanh, Thành Đạo, Chuyển Pháp Luân, Nhập Niết Bàn, nơi các đức Phật quá khứ kinh hành, thánh địa liên quan đến tiền sanh của đức Phật, hang Bích Chi Phật (s: pratyeka-buddha, 辟支佛), cho đến những nơi an trí tượng chư Phật, Bồ Tát, hay di cốt của chư vị cao tăng, Tổ sư, v.v. người ta thường lấy đất, đá, gạch ngói, gỗ, v.v., xây dựng nên vật kiến trúc để lễ bái cúng dường. Tuy nhiên, Ma Ha Tăng Kỳ Luật (摩訶僧祇律, Taishō Vol. 22, No. 1425) quyển 33, Pháp Hoa Nghĩa Sớ (法華義疏, Taishō Vol. 34, No. 1721) quyển 11, v.v., phân biệt rõ rằng nơi nào có Xá Lợi đức Phật thì gọi là Tháp, nơi nào không có là Chi Đề. Căn cứ vào đó, 8 ngôi tháp có an trí Xá Lợi đức Phật ở Câu Thi Na (s: Kuśinagara, p: Kusinagara, 拘尸那), Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), v.v., là Tốt Đổ Ba; còn các ngôi tháp nơi đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛), nơi Thành Đạo dưới cây Bồ Đề ở Phật Dà Già Da (s: Buddha-gayā, 佛陀伽耶), nơi Chuyển Pháp Luân ở Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), nơi đại thần thông của Tinh Xá Kỳ Viên (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇園精舍), nơi có ba đường bậc cấp báu (khi đức Phật từ trên cung trời Đao Lợi [s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利] xuống) ở gần khúc Nữ Thành (曲女城), nơi tuyên thuyết kinh điển Đại Thừa ở núi Kỳ Xà Quật (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山), nơi cư sĩ Duy Ma Cật (s: Vimalakīrti, 維摩詰) thị hiện tướng bệnh ở Am La Vệ Lâm (菴羅衛林), nơi đức Phật nhập Niết Bàn ở rừng Sa La (沙羅), v.v., được gọi là Bát Đại Linh Tháp (八大靈塔, tám ngôi tháp lớn linh thiêng), đều thuộc về Chi Đề. Về nguồn gốc tạo dựng tháp, có thể suy tận thời đại đức Phật, như Thập Tụng Luật (十誦律, Taishō Vol. 23, No. 1435) quyển 56 cho biết rằng trưởng giả Tu Đạt (p: Sudatta, 須達) đã từng cầu xin lấy tóc và móng tay của đức Phật, dựng tháp thờ cúng dường. Hay Ma Ha Tăng Kỳ Luật quyển 33 có ghi rằng vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) cũng từng bắt chước đức Phật, kiến lập tháp Phật Ca Diếp (s: Kāśyapa Buddha, 迦葉佛) để lễ bái cúng dường. Sau khi đức Phật nhập diệt, có 8 quốc gia như Ba Bà (波婆), Nhân Già La (人遮羅), La Ma Già (羅摩伽), v.v., nhờ Bà La Môn Hương Tánh (香姓) phân chia Xá Lợi cho, các nước ấy đều tự đem trở về dựng tháp cúng dường; và đây được xem như là khởi điểm của việc kiến tạo Tốt Đổ Ba. Ngoài ra, theo A Dục Vương Truyện (阿育王傳, Taishō Vol. 50, No. 2042) quyển 1, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 1, v.v., cũng cho biết thêm rằng sau khi đức Phật diệt độ khoảng 200 năm, nhân dịp quân lâm đến vương quốc Ma Kiệt Đà, vua A Dục (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育) đã cho kiến lập 84.000 bảo tháp ở khắp các địa phương của lãnh thổ này. Theo khảo chứng của học giả Nhật Bản là Dật Kiến Mai Vinh (逸見梅榮, Henmi Baiei, 1891-1977), cổ tháp trong di tích Sanchi, ngói tạo tháp ở vị trí trung tâm được vua A Dục làm từ thời xưa. Nếu nói chung về nghĩa của Tháp (gồm Tháp Bà lẫn Chi Đề), có rất nhiều kiến trúc nổi tiếng trên khắp thế giới, tỷ dụ như: (1) Tháp của di tích Bharhut (巴赫特, Ba Hách Đặc) ở miền Trung Ấn, thân tháp đã bị đỗ nát hoàn toàn, chỉ còn lại lan can bằng đá, cổng đá; suy định thuộc loại cổ tháp, được dựng vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước CN, dưới thời vua Huân Ca (熏迦). (2) Lan can đá cổ ở vùng phụ cận Đại Tháp Phật Đà Già Da, được dựng vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước CN. (3) Các Chi Đề ở những di tích Phật Giáo trứ danh như hang động thứ 10 của Ajanta (阿旃多, A Chiên Đa), hang động thứ 17 của Nāsik (那西克, Na Tây Khắc), ở Kārlī (迦利, Ca Lợi), Bedsā (貝德沙, Bối Đức Sa), v.v., đều được tạo dựng vào khoảng từ thế kỷ thứ 2 đến thứ 1 trước CN; là các di sản tiểu biểu quan trọng của tháp Phật thời cổ đại. (4) Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦) của nước Kiền Đà La (s, p: Gandhāra, 犍馱羅) thuộc Bắc Ấn, vị vua thống trị vào khoảng thế kỷ thứ 1 sau CN, đã từng kiến lập một ngôi tháp cao đến 32 thước dưới Tuyết Sơn thuộc nước Ca Tất Thí (s: Kapiśa, 迦畢試). Rồi nhà vua lại cho dựng ngôi Tước Ly Phù Đồ (雀離浮圖) ở nước Kiền Đà La, cao hơn 220 thước, gồm 13 cấp; cho nên Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, Taishō Vol. 51, No. 2092) quyển 5 gọi đó là “Tây Vức Phù Đồ tối vi đệ nhất (西域浮圖最爲第一, ngôi tháp số một trong những ngôi tháp ở Tây Vức [Ấn Độ]).” (5) Tại địa phương Kiền Đà La còn có một số di tích tháp cổ, đều được kiến tạo vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước sau CN cho đến thế kỷ thứ 2, 3 sau CN; như tháp Đạt Nhĩ Mã Lạp Tư Sá (達爾瑪拉茲卡, Darmarajka), Mã Ni Kháp Lạp (瑪尼恰拉, Manikyala), Tháp Khố Đặc Y Ba Hy (塔庫特伊巴希, Takt-i-Bahi), Á Lực Mã Tư Cát Đức (亞力瑪斯吉德, Ali Masjid), v.v. (6) Tại địa phương A Nậu La Đà Bổ La (阿㝹羅陀補羅, Anuradhapura) của Tích Lan (錫蘭, Sri Lanka), vẫn còn mấy tòa cổ tháp, trong đó có Tháp Viên (p: Thūpārāma, 塔園) do vua Thiên Ái Đế Tu (p: Devānampiya-tissa, 天愛帝須) kiến lập, được xem như là ngôi tháp xưa nhất của đất nước này. Lại có Vô Úy Sơn Phật Tháp (p: Abhayagiri, 無畏山佛塔) được vua Bà Tha Già Mã Ni (p: Vaṭṭagāmaṇi, 婆他伽馬尼) kiến lập vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước CN, cao hơn 120 thước, đường kính đáy tháp khoảng 115 thước. Ngoài ra, ngôi Lỗ Uyển Duy Lợi Tháp (魯宛維利塔, Ruwanveli) vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước CN, được xem như tháp cổ nổi tiếng nhất. (7) Ngôi Thụy Đức Cung Phật Tháp (瑞德宮佛塔, Shwedagon) ở thủ đô Rangoon (蘭貢, Lan Cống), Miến Điện (緬甸, Myanmar), thân tháp cao đến 118 thước. Ngôi Tu Mã Đỗ Tháp (修瑪杜塔, Shwemaudau) ở cố đô Pegu (庇古, Tí Cổ), cao 102 thước; tầng bên ngoài tháp đều được trang sắc bằng vàng ròng, chung quanh có mấy mươi tòa tháp nhỏ. Bên cạnh đó, còn có Tô Lôi Tháp (蘇雷塔, Soolay) ở Rangoon; vùng phụ cận của Mandalay cũng có khoảng 450 ngôi tháp nổi tiếng khác. Tại Pagan có một số như Đạt Tân Vưu Tháp (達濱尤塔, Tapinyu), Cáo Đạt Ba Lâm Tháp (告達巴林塔, Gauda-palin), A Nan Đà Tháp (阿難陀塔, Ānanda), v.v. (8) Tại Thái Lan, có rất nhiều tháp Phật vẫn còn tại cố đô Ayuthia (猶地亞, Do Địa Á). Ngoài ra, ngôi Phỉ Lạp Thác Mỗ Ma Yết Đề Tháp (菲拉托姆麻歇提塔, Phra-Thomma chedi) tại thủ đô Bangkok (曼谷, Mạn Cốc), thân tháp cao đến 125 thước; ngôi Thanh Tự Tháp (青寺塔, Wat Ching), đều là những kiến trúc Phật Giáo trứ danh. (9) Các ngôi Duy Ân Thường Tháp (維恩常塔, Vienchang), Khoa Ma Nghênh Tháp (科摩迎塔, Chom-yong) của Lào, đều là những ngôi tháp cổ quan trọng. (10) Ngôi Bà La Phù Đồ (婆羅浮屠, Buro-Budur) ở xứ Java (爪哇, Trảo Oa) là ngôi tháp có quy mô rộng lớn, hình tứ giác, trên đỉnh có một tòa tháp lớn, chung quanh bao bọc bởi 72 tháp nhỏ với hình dáng tương đồng với tháp lớn kia; trong mỗi tháp có an trí tượng Phật, toàn bộ thể hiện hình dáng Kim Tự Tháp của Ai Cập; mỗi tháp dài rộng 123 thước, cao 42 thước, được xem như là Thánh địa vĩ đại nhất, hùng tráng nhất hiện tồn của Phật Giáo Đại Thừa trên toàn cầu. (11) Tại Nepal (尼泊爾, Ni Bạc Nhĩ), có ngôi Tư ổ Nhã Mỗ Bố Na Đức Tháp (斯塢雅姆布那德塔, Swuyambhūnāth) ở Katmandu (加德滿都, Gia Đức Mãn Đô) cũng rất to lớn, hình trạng giống như bình bát úp xuống; trên có mấy mươi tầng vòng tròn, trên đỉnh tháp có bảo cái. (12) Tháp tại Tây Tạng được gọi là Lạt Ma Tháp (喇嘛塔), nhưng trong nước này có khá nhiều tháp nhỏ. (13) Tại Trung Quốc, ở phương Bắc, Đông Bắc cũng như Mông Cổ, vẫn còn rất nhiều tháp lớn; như Lợi Tự (利寺, Leh) ở Ladakh (拉達克, Lạp Đạt Khắc); ngôi Bố Đạt Lạp Miếu (布達拉廟) ở Nhiệt Hà (熱河). Những ngôi tháp có quy mô hoành tráng tại 4 ngôi chùa ở Đông Tây Nam Bắc của Thẩm Dương (瀋陽), Liêu Ninh (遼寧); tại Đại Tháp Viện Tự (大塔院寺) trên Ngũ Đài Sơn (五臺山) vùng Sơn Tây (山西); Tịnh Minh Tự (淨明寺) ở Thái Nguyên (太原), Sơn Tây; Vĩnh An Tự (永安寺), Diệu Ứng Tự (妙應寺) ở Bắc Bình (北平), v.v. Trong số đó, ngôi tháp ở Đại Tháp Viện Tự cao 86 thước, thuộc loại lớn nhất. Việc kiến tạo tháp Phật tại Trung Quốc khởi đầu từ thời Tam Quốc (三國, nghĩa hẹp là 220-280), tức nhân sự kiện Ngô chúa Tôn Quyền (孫權, tại vị 229-252) cảm đắc Xá Lợi nơi cao tăng Khương Tăng Hội (康僧會, ?-280), vô cùng thán phục, bèn xây tháp cúng dường, lấy hiệu là Kiến Sơ Tự (建初寺). Lúc bấy giờ là năm thứ 3 (240) niên hiệu Xích Ô (赤烏). Tuy nhiên, nếu theo Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀, Taishō Vol. 49, No. 2035) quyển 54 ghi chép, ngôi tháp tại Bạch Mã Tự (白馬寺) được kiến lập vào năm thứ 10 (67) niên hiệu Vĩnh Bình (永平) đời vua Minh Đế (明帝, tại vị 57-75) nhà Đông Hán, là tháp xưa nhất của Trung Quốc. Sau đó, sự tích kiến lập tháp trãi qua các triều đại rất nổi tiếng. Như vào năm thứ 2 (281) niên hiệu Thái Khang (太康) đời vua Võ Đế Tư Mã Viêm (武帝司馬炎, tại vị 266-290) nhà Tây Tấn, tăng sĩ Huệ Đạt (慧達) cảm đắc một tòa bảo tháp cao khoảng 45 thước, rộng 22 thước ở Huyện Mậu (鄮縣), Triết Giang (浙江), bèn dựng tháp để an trí tháp ấy. Đến năm đầu (516) niên hiệu Hy Bình (熙平) đời vua Hiếu Minh Đế Nguyên Hủ (孝明帝元詡, tại vị 515-528) nhà Bắc Ngụy, Linh Thái Hậu họ Hồ sai thợ kiến lập một tòa tháp bằng gỗ cao 9 tầng tại Vĩnh Ninh Tự (永寧寺), Lạc Dương (洛陽); tháp này cao đến 320 thước, cả ngoài trăm dặm đều có thể nhìn thấy được; nơi mái tháp có treo phong linh, thường phát ra âm thanh du dương, thanh thoát khi gió thoảng qua; tiếc thay tháp này hiện không còn nữa. Trong khoảng niên hiệu Chánh Quang (正光, 520-524) đời vua Hiếu Minh Đế Nguyên Hủ, tại Tung Nhạc Tự (嵩嶽寺) ở Tung Sơn (嵩山), Hà Nam (河南), có tạo dựng một ngôi tháp bằng gạch nung, cao khoảng 64 thước, có 12 góc, 15 tầng, được xem như là ngôi tháp tối cổ của Trung Quốc. dưới thời vua Dương Đế (煬帝, tại vị 604-618) nhà Tùy, nhà vua đã từng vì Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397), kiến lập một ngôi tháp cũng bằng gạch tại Quốc Thanh Tự (國清寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山), cao khoảng 74 thước. Chính vua Thái Tông (太宗, tại vị 626-649) nhà Đường cũng từng đáp ứng lời thỉnh cầu của Đại Sư Huyền Trang (玄奘, 602-664) cho dựng một tòa tháp bằng gạch nung cao 58 thước tại Đại Từ Ân Tự (大慈恩寺), Tây An (西安). Ngoài ra, số lượng tháp được tạo dựng ở các tự viện Trung Quốc qua các triều đại, nhiều không thể kể xiết; nhưng nếu nói về loại bằng gỗ hiện tồn thì rất ít. Sau thời nhà Nguyên (元, 1206-1368) trở đi, vì chịu ảnh hưởng của văn hóa Lạt Ma Giáo, dạng thức của tháp cũng biến thành gọi là “hình thức bạch tháp (白塔式).” Dạng thức này vốn xuất phát từ Bắc Ấn và Đại Nguyệt Thị (大月氏), như Bạch Tháp ở Bắc Hải (北海), Bắc Bình (北平); Xá Lợi Tháp (舍利塔) ở Pháp Hải Tự (法海寺) thuộc Giang Đô (江都), Giang Tô (江蘇); Bách Linh Miếu Tháp (百靈廟塔) ở Võ Châu (武川), v.v., đều có quy chế kiến tạo khác xa với truyền thống của Trung Quốc. Về phía Nhật Bản, vào tháng 2 năm thứ 14 (585) đời Mẫn Đạt Thiên Hoàng (敏達天皇, Bidatsu Tennō, tại vị 572-585), đại thần Tô Ngã Mã Tử (蘇我馬子, Soga-no-Umako, ?-626) kiến lập một ngôi tháp trên phía Bắc đồi Đại Đã (大野, Ōno); trên đầu trụ tháp có an trí Xá Lợi do nhóm Tư Mã Đạt (司馬達) dâng cúng. Đây được xem như là tháp đầu tiên tại đất nước Phù Tang này. Đến năm thứ 15 (606) đời Suy Cổ Thiên Hoàng (推古天皇, Suiko Tennō, tại vị 592-628), Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi, 574-622) tạo lập một ngôi Ngũ Trùng Tháp (五重塔, tháp năm tầng) tại Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), cho đến nay vẫn còn và được đánh giá như là tháp bằng gỗ tối cổ của thế giới. Theo Tục Nhật Bản Kỷ (續日本紀, Shokunihongi) quyển 30 cho biết, vào năm thứ 8 (764) niên hiệu Thiên Bình Bảo Tự (天平寶字), Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758) phát nguyện tạo dựng 1.000.000 ngôi tháp 3 tầng bằng gỗ, cao 15 thước, mãi cho đến năm đầu (770) niên hiệu Bảo Quy (寶龜) mới hoàn thành; đem an trí tại các chùa trên toàn quốc. Về chủng loại của tháp thì có rất nhiều, lấy dạng thức mà phân biệt, có các loại như tháp hình thức như cái bát úp xuống, tháp như khám thờ, tháp hình trụ, tháp nhạn, tháp nhà, tháp không vách, tháp Lạt Ma, tháp 37 tầng, tháp 17 tầng, tháp 15 tầng, tháp 13 tầng, tháp 9 tầng, tháp 7 tầng, tháp 5 tầng, tháp 3 tầng, tháp vuông, tháp tròn, tháp hình lục giác, tháp hình bát giác, đại tháp, tháp Đa Bảo, tháp Du Kỳ (瑜祇), tháp Bảo Khiếp Ấn (寶篋印), tháp 5 vòng tròn, tháp quả trứng, tháp vô phùng, tháp kiểu lầu gác, tháp mái rèm kín, tháp Kim Cang Bảo Tòa (金剛寶座), mộ tháp, v.v. Nếu phân biệt theo vật cất giữ bên trong tháp thì có tháp Xá Lợi, tháp tóc, tháp móng tay, tháp răng, tháp y áo, tháp bình bát, tháp chơn thân, tháp thân bằng tro, tháp thân đã hủy hoại, tháp bình, tháp Hải Hội (海會), tháp Tam Giới Vạn Linh (三界萬靈), tháp một chữ một viên đá, v.v. Nếu lấy vật liệu dựng tháp mà phân biệt thì có tháp bằng gạch nung, tháp bằng gỗ, tháp bằng đá, tháp bằng ngọc, tháp bằng cát, tháp bằng bùn, tháp bằng đất, tháp bằng phân, tháp bằng sắt, tháp bằng đồng, tháp bằng vàng, tháp bằng bạc, tháp bằng thủy tinh, tháp bằng Pha Lê, tháp bằng Lưu Ly, tháp bằng ngà voi, tháp bằng bảo vật, tháp bằng hương, v.v. Nếu lấy ý nghĩa tính chất mà phân biệt thì có tháp cầu phước, tháp báo ân, tháp Pháp Thân, tháp trường thọ, v.v. Nếu theo dạng thái của vị trí bày biện tháp mà phân biệt thì có tháp dạng đứng một mình, tháp dạng đối lập, tháp theo dạng hàng dọc, tháp theo dạng đứng hình vuông, v.v. Trong các dạng thức vừa nêu trên, loại tháp như cái bát úp xuống là tối cổ. Trong Thí Dụ Kinh (譬喻經, Taishō Vol. 4, No. 217) có nêu ra 10 loại công đức thù thắng của việc tạo tháp: (1) Không sanh vào nước biên giới xa xôi; (2) Không chịu sự nghèo nàn khốn khổ; (3) Không có thân ngu si, tà kiến; (4) Có thể đạt được ngôi vị vua của 16 nước lớn; (5) Thọ mạng lâu dài; (6) Có thể đạt được sức mạnh Kim Cang Na La Diên (金剛那羅延); (7) Có thể đạt được phước đức to lớn không sánh bằng; (8) Nhận được từ bi của chư Phật Bồ Tát; (9) Đầy đủ Ba Minh, Sáu Thần Thông, Tám Giải Thoát; (10) Được vãng sanh về cõi Tịnh Độ ở mười phương. Ngoài ra, Phật Thuyết Tạo Tháp Công Đức Kinh (佛說造塔功德經, Taishō Vol. 16, No. 699), Phật Thuyết Tạo Tháp Diên Mạng Công Đức Kinh (佛說造塔延命功德經, Taishō Vol. 19, No. 1026), v.v., cũng nêu ra các công đức như được sống lâu, sanh lên cõi trời, diệt 5 tội Vô Gián, thành Phật, v.v. Riêng trong Hữu Nhiễu Phật Tháp Công Đức Kinh (右繞佛塔功德經, Taishō Vol. 16, No. 700) nhấn mạnh rằng nhiễu quanh tháp thì có thể xa lìa tám nạn, đầy đủ sắc tướng kỳ diệu, có được phước mạng, của báu, cho đến làm thầy của Trời và người, v.v. Đề Vị Kinh (提謂經) cũng nêu ra 5 loại công đức của việc nhiễu quanh tháp: (1) Đời sau có được tướng tốt đoan chánh; (2) Được âm thanh tốt; (3) Được sanh lên cõi Trời; (4) Được sanh vào nhà vương hầu; (5) Chứng quả Niết Bàn. Nhiễu quanh tháp có hình thức nhất định là thường đi nhiễu bên phải, đầu cúi thấp nhìn xuống đất, không được đạp nhầm lên côn trùng trên mặt đất, không được nhìn hai bên phải trái, không được khạc nhổ trước tháp, không được đứng trong tháp nói chuyện với người. Bên cạnh việc tạo tháp, nhiễu tháp như vừa nêu trên, việc tu sửa tháp, quét tháp, lễ bái tháp, v.v., cũng đều có công đức không phải nhỏ. Trong Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 7, chương Ni Ba La Quốc (尼波羅國), có đoạn: “Tinh Xá Tây Nam hữu thạch Tốt Đổ Ba, Vô Ưu vương kiến dã (精舍西南有石窣堵波、無憂王建也, phía Tây Nam Tinh Xá có tháp bằng đá, do vua Vô Ưu kiến lập).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập