Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Nỗ lực mang đến hạnh phúc cho người khác sẽ nâng cao chính bản thân ta. (An effort made for the happiness of others lifts above ourselves.)Lydia M. Child
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Hãy lắng nghe trước khi nói. Hãy suy ngẫm trước khi viết. Hãy kiếm tiền trước khi tiêu pha. Hãy dành dụm trước khi nghỉ hưu. Hãy khảo sát trước khi đầu tư. Hãy chờ đợi trước khi phê phán. Hãy tha thứ trước khi cầu nguyện. Hãy cố gắng trước khi bỏ cuộc. Và hãy cho đi trước khi từ giã cuộc đời này. (Before you speak, listen. Before you write, think. Before you spend, earn. Before you retire, save. Before you invest, investigate. Before you critisize, wait. Before you pray, forgive. Before you quit, try. Before you die, give. )Sưu tầm
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Túc Lợi Tôn Thị »»
(本國寺 hay 本圀寺, Honkoku-ji): một trong 4 ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại Misasagiōiwa-chō (御陵大岩町), Yamashina-ku (山科區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); sơn hiệu là Đại Quang Sơn (大光山), được kiến lập vào năm 1253 (Kiến Trường [建長] 5). Đây là ngôi chùa do Nhật Tĩnh (日靜) lập nên nhờ sự ngoại hộ của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji). Năm 1263 (Hoằng Trường [弘長] 3), chùa được đổi tên thành Đại Quang Vô Lượng Sơn Bổn Quốc Độ Diệu Tự (大光無量山本國土妙寺). Vào năm 1345 (Trinh Hòa [貞和] nguyên niên), ông dời ngôi Pháp Hoa Đường do Nhật Liên Thánh Nhân lập nên ở Tùng Diệp Cốc (松葉谷), Liêm Thương, đến vùng Lục Điều Quật Xuyên (六條堀川) thuộc kinh đô Kyoto. Đến năm 1536 (Thiên Văn [天文] 5), do vì pháp nạn, chùa bị đồ chúng của Diên Lịch Tự (延曆寺) đốt cháy tan tành, nhưng 11 năm sau thì chùa lại được tái hưng như cũ, khai mở đàn lâm và tập trung học tăng về rất đông. Cái tên Hán văn Bổn Quốc Tự (本國寺) được đổi thành Bổn Quốc Tự (本圀寺) là do vị quan Trung Nạp Ngôn Thủy Hộ Quang Quốc (水戸光圀, Mito Mitsukuni) đã từng ngoại hộ đắc lực cho chùa. Và đến năm 1970 (Chiêu Hòa [昭和] 45), chùa được dời về vị trí hiện tại. Tượng thờ chính của chùa là bức đồ hình Mạn Trà La do Nhật Liên vẽ nên. Chùa hiện còn lưu giữ rất nhiều bảo vật có giá trị.
(大乘寺, Daijō-ji): ngôi chùa của Tào Động Tông, hiện tọa lạc tại số 10 Nagasaka-chō (長坂町), Kanazawa-shi (金澤市), Ishikawa-ken (石川縣); tên gọi chính thức là Đông Hương Sơn Đại Thừa Hộ Quốc Thiền Tự (東香山大乘護國禪寺); biệt danh là Xương Thọ Lâm (椙樹林). Tượng thờ chính của chùa là Thích Ca Như Lai. Vào năm 1236 (Hoằng Trường [弘長] 3), vị Trưởng Quan Kami vùng Gia Hạ (加賀, Kaga) là Phú Kiên Gia Thượng (富樫家尚) kiến lập một ngôi chùa ở Nono-shi (野野市), Ishikawa-gun (石川郡), rồi cung thỉnh Trừng Hải (澄海) của Chơn Ngôn Tông làm Tổ khai sơn chùa. Sau đó, vào năm 1289 (Chánh Ứng [正應] 2), Trừng Hải quy y theo vị Tổ đời thứ 3 của Vĩnh Bình Tự là Triệt Thông Nghĩa Giới (徹通義介), nên ông mới nhường ngôi chùa lại cho vị này và cải tông luôn. Về sau, Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾) kế thừa Nghĩa Giới, đến năm 1300 (Chánh An [正安] 2) thì khai đàn thuyết giảng bộ Truyền Quang Lục (傳光錄) ở chùa này. Về sau, chùa trở thành nơi cầu nguyện của dòng họ Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji). Đến năm 1394 (Minh Đức [明德] 4), chùa bị binh hỏa đốt cháy tan tành; nhưng đến năm 1680 (Diên Bảo [延寶] 8), Vạn Sơn (卍山) đến trú ở đây, chùa được tái kiến lại như cũ và hưng thịnh. Trong khoảng năm 1695 (Nguyên Lộc [元祿] 8), chùa được dời về vị trí hiện tại, các đường vũ được chỉnh trang lại toàn bộ.
(妙本寺, Myōhon-ji): ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Chánh Tông, hiện tọa lạc tại số 1-15-1 Ōmachi (大町), Kamakura-shi (鎌倉市), Kanagawa-ken (神奈川縣); hiệu núi là Trường Hưng Sơn (長興山), được kiến lập vào năm 1260 (Văn Ứng [文應] nguyên niên). Tượng thờ chính của chùa là đồ hình Thập Giới Mạn Trà La (十界曼荼羅), bảo vật của chùa; tương truyền khi Nhật Liên lâm chung tại tư dinh của Trì Thượng Tông Trọng (池上宗仲), bức đồ hình nằm dưới gối của Người. Người khai cơ là Tỷ Xí Năng Bổn (比企能本, Hiki Yoshimoto), và khai sơn là Nhật Lãng (日朗). Tương truyền hiệu núi có liên quan đến Tỷ Xí Năng Viên (比企能員, Hiki Yoshikazu), và tên chùa có liên hệ đến pháp danh của Năng Viên. Có thuyết cho rằng duyên khởi của chùa bắt đầu từ sự việc Tỷ Xí Năng Bổn cúng dường tư dinh vào năm 1274 (Văn Vĩnh [文永] 11), khi Nhật Liên vừa được tha tội và trở về Liêm Thương. Tương truyền đất chùa xưa kia là di tích dinh thự của dòng họ Tỷ Xí vốn bị diệt vong vào năm 1203 (Kiến Nhân [建仁] 3); cho nên vẫn còn các di tích mộ tháp của dòng họ này. Vị trú trì Nhật Luân (日輪) là người kiêm nhiệm cả chùa này lẫn Bổn Môn Tự (本門寺, Honmon-ji) ở Trì Thượng (池上, Ikegami). Trong khuôn viên chùa có Thích Ca Đường, Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji) đã từng bổ nhiệm các vị Cúng Tăng đến đây phục dịch; và sau này Túc Lợi Trì Thị (足利持氏, Ashikaga Mochiuji) lại đặt chức Cúng Tăng tại đây; cho nên uy thế của chùa phát triển mạnh dưới thời đại Thất Đinh. Tuy nhiên, chùa cũng đã trãi qua bao lần bị hỏa tai. Đến thời đại Giang Hộ, các ngôi đường xá được tu tạo và chỉnh trang; cho nên có hơn chục ngôi tháp viện; nhưng hiện tại không còn nữa. Quần thể già lam hiện tồn có Sơn Môn, Tổ Sư Đường, Chánh Điện, Tàng Kinh, Lầu Chuông, Linh Bảo Điện, v.v. Bảo vật của chùa có bức đồ hình Thập Giới Mạn Trà La, tượng Thích Ca Như Lai, tượng Nhật Liên Thánh Nhân bằng gỗ, v.v.
(夢窻疎石, Musō Soseki, 1275-1351): vị tăng của Phái Phật Quang thuộc Lâm Tế Tông Nhật Bản, hiệu là Mộng Song (夢窻), xuất thân vùng Y Thế (伊勢, Ise, thuộc Mie-ken [三重縣]). Ông xuất gia từ hồi còn nhỏ tuổi, trước học về Thiên Thai, sau chuyển sang Thiền, đến tham bái Cao Phong Hiển Nhật (高峰顯日) và được kế thừa dòng pháp của vị này. Sau đó ông đã từng lui về sống ẩn cư ở một số nơi như Long Sơn Am (龍山庵) vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai, thuộc Yamanashi-ken [山梨縣]), Hổ Khê Am (虎溪庵) vùng Mỹ Nùng (美濃, Mino, thuộc Gifu-ken [岐阜縣]), Hấp Giang Am (汲江庵)vùng Thổ Tá (土佐, Tosa, thuộc Kōchi-ken [高知縣]), Bạc Thuyền Am (泊船庵) vùng Tam Phố (三浦, Miura, thuộc Kanagawa-ken [神奈川縣]), Thối Canh Am (退耕庵)vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), v.v. Mãi đến năm 1325 (năm thứ 2 niên hiệu Chánh Trung [正中]), nhận sắc chỉ của Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō, 1318-1339), ông đến trú trì Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji). Nhưng rồi năm sau ông lại quay trở về Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), dựng Nam Quang Am (南光庵) và trùng hưng một số chùa như Tịnh Trí Tự (淨智寺), Thoại Tuyền Tự (瑞泉寺), Viên Giác Tự (圓覺寺), v.v. Song vì mệnh lệnh của Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng nên lần thứ hai ông phải quay trở lại trú trì Nam Thiền Tự. Sau khi Thiên Hoàng băng hà, nhận lời thỉnh cầu của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji), ông đến khai sơn Thiên Long Tự (天龍寺, Tenryū-ji). Ngoài ra ông còn khai sáng một số chùa khác như Lâm Xuyên Tự (臨川寺, Rinsen-ji), Đẳng Trì Viện (等持院, Tōji-in), Chơn Như Tự (眞如寺, Shinyo-ji), Tây Phương Tự (西方寺, Saihō-ji). Vào năm 1351 (năm thứ 6 niên hiệu Chánh Bình [正平]), ông thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi. Môn hạ của ông có Vô Cực Chí Huyền (無極志玄), Tuyệt Hải Trung Tân (絕海中津), v.v. Pháp hệ của ông được gọi là Mộng Song Phái (夢窻派) hay Tha Nga Môn Phái (嵯峨門派), chiếm hầu hết dòng chủ lưu của Thiền lâm thời Trung Đại. Lúc còn sanh tiền, ông đã được bantặng các danh hiệu Quốc Sư như Mộng Song (夢窻), Chánh Giác (正覺), Tâm Tông (心宗); sau khi qua đời ông còn được ban tặng các danh hiệu khác như Phổ Tế (普濟), Huyền Du (玄猷), Phật Thống (佛統), Đại Viên (大圓) và được tôn xưng là Thất Triều Đế Sư. Các trước tác để lại của ông có Mộng Song Lục (夢窻錄), Mộng Song Pháp Thoại (夢窻法話), Cốc Hưởng Tập (谷響集), Mộng Trung Vấn Đáp (夢中問答), Tây Sơn Dạ Thoại (西山夜話), v.v.
(日叡, Nichiei, 1334-1397): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng thời đại Nam Bắc Triều; húy Nhật Duệ (日叡), hiệu là Lăng Nghiêm Phòng (楞嚴房), Diệu Pháp Phòng (妙法房). Ông từng che giấu thân phận của mình để đến tham bái mộ phần của cha, người trước kia đối kháng với Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji), rồi bị ông này giết chết; và sau đó, ông đến vùng Liêm Thương, theo làm đệ tử của Nhật Tĩnh (日靜) ở Bổn Quốc Tự (本國寺). Sau khi Bổn Quốc Tự được dời về kinh đô Kyoto, ông ở lại Liêm Thương, rồi xây dựng nên Diệu Pháp Tự (妙法寺) trên nền đất cũ của Bổn Quốc Tự, và suốt đời chuyên tâm cầu nguyện cho thân phụ được siêu độ.
(日靜, Nichijō, 1298-1369): vị Tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Tĩnh (日靜), tự Phong Long (豐龍), hiệu Diệu Long Viện (妙龍院); xuất thân vùng Hạ Đảo (賀島), Tuấn Hà (駿河, Suruga, thuộc Shizuoka-ken [靜岡縣]), con của Thượng Sam Lại Trọng (上杉賴重). Ông xuất gia với Nhật Vị (日位) ở Bổn Giác Tự (本覺寺) vùng Tuấn Hà; sau khi vị này qua đời thì ông đến làm đệ tử của Nhật Ấn (日印) ở Bổn Thắng Tự (本勝寺) vùng Liêm Thương. Về sau, ông lên kinh đô, sáng lập nên Bổn Quốc Tự (本國寺) ở vùng Lục Điều Quật Xuyên (六條堀川). Ông được Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji) quy y theo, nhờ vậy mà phát triển chùa này to lớn ngang hàng với Diệu Hiển Tự (妙顯寺), và sáng lập Dòng Phái Lục Điều (六條門流). Trước tác của ông có Liêm Thương Điện Trung Vấn Đáp Ký (鎌倉殿中問答記) 1 quyển, Thử Kinh Nan Trì Thập Tam Khẩu Quyết (此經難持十三口決), Lục Điều Yếu Văn (六條要文).
(佐竹, Satake): tên gọi của một dòng họ, nhà Đại Danh Chiến Quốc vùng Thường Lục (常陸). Dòng họ này được xem như là hậu duệ của Thanh Hòa Nguyên Thị (清和源氏, Seiwa Genji) và Tam Lang Nghĩa Quang (三郎義光, tức Nguyên Nghĩa Quang [源義光, Minamoto-no-Yoshimitsu]) ở Tân La (新羅, tức Triều Tiên), họ đến sinh sống ở Làng Tá Trúc (佐竹郷), Thường Lục (常陸, Hitachi) và lấy tên vùng này làm họ của mình. Sau dòng họ này theo Lại Triều (賴朝, Yoritomo) chinh thảo vùng Áo Châu (奥州, Ōshū), rồi trong cuộc nội loạn Nam Bắc Triều thì ủng hộ cho Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji), và làm Thủ Hộ vùng Thường Lục. Đến thời đại Chiến Quốc, Nghĩa Trùng (義重), Nghĩa Tuyên (義宣) đã đối kháng với dòng họ Bắc Điều (北條, Hōjō) ở Tiểu Điền Nguyên (小田原, Odawara), và đứng về phe Tú Cát (秀吉, Hideyoshi). Trong cuộc hợp chiến ở Sekigahara (關ヶ原), dòng họ này đã đứng về phe phía Tây, rồi sau khi bị bại trận thì dời về sống ở vùng Thu Điền (秋田, Akita), Xuất Vũ (出羽, Dewa).
(增上寺, Zōjō-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Trấn Tây (鎭西派) thuộc Tịnh Độ Tông, hiện tọa lạc tại Shibakōen (芝公園), Minato-ku (港區), Kyōto-to (東京都); hiệu núi là Tam Duyên Sơn (三緣山); tên chính thức là Tam Duyên Sơn Quảng Độ Viện Tăng Thượng Tự (三緣山廣度院增上寺), là ngôi chùa nổi tiếng ở thủ đô Kyoto. Tượng thờ chính là A Di Đà Như Lai. Về vấn đề khai sáng của chùa, hiện vẫn còn nhiều điểm chưa rõ lắm, nhưng theo truyền ký thì chùa chính là hậu thân của Quang Minh Tự (光明寺) ở Thôn Bối Trũng (貝塚村); và người ta cho rằng Tông Duệ (宗睿) là người khai sơn ra chùa này. Theo như cuốn Ngọc Chi Lộ (玉枝露) của Kinh Lịch Hòa Thượng (經歷和尚), chùa này xưa kia vốn là tự viện của Chơn Ngôn Tông, là nơi thường dừng chân của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji). Theo ký lục của chùa, điều rõ ràng nhất đó là bắt đầu từ thời của Nguyên Dự (源譽), vị Tổ đời thứ 7 kể từ Tây Dự (西譽) trở đi. Vào năm 1590, khi Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) vào thành Giang Hộ thì cùng lúc đó đến tham bái Tăng Thượng Tự này, ông được Tồn Ứng Thượng Nhân (存應上人) chỉ cho pháp môn Thập Niệm. Từ đó mối quan hệ giữa chùa này với dòng họ tướng quân càng khắng khít, và đó cũng là đích điểm xuất phát sự phát triển của chùa này. Thế lực cũng như tài lực của chùa trong thời kỳ này có thể nói là rất mạnh và phong phú. Qua sự hưng thạnh của chùa này mà các tự viện trên toàn quốc cũng dần dần đặt nặng đến thế lực chính trị. Vào trong khoảng niên hiệu Nguyên Lộc (元祿, 1688-1704), vâng mệnh của chính quyền Mạc Phủ vị Quán Thủ của chùa thì được bổ nhiệm là chức Đại Tăng Chánh. Điều này đã làm cho ngôi chùa Tổng Bản Sơn Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in) ở Kyoto rất khó xử, vì lẽ đó mà thỉnh thoảng xảy ra những cuộc tranh chấp về chức vị. Ngôi chùa Tăng Thượng Tự này đã cùng với cấu trúc của Thành Giang Hộ, được dời về vị trí hiện tại, và trở thành một điểm trọng yếu trong Nội Phủ Thành Giang Hộ vậy. Chủ yếu ngôi chùa này đã phát triển rực rỡ nhờ mối quan hệ mật thiết với chính quyền Mạc Phủ của dòng họ Đức Xuyên (德川, Tokugawa), và được sự ngoại hộ phong phú của chính quyền Mạc Phủ cũng như Hoàng Thất. Nhưng đến cuối thời Minh Trị Duy Tân (明治維新, 1868) thì quyền lực ấy dần dần yếu hẳn đi, rồi trong khuôn viên chùa có 48 ngôi chùa con cũng từ từ sát nhập lại với nhau, và đến thời kỳ Chiêu Hòa (昭和, Shōwa) thì chỉ còn đếm được 20 ngôi chùa con mà thôi. Thời đại thay đổi và khuôn viên trong chùa cũng có những biến chuyển, trong chùa hiện tại có công viên, trường học, sở hành chính, vì thế hình dáng ngày xưa của chùa không còn được nguyên vẹn nữa.
(清水寺, Kiyomizu-dera hay Seisui-ji): ngôi chùa trung tâm của Bắc Pháp Tướng Tông, tọa lạc tại số 1-294 Kiyomizu (清水), Higashiyama-ku (東山區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); hiệu núi là Âm Vũ Sơn (音羽山), nơi tham bái hành hương thứ 16 trong suốt 33 nơi tham bái chính ở vùng Tây Quốc (西國, Saikoku). Tượng thờ chính của chùa là Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音). Vào năm 796, ngôi Quan Âm Tự (觀音寺) được dời đến vùng đất này, rồi đệ tử của Báo Ân Đại Sư (報恩大師) là Diên Trấn (延鎭) mới làm Tổ khai sơn chùa, còn hào tộc Điền Thôn Ma Lữ (田村麻呂) thì có công khai sáng chùa. Mấy năm sau các đường vũ của chùa được dựng lên và chùa trở thành ngôi chùa sắc nguyện của Hoàn Võ Thiên Hoàng (桓武天皇, Kammu Tennō), với tên gọi là Thanh Thủy Tự. Vào năm 811, chùa trở thành đạo tràng trấn hộ quốc gia, triều đình và hoàng thất quy y theo rất nhiều, nên chùa rất hưng thạnh. Sau đó, chùa phụ thuộc vào Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) ở vùng Nam Đô, chuyên tu cả Chơn Ngôn và Pháp Tướng, nhưng do chùa bị lôi cuốn vào cuộc phân tranh với Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji), nên cũng bao lần bị đốt cháy. Sau cuộc loạn Bình Nguyên (平源) thì chùa hoàn toàn suy thối, nhưng trong khoảng thời gian niên hiệu Kiến Cửu (建久, 1190-1198) thì chùa lại được tái kiến. Vào thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi) thì Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji) cúng dường đất xây chùa nên các đường vũ mới được tạo dựng nên. Sau đó chùa lại trải qua đến ba lần bị cháy rụi, rồi đến năm 1633 thì được Tướng Quân Đức Xuyên Gia Quang (德川家光, Tokugawa Iemitsu) tái kiến lại. Hiện tại có Thành Tựu Viện (成就院), Thái Sản Tự (泰産寺), Từ Tâm Viện (慈心院), Lai Nghênh Viện (來迎院), v.v. Chánh điện của chùa được tái kiến lại do sự hỗ trợ của Đức Xuyên Gia Quang, vẫn còn bảo trì cho đến ngày nay. Đây là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất ở kinh đô Kyoto.
(清淨華院, Shōjōke-in): một trong 4 ngôi chùa bổn sơn trung tâm của Tịnh Độ Tông; hiện tọa lạc tại Teramachidōri (寺町通), Jōkyō-ku (上京區), Kyoto-shi (京都市), không có hiệu chùa cũng như hiệu núi. Tượng thờ chính là Pháp Nhiên Thượng Nhân. Tương truyền theo sắc nguyện của Thanh Hòa Thiên Hoàng (清和天皇, Seiwa Tennō, tại vị 858-876), ngôi viện vốn phát xuất từ đạo tràng nhỏ do Viên Nhân (圓仁, Ennin) sáng lập, rồi vị khai Tổ của Tịnh Độ Tông là Nguyên Không (源空, Genkū, tức Pháp Nhiên) mới khai sáng ra ngôi viện này; nhưng thật tế người khai sơn viện này chính là Hướng A Chứng Hiền (向阿証賢), vào khoảng đầu thế kỷ 14. Đầu tiên nó nằm ở vùng Cao Thương (高倉, Takakura), nhưng đến năm 1339 thì Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji) mới dựng lên Đẳng Trì Tự (等持寺) và dời về chùa này. Hơn nữa, trong khoảng niên hiệu Thiên Chánh (天正, 1573-1592), do chính sách cải cách kinh đô của Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), nên chùa được dời về vị trí hiện tại. Với tư cách là cứ điểm của Phái Nhất Điều (一條派) thuộc Tịnh Độ Tông, chùa đã hưng thạnh rực rỡ, rồi được hàng ngũ công khanh cũng như Hoàng Thất quy y theo rất nhiều; nhưng trong hai vụ Loạn Ứng Nhân (應仁) và Văn Minh (文明) thì vận chùa bị suy thối, nhưng đến khoảng đầu thế kỷ thứ 17 thì chùa lại được phục hưng. Nguyên lai chùa này vốn là đạo tràng trong cung cấm nên hiện tại trong khuôn viên chùa vẫn còn nhiều ngôi mộ của các Hoàng Tử, Hoàng Nữ, Công Chúa, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập