Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tuấn Nhưng »»
(律宗, Ris-shū): học phái chuyên nhấn mạnh về sự tu tập và nghiên cứu giới luật, do Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường thành lập nên ở Trung Hoa, lấy việc thọ trì Tứ Phần Luật (四分律) cũng như Tam Tụ Tịnh Giới (三聚淨戒) của Bồ Tát làm yếu nhân để thành Phật. Giới luật do đức Phật chế ra được thâu tập thành Luật Tạng; nhưng khi giáo đoàn phân liệt thì giới luật được truyền thừa khác nhau theo 20 bộ phái. Tại Trung Hoa, 4 bộ luật gồm Thập Tụng Luật (十頌律), Tứ Phần Luật (四分律), Tăng Kỳ Luật (僧祇律) và Ngũ Phần Luật (五分律) được lưu truyền. Trong đó, chỉ có Tứ Phần Luật là được phổ biến nhất, từ đó phân phái thành Tướng Bộ Tông (相部宗) của pháp Lệ (法礪, 560-635), Nam Sơn Tông (南山宗) của Đạo Tuyên (道宣, 596-667), Đông Tháp Tông (東塔宗) của Hoài Tố (懷素, 624-697). Học phái này cũng được truyền sang Nhật, và trở thành một trong 6 tông phái lớn vùng Nam Đô. Vào năm 754 (năm thứ 6 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳]), Giám Chơn (鑑眞, Ganjin)—cao đệ của Hằng Cảnh (恒景, Kōkei), đệ tử của Đạo Tuyên, đã từ Trung Quốc sang và truyền thừa tông này vào Nhật. Sau đó, ông thành lập 3 giới đàn tại Đông Tự (東寺, Tō-ji), Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji), Quan Thế Âm Tự (觀世音寺, Kanzeon-ji) và khai sáng Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺, Tōshōdai-ji) làm đạo tràng căn bản để nghiên cứu về giới luật cũng như làm ngôi chùa trung tâm chính cho tông phái này. Về sau, tông phái này trãi qua một thời suy vong, nhưng rồi được phục hưng lại nhờ nhóm Thật Phạm (實範, Jitsuhan), Giác Thạnh (覺盛, Kakujō) và Duệ Tôn (叡尊, Eison). Hơn nữa, nhóm Tuấn Nhưng (俊芿, Shunjō), Đàm Chiếu (曇照, Donshō) sang nhà Đường cầu pháp, rồi truyền giới luật vào Nhật và xác lập nên Bắc Kinh Luật (北京律) ở trung tâm Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Senjū-ji), đối lập với Nam Kinh Luật (南京律) của Giác Thạnh. Hiện tại, bên cạnh ngôi chùa Tổng Bản Sơn của Luật Tông là Đường Chiêu Đề Tự, còn có sự hiện hữu của giáo đoàn Chơn Ngôn Luật Tông (眞言律宗), lấy Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) làm Tổng Bản Sơn.
(國清寺, Kokusei-ji): ngôi chùa tọa lạc tại sườn núi phía nam của ngọn Phật Lũng Phong (佛隴峰), thuộc Thiên Thai Sơn (天台山), Huyện Thiên Thai (天台縣), Tỉnh Triết Giang (浙江省), là nơi phát xuất của Thiên Thai Tông Trung Quốc. Vào năm 596 (niên hiệu Khai Hoàng [開皇] thứ 18 nhà Tùy), vua nhà Tấn là Dương Quảng (揚廣, tức Dương Đế [煬帝]) sáng lập ngôi chùa này cho Đại Sư Trí Khải (智顗). Lúc đầu tiên, Thiền Sư Định Quang (定光) đến trú tại núi này, thường dạy chúng đệ tử rằng không bao lâu nữa sẽ có bậc thiện tri thức lỗi lạc đến đây. Sau đó, quả nhiên có Trí Khải đến quảng bố giáo pháp, nhưng chưa thành tựu bao nhiêu thì đã thị tịch ở Nam Kiến Tự (南建寺), Phật Lũng (佛隴). Nhà vua rất thương tiếc, bèn cúng dường trai tăng cho ngàn vị tăng để hồi hướng cho Trí Khải, và tiến hành trùng kiến các ngôi đường vũ. Ban đầu chùa có tên là Thiên Thai Sơn Tự (天台山寺), sau nhân lần đầu tiên khi Trí Khải đến núi, Định Quang mộng báo cho biết 3 nước (Bắc Chu, Bắc Tề và Trần) hợp thành một, có một người rất có thế lực mới có thể làm cho chùa thành tựu được, chùa thành tựu thì nước mới thanh bình; cho nên chùa được đặt tên là Quốc Thanh Tự. Vào năm 605 (niên hiệu Đại Nghiệp [大業] nguyên niên nhà Tùy), chùa được ban sắc ngạch với tên gọi như vậy. Không bao lâu sau, Quán Đảnh (灌頂) đến trú trì chùa và nơi đây trở thành đạo tràng căn bản của Thiên Thai Tông. Từ niên hiệu Trinh Nguyên (貞元) 9 nhà Đường trở về sau, các lưu học tăng Nhật Bản đến chùa tham học càng đông, như Tối Trừng (最澄), Nghĩa Chơn (義眞), Viên Giới (圓戒), Viên Tu (圓修), Thành Tầm (成尋), Tuấn Nhưng (俊芿), Trùng Nguyên (重源), Vinh Tây (榮西), v.v. Mọi người đều đến đảnh lễ miếu tháp của Trí Khải, sau đó mang về nước các tượng Phật, kinh luận, v.v., và khai sáng Thiên Thai Tông Nhật Bản. Theo cuốn Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Hành Ký (入唐求法巡禮行記) của Viên Nhân (圓仁), đương thời chùa thường có khoảng150 vị tăng lưu trú, đến mùa An Cư kiết hạ thì có hơn 300 người; cho nên lúc bấy giờ chùa đang hồi cực thịnh. Đến lúc nạn Hủy Phật Hội Xương (會昌), chùa bị binh hỏa thiêu rụi. Vào năm 851 (niên hiệu Đại Trung [大中] thứ 5), chùa được trùng kiến lại và đến năm 1005 (niên hiệu Cảnh Đức [景德] thứ 2 nhà Tống), chùa đổi tên thành Cảnh Đức Quốc Thanh Tự (景德國清寺). Sau đó, chùa lại bị binh hỏa thiêu cháy, mấy trăm quyển sách của ba triều đại đều mất sạch, chỉ còn lại Liên Kinh (蓮經) do Trí Khải đề bút, 1 quyển kinh lá bối của Tây Vức và tượng Phật bằng gỗ Chiên Đàn thời nhà Tùy cũng như răng Phật mà thôi. Vào năm 1128 (niên hiệu Kiến Viêm [建炎] thứ 2 nhà Nam Tống), triều đình ban sắc lệnh trùng tu chùa, cho nên cảnh trí chùa đẹp hơn ngày xưa. Hai năm sau, triều đình hạ chiếu chuyển chùa sang Thiền Tông, vì vậy nơi đây trở thành Thiền tự. Về sau, chùa đã trải qua bao lần tái tạo và khuôn viên chùa được gọi là một trong 4 thắng cảnh trong thiên hạ. Nơi đây có cầu tên Phong Can Kiều (豐干橋), tương truyền dưới thời nhà Đường, Phong Can (豐干), Hàn Sơn (寒山) và Thập Đắc (拾得) đã từng đến chơi ở đây. Cũng phát xuất từ nhân duyên Của Thiền Sư Phong Can với chùa, nên từ đó về sau chùa được đội thành Thiền tự. Trước chùa có tháp 9 tầng bằng ngói. Bảo vật của chùa có tháp Xá Lợi bằng đồng do Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục (錢弘淑) tạo.
(心海, Shinkai, ?-?): vị tăng chuyên học về Chơn Ngôn lẫn Luật Tông, sống vào khoảng đầu và giữa thời đại Liêm Thương, húy là Tâm Hải (心海), hiệu Không Nguyệt (空月). Ông theo học về giới luật cũng như hai tông Hiển Mật với Tuấn Nhưng (俊芿) ở Tuyền Dũng Tự (泉涌寺), vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro). Năm 1277, khi Tuấn Nhưng qua đời, ông nhờ một danh họa người Tống tên Chu Viên Sĩ (周圓士) vẽ tượng thầy mình. Trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Hỷ (寛喜, 1229-1232), ông đến sống ở Thắng Man Viện (勝鬘院) trong Tứ Thiên Vương Tự (四天王寺, Shitennō-ji), vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu) và chuyên tâm truyền bá giới luật.
(長西, Chōsai, 1184-1266): vị Tăng của Tịnh Độ Tông, sống vào khoảng đầu và giữa thời Liêm Thương, húy là Trường Tây (長西), hiệu Giác Minh Phòng (覺明房); xuất thân vùng Tây Tam Cốc (西三谷), Tán Kì (讚岐, Sanuki, thuộc Kagawa-ken [香川縣]); con trai của vị Trưởng Quan Kami vùng Y Do (伊予, Iyo) là Đằng Nguyên Quốc Minh (藤原國明). Hồi nhỏ ông đã từng học các thư tịch của Nho Giáo, đến năm 1202, ông ký tên vào bản Bảy Điều Răn Dạy để đối phó với sự đàn áp của đồ chúng Thiên Thai Tông, rồi năm 1207 ông đi theo hầu Nguyên Không khi bị dày tội đến vùng Tứ Quốc (四國, Shikoku). Sau khi thầy qua đời, ông theo học Ma Ha Chỉ Quán với Tuấn Nhưng (俊芿, Shunjō), rồi Thiền với Đạo Nguyên (道元, Dōgen), cũng như giáo nghĩa của Phái Tây Sơn với Chứng Không (証空, Shoku). Ông có cùng lý tưởng về giáo lý của Giác Du (覺瑜) thuộc Thiên Thai Tông và chủ trương nghĩa của Chư Hạnh Bổn Nguyện. Ông chuyển đến sống ở Cửu Phẩm Tự (九品寺) tại vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro), chuyên tâm giảng thuyết và hoằng truyền giáo nghĩa của mình. Dòng pháp của ông gọi là Dòng Cửu Phẩm Tự (九品寺流). Trước tác của ông để lại có Tịnh Độ Y Bằng Kinh Luận Chương Sớ Mục Lục (淨土依憑經論章疏目錄, tức Trường Tây Lục [長西錄]) 1 quyển, Tuyển Trạch Tập Danh Thể Quyết (選擇集名体決) 1 quyển, Niệm Phật Bổn Nguyện Nghĩa (念佛本願義) 1 quyển, Quán Kinh Sớ Quang Minh Sao (觀經疏光明抄) 18 quyển, v.v.
(俊芿, Shunjō, 1166-1227): học Tăng phục hưng Giới Luật, sống vào đầu thời Liêm Thương, vị Tổ khai sơn Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Sennyū-ji), húy là Tuấn Nhưng (俊芿), tự Bất Khả Khí (不可棄), hiệu là Ngã Thiền Phòng (我禪房), thụy hiệu Đại Hưng Chánh Pháp Quốc Sư (大興正法國師), Đại Viên Giác Tâm Chiếu Quốc Sư (大圓覺心照國師), Nguyệt Luân Đại Sư (月輪大師); xuất thân vùng Vị Mộc (味木, Miki), Phì Hậu (肥後, Higo, thuộc Kumamoto-ken [熊本懸]). Sau khi thọ giới ở Quan Thế Âm Tự (觀世音寺) của Thái Tể Phủ (太宰府), ông tu học giới luật ở Kinh Đô, Nam Đô; rồi kiến lập ở Đổng Nhạc (筒岳), Phì Hậu ngôi Chánh Pháp Tự (正法寺) và tận lực lưu bố pháp môn của ông. Đến năm 1199, ông sang nhà Tống, học về Thiên Thai, Thiền cũng như Mật Giáo; đặc biệt ông có học về giới luật với Như Am Liễu Hoằng (如庵了宏) ở Cảnh Phước Tự (景福寺) thuộc Tứ Minh Sơn (四明山). Vào năm 1211, ông trở về nước, đem theo rất nhiều điển tịch, Xá Lợi Phật, được Minh Am Vinh Tây (明菴榮西) nghênh đón vào Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji). Năm 1218, Trung Nguyên Tín Phòng (中原信房) dâng cúng cho ông ngôi Tiên Du Tự (仙遊寺) ở vùng Đông Sơn (東山, Higashiyama). Ông đổi tên chùa thành Tuyền Dũng Tự, chỉnh trang cảnh quan chùa và trở thành đạo tràng phát triển giới luật, kiêm tu cả Thiên Thai, Mật Giáo, Thiền và Tịnh Độ. Từ tầng lớp quyền môn như Hậu Điểu Vũ Thượng Hoàng (後鳥羽上皇), Bắc Điều Thái Thời (北條泰時), v.v., cho đến hàng thứ dân, đều tập trung quy y về chùa. Phong trào vận dộng phục hưng giới luật của ông đã tạo ảnh hưởng rất lớn đối với giới Phật Giáo đương thời. Hậu thế gọi giới luật của ông là Bắc Kinh Luật (北京律). Đệ tử của ông có Định Thuấn (定舜), Trạm Hải (湛海), Tâm Hải (心海), Liễu Chơn (了眞), v.v. Trước tác của ông để lại có Tam Thiên Nghĩa Bị Kiểm (三千義僃檢) 2 quyển, Phật Pháp Tông Chỉ Luận (佛法宗旨論) 1 quyển, Niệm Phật Tam Muội Phương Pháp (念佛三昧方法) 1 quyển, Tọa Thiền Sự Nghi (坐禪事儀) 1 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập