Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Nỗ lực mang đến hạnh phúc cho người khác sẽ nâng cao chính bản thân ta. (An effort made for the happiness of others lifts above ourselves.)Lydia M. Child
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Từ vũ »»

(白玉): loại ngọc quý màu trắng mỡ, rất hiếm có màu xanh nhạt, hay vàng sữa. Loại có chất lượng cao nhất xuất phát từ vùng Hòa Điền (和田), Tân Cương (新疆), Nội Mông. Dưới thời nhà Minh, Thanh của Trung Quốc, khi nói đến từ Bạch Ngọc, tức ám chỉ loại ngọc trắng của vùng Hòa Điền, Tân Cương. Hiện tại, ngoài loại ngọc màu trắng chúng ta thường thấy, còn có Tân Sơn Ngọc (新山玉), Mật Ngọc (密玉), Độc Sơn Ngọc (獨山玉), Thanh Hải Bạch Ngọc (青海白玉), cũng như Bạch Ngọc của Hàn Quốc, v.v. Đây là loại ngọc rất quý hiếm, có độ bền cao; nên thường được dùng để làm đồ trang sức, điêu khắc thành tượng Phật, xâu chuỗi, khám thờ, v.v. Câu “Bạch ngọc giai tiền, hàm thọ Đề Hồ chi vị (白玉階前、咸受醍醐之味)” ở trên có nghĩa là trước thềm ngọc trắng thọ nhận trọn vẹn vị Đề Hồ (diệu pháp). Trong bài cúng linh được chư tăng ở Huế thường dùng cũng có có câu với ý nghĩa tương tự như vậy: “Bạch Ngọc giai tiền văn diệu pháp, Huỳnh Kim điện thượng lễ Như Lai (白玉階前聞妙法、黃金殿上禮如來, Ngọc Trắng trước thềm nghe diệu pháp, vàng ròng trên điện lễ Như Lai).” Hơn nữa, trong hồi thứ 29 của Tây Du Ký (西遊記) cũng có đoạn: “Các đới tùy thân binh khí, tùy kim bài nhập triều, tảo đáo Bạch Ngọc giai tiền, tả hữu lập hạ (各帶隨身兵器、隨金牌入朝、早行到白玉階前、左右立下, mỗi người đều mang theo binh khí tùy thân, đem tấm kim bài vào triều, đi nhanh đến trước thềm Ngọc Trắng, đứng yên hai bên phải trái).”
(百濟, Kudara): tên 1 trong 3 vương quốc của Triều Tiên ngày xưa, đã chiếm lĩnh vùng Tây Nam bộ bán đảo Triều Tiên. Khoảng giữa thế kỷ thứ 4, nước này đã khuyếch đại thế lực của mình từ nước Mã Hàn (馬韓), rồi năm 371 thì đóng đô ở Hán Sơn Thành (漢山城), sau đó lại dời đô về Tứ Tỷ Thành, tức Trung Thanh Nam Đạo Phù Dư (忠清南道扶余) ngày nay. Người ta cho rằng dòng họ nhà vua nước này là thuộc tộc Phù Dư (扶余) di dân từ vùng đông bắc Trung Quốc sang. Để đối kháng với hai nước Cao Cú Lệ (高句麗) và Tân La (新羅), nước này đã kết thân với vương triều Oa (倭) của Nhật, và chính vương triều này đã truyền bá Nho Giáo cũng như Phật Giáo vào Nhật.
(螽斯蟄蟄): chung tư (螽斯) hay tư chung (斯螽) là con giọt sành, một loài sâu nhả tơ, tương truyền một lần sinh ra 99 con sâu con; chập chập (蟄蟄) có nghĩa là đông đúc, số lượng nhiều, đầy đàn, lúc nhúc, v.v. Câu này thường dùng để chúc tụng hay ví cho con cháu đông đúc, đầy đàn. Nó phát xuất từ trong phần Quốc Phong (國風), Chu Nam (周南) của Thi Kinh: “Chung tư vũ sân sân hề, nghi nhĩ tử tôn chấn chấn hề; chung tư vũ hoảng hoảng hề, nghi nhĩ tử tôn thằng thằng hề; chung tư vũ ấp ấp hề, nghi nhĩ tử tôn chập chập hề (螽斯羽詵詵兮、宜爾子孫振振兮、螽斯羽薨薨兮、宜爾子孫繩繩兮、螽斯羽揖揖兮、宜爾子孫蟄蟄兮, cánh giọt sành lớp lớp chừ, nên con cháu ngươi đông đúc chừ; cánh giọt sành ào ạt chừ, nên con cháu ngươi nối tiếp chừ; cánh giọt sành lúc nhúc chừ, nên con cháu ngươi đông đảo chừ).” Hơn nữa, trong Ấu Học Quỳnh Lâm (幼學瓊林) quyển 2 cũng có đoạn rằng: “Khả ái giả, tử tôn chi đa nhược chung tư chi chập chập; kham tiện giả, hậu nhân chi thạnh như qua điệt miên miên (可愛者、子孫之多若螽斯之蟄蟄、堪羨者、後人之盛如瓜瓞綿綿, Dễ thương thay, cháu con thêm nhiều như giọt sành chúng đông đúc; thật thích thay, người sau thịnh vượng như dưa trái trổ lâu dài).”
(久遠寺, Kuon-ji): ngôi chùa Tổng Bản Sơn trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại số 3567 Minobu (身延), Minobu-chō (身延町), Minamikoma-gun (南巨摩郡), Yamanashi-ken (山梨縣); hiệu núi là Thân Diên Sơn (身延山), tên gọi chính thức là Thân Diên Sơn Diệu Pháp Hoa Viện Cửu Viễn Tự (身延山妙法華院久遠寺), tượng thờ chính là Thập Giới Mạn Trà La (十界曼荼羅). Đây là di tích quan trọng đánh dấu Nhật Liên (日蓮, Nichiren) đã từng lưu trú kể từ năm thứ 11 (1274) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), và cũng là nơi được biến thành tự viện với ngôi Miếu Đường làm trung tâm sau khi Nhật Liên qua đời vào năm thứ 5 (1282) niên hiệu Hoằng An (弘安). Tên chùa được thấy đầu tiên qua thư tịch ghi năm 1283 là Thân Diên Sơn Cửu Viễn Tự Phiên Trương (身延山久遠寺番帳). Về ngôi Miếu Đường, 6 người cao đệ chân truyền của Nhật Liên cùng với 12 người khác, tổng cọng là 18 người, thay phiên nhau mỗi người 1 tháng canh giữ; nhưng không bao lâu sau thì hủy bỏ quy định này. Vào khoảng năm 1284, 1285, Nhật Hưng (日興) trở thành người thường trú ở đây, và trong khoảng thời gian này có Nhật Hướng (日向) cũng cùng chung sức duy trì và phát triển Thánh địa này. Tuy nhiên, Nhật Hưng lại bất hòa với lãnh chúa Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長), tín đồ đắc lực từ thời Nhật Liên; cho nên vào năm đầu (1288) niên hiệu Chánh Ứng (正應), ông lui về vùng Phú Sĩ (富士, Fuji), Tuấn Hà (駿河, Suruga). Từ đó trở về sau, Nhật Hướng và môn lưu của ông kế thừa chùa này. Hệ thống của ông được gọi là Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流), Dòng Phái Thân Diên (身延門流). Từ đó, Cửu Viễn Tự mở rộng giáo tuyến, và đôi khi chùa mang đậm sắc thái là ngôi tự viện của chính dòng họ Ba Mộc Tỉnh. Trong khoảng thời gian 10 năm từ năm đầu (1466) niên hiệu Văn Chánh (文正) cho đến năm thứ 7 (1475) niên hiệu Văn Minh (文明), Nhật Triêu (日朝), vị Quán Thủ đời thứ 11 của chùa, đã di chuyển ngôi đường vũ cũng như các kiến trúc khác ở Tây Cốc (西谷) đến vị trí hiện tại; đồng thời ông cũng quy định ra những hành sự trong năm, đặt ra cơ quan điều hành các lễ hội hàng tháng và mở rộng giáo hóa. Cửu Viễn Tự thời Trung Đại chủ yếu lấy vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai), Tuấn Hà (駿河, Suruga) làm cứ điểm hoạt động. Tướng Quân Võ Điền Tình Tín (武田晴信, Takeda Harunobu, tức Tín Huyền [信玄, Shingen]) của Giáp Phỉ tiến hành cầu nguyện ở Cửu Viễn Tự cho vận thế của dòng họ Võ Điền (武田, Takeda) được dài lâu; đồng thời bảo chứng cho quyền trú trì của chùa. Bên cạnh đó, trung thần của ông là Huyệt Sơn Tín Quân (穴山信君) cũng dốc toàn lực bảo trợ cho chùa. Sau khi dòng họ Võ Điền qua đời, Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) lên thay thế nắm chính quyền vùng Giáp Phỉ, cũng tiếp tục bảo hộ cho chùa, rồi vào năm thứ 16 niên hiệu (1588) niên hiệu Thiên Chánh (天正), ông quy định miễn trừ các lao dịch cho chùa và bảo chứng quyền trú trì ở đây. Về sau, qua các đời chùa được ban cho như quy định cũ. Đến đầu thời Cận Đại, từ vụ đàn áp Phái Không Nhận Không Cho vốn phát sinh qua cuộc tựu nhiệm trú trì Quán Thủ chùa cho Nhật Càn (日乾), Nhật Viễn (日遠) của Bổn Mãn Tự (本滿寺) ở Tokyo, nơi đây trở thành chủ tọa cho giáo đoàn Nhật Liên trên toàn quốc. Trong bản Pháp Hoa Tông Chư Tự Mục Lục (法華宗諸寺目錄) được hình thành năm thứ 10 (1633) niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永), những chùa con trực thuộc Cửu Viễn Tự có 412 cơ sở; và chùa còn gián tiếp quản lý 1.519 ngôi chùa con khác nữa. Mặt khác, theo sự tăng dần số lượng người đến tham bái từ cuối thời Trung Đại trở đi, những ngôi viện con xuất hiện. Trú trì cũng như tăng chúng của các viện con thì phục vụ trực tiếp cho viện chính, cùng nhau tham gia điều hành chùa; cho nên Cửu Viễn Tự là một phức hợp thể của viện chính và các viện con. Vị trú trì đời thứ 31 của chùa là Nhật Thoát (日脫) cũng như trú trì đời thứ 32 là Nhật Tỉnh (日省) đều được cho phép đắp Tử Y. Vào năm thứ 3 (1706) niên hiệu Bảo Vĩnh (寶永), dưới thời vị trú trì thứ 33 là Nhật Hanh (日亨), từ đó về sau lịch đại chư vị trú trì đều được phép mang Tử Y. Cũng vào thời này, nhờ sự cúng dường của các nhà Đại Danh cũng như hàng cung thất của họ, nhiều kiến trúc đường xá của chùa được tạo dựng; nhưng chùa lại bị mấy lần hỏa tai vào những năm thứ 4 (1821), thứ 7 (1824), thứ 12 (1829) niên hiệu Văn Chính (文政). Trãi qua các niên hiệu Thiên Bảo (天保), Gia Vĩnh (嘉永), già lam lại được phục hưng; song đến năm thứ 8 (1875) thời Minh Trị (明治), chùa lần nữa bị hỏa tai và hơn phần nữa già lam bị cháy rụi. Sau mấy lần trùng tu, hiện tại chùa có một quần thể kiến trúc rộng lớn với rất nhiều ngôi đường xá như Tổng Môn (總門), Tam Môn (三門), Bổn Đường (本堂, Chánh Điện) tôn trí bức Mạn Trà La do chính tay Nhật Liên vẽ; Ngũ Trùng Tháp (五重塔, tháp 5 tầng); Thê Thần Các Tổ Sư Đường (棲神閣祖師堂) an trí tượng Nhật Liên; Thích Ca Điện (釋迦殿); Ngự Chơn Cốt Đường (御眞骨堂) an trí hài cốt của Nhật Liên; Khai Cơ Đường (開基堂) tôn thờ Ba Mộc Tỉnh Thật Trường, v.v.
(大乘院寺社雜事記, Daijōinjishazojiki): đây không phải là tên gọi ngày xưa của tác phẩm này, mà nó được thay đổi kể từ năm đầu thời Minh Trị, khi phần lớn các văn thư ký lục của Hưng Phước Tự (興福寺, Kofuku-ji) đều trở thành thư tịch của Văn Khố Nội Các. Khi ấy, Văn Khố Nội Các kết hợp hai bản nhật ký của Tầm Tôn (尋尊), vị Tổ đời thứ 27 của Hưng Phước Tự và của Kinh Tầm (經尋), vị Tổ đời thứ 30 của chùa này, rồi đặt thành tên gọi như vậy. Kế đến, khi san hành bản này vào năm 1931, người hiệu đính mới thêm vào phần nhật ký của vị Tổ đời thứ 28 của chùa là Chính Giác (政覺) nữa. Tuy đây là 3 bản nhật ký của 3 vị Tổ ở Hưng Phước Tự, nhưng trong đó, bản nhật ký của Tầm Tôn có chất lượng hơn hai bản kia. Vào tháng 2 năm 1456, Tầm Tôn được bổ nhiệm làm chức Biệt Đương của Hưng Phước Tự; khi ấy ông bắt đầu viết nhật ký miệt mài, và chính tự ông đặt tên cho bản nhật ký của ông là Tự Vụ Chư Phương Hồi Thỉnh (寺務諸方迴請). Tiếp theo, vào thàng 3 năm 1459, khi ông từ chức Biệt Đương, ông tiếp tục viết phần Tự Xã Tạp Sự Ký (寺社雜事記) cho đến tháng giêng năm 1508, kéo dài khoảng 49 năm trường. Bản đầu, Tự Vụ Phương Chư Hồi Thỉnh, gồm 12 thiếp; bản sau kể cả phần thất lạc gồm 204 thiếp. Ngoài ra phần biệt ký hiện tồn gồm 8 thiếp, chỉ với số lượng như vậy thôi cũng quả là bạt quần rồi. Ngôn từ Tự Xã trong phần Tự Xã Tạp Sự Ký không có nghĩa là chùa chiền, đền thờ Thần xã nói chung, mà là ngôn từ viết tắt của Hưng Phước Tự và đền thờ Xuân Nhật Xã (春日社), và phần lớn Tầm Tôn dùng ngôn từ này với ý nghĩa như vậy. Như vậy bản nhật ký này là bản ký lục ghi lại những công việc pháp sự cũng như Phật sự, Thần sự của Hưng Phước Tự và Xuân Nhật Xã. Tuy nhiên, ở phía trái dưới bên ngoài đề của các bức thiếp của hai nơi này, Tầm Tôn đều có ghi dòng chữ “Đại Thừa Viện (大乘院)” cả, và bên dưới có ghi thêm dòng “Phú Viện Gia (付院家)”. Nói tóm lại, bên ngoài bìa đề cho dù có thay đổi tùy theo khi ấy Tầm Tôn còn làm chức Biệt Đương hay không, nhưng đây không phải là bản ký lục của riêng vị Biệt Đương, mà cũng chẳng phải là bản nhật ký của cá nhân Tầm Tôn; song dầu gì đi nữa thì đó cũng là ký lục của Đại Thừa Viện, hơn nữa đối tượng của ký lục ấy chủ yếu là tự viện và đền thờ Thần xã. Do đó, nó được lấy tên gọi là Đại Thừa Viện Tự Xã Tạp Sự Ký (大乘院寺社雜事記), hơn là Tầm Tôn Đại Tăng Chánh Ký (尋尊大僧正記).
(東國, Tōgoku): các tiểu quốc phía đông, nghĩa là từ vùng đất phụ cận kinh thành của Hoàng triều đi về các tiểu quốc phía Đông.
(余慶, Yokei, 919-991): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, Thiên Thai Tọa Chủ đời thứ 20, trú trì đời thứ 15 của Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji), húy Dư Khánh (余慶), thụy hiệu là Trí Biện (智辨), xuất thân vùng Tảo Lương (早良), Trúc Tiền (筑前, Chikuzen, thuộc Fukuoka-ken [福岡縣]), họ Vũ Tá (宇佐). Năm 967, ông thọ phép Bí Mật Quán Đảnh của Hành Dự (行譽) ở Thiên Quang Viện (千光院); và đến năm 979 thì làm Trưởng Lại (長吏, Chōri) của Viên Thành Tự vùng Cận Giang (近江, Ōmi). Vào năm 981, ông đảm nhiệm chức Tọa Chủ của Pháp Tánh Tự (法性寺, Hōshō-ji) vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro). Năm 989, ông được bổ nhiệm làm Thiên Thai Tọa Chủ, nhưng gặp phải sự chống đối của môn đồ Từ Giác (慈覺, Phái Sơn Môn) và mối bất hòa với môn đồ Trí Chứng (智証, Phái Tự Môn) càng lên cao. Do đó, Dư Khánh thống suất môn nhân của ông xuống núi, chuyển đến sống tại Quan Âm Viện (觀音院, Kannon-in, tức Đại Vân Tự [大雲寺, Daiun-ji]) ở vùng Nham Thương (岩倉, Iwakura) thuộc Sơn Thành. Từ đó, ông cống hiến toàn lực để phát triển môn phái.
(陽月): tên gọi khác của tháng 10 Âm Lịch, vì tháng này thuộc về Tiểu Dương Xuân (小陽春), nên có tên như vậy. Như trong Quan Âm Kinh Phổ Môn Phẩm Phu Thuyết (觀音經普門品膚說, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 35, No. 647) có câu: “Mậu Ngọ Dương Nguyệt Gia Hòa Trí Giác Giáo Tự Tỳ Kheo Linh Diệu tự (戊午陽月嘉禾智覺敎寺比丘靈耀序, vào tháng 10 năm Mậu Ngọ, Tỳ Kheo Linh Diệu ở Trí Giác Giáo Tự vùng Gia Hòa ghi lời tựa).” Hay trong Hóa Châu Bảo Mạng Chơn Kinh (化珠保命眞經, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 25) cũng có câu: “Vạn Lịch Kỷ Dậu Dương Nguyệt cát đán Mân Vương Hanh Trọng huân mộc bái tử (萬曆己酉陽月吉旦閩王亨仲熏沐拜梓, vào sáng sớm tốt lành tháng 10 năm Kỷ Dậu [1609] niên hiệu Vạn Lịch, vua nhà Mân là Hanh Trọng xông hương, tắm rửa, lạy khắc).”
(河伯): tên gọi của vị Thủy Thần ở Hoàng Hà (黃河) trong truyền thuyết thần thoại Trung Quốc. Về lịch sử, tên ban đầu của Hà Bá là Băng Di (冰夷), Bằng Di (馮夷), Hà Thần (河神), Vô Di (無夷). Tên gọi Hà Bá phát xuất từ thời Chiến Quốc (戰國, 403 hay 453-221 ttl.), truyền thuyết không thống nhất với nhau. Vì Hoàng Hà thường lũ lụt, gây tai họa khôn xiết, cho nên người ta cho rằng tính tình của Hà Bá cũng hung bạo. Thần thoại kể rằng Hậu Nghệ (后羿) đã từng dùng tên bắn vào mắt trái Hà Bá. Do vì ông có uy lực không thể lường, nên từ xưa đã có tập tục xấu “Hà Bá Thú Phụ (河伯娶婦, Hà Bá Cưới Vợ)”, lấy đó để cầu được bình an, không hoạn nạn. Về truyền thuyết “Hà Bá Thú Phụ (河伯娶婦, Hà Bá Cưới Vợ)”, dưới thời đại Chiến Quốc, Tây Môn Báo được phái đến Nghiệp Thành (鄴城, nay thuộc Huyện Lâm Chương [臨漳縣], Tỉnh Hà Bắc [河北省]) làm quan huyện. Khi đến nơi thì không bóng người qua lại, cả ngày hoang vắng, bèn hỏi xem thử nguyên do vì sao. Có một lão già tóc bạc phơ bảo rằng đó là do vì chuyện Hà Bá cưới vợ gây nên náo loạn như vậy. Hà Bá là thần của sông Chương, hằng năm đều phải cưới một cô nương xinh đẹp. Nếu như không đem cống nạp, tất sông Chương sẽ phát sinh lũ lớn, làm cho ruộng đất, nhà cửa đều ngập trong biển nước. Nghe vậy, Tây Môn Báo biết rằng đây là câu chuyện bịa đặt của tên tham quan nào đó để xách nhiễu lòng dân. Đợi đến ngày Hà Bá Cưới Vợ năm sau, ông đến ngay tại hiện trường quan sát. Ông phát hiện con quan lớn nhỏ cùng với mấy bà đồng bóng đội lốt thần quỷ cũng có mặt. Về sau, Tây Môn Báo (西門豹) nhà Ngụy không tin vào truyền thuyết đó, cấm tuyệt không cho thờ cúng, kêu gọi dân chúng làm cầu, ngăn đê, cuối cùng dứt được sự lo âu về thủy tai. Về truyền thuyết, Hà Bá có thân người đuôi cá, tóc trên đầu màu trắng bạc, tròng mắt có màu sắc rực rỡ như ngọc Lưu Ly. Tuy nhiên, ông là người nam, có vẻ đẹp dị thường, trên thân có mùi hương thơm ngát, mới nhìn thoáng qua khoảng không quá 20 tuổi. Trong Bão Phác Tử (抱朴子), Thiên Thích Quỷ (釋鬼篇), có giải thích rằng Băng Di đi qua sông, bị chết đuối, được Thiên Đế giao cho làm Hà Bá để quản lý sông hồ. Hay như trong Sưu Thần Ký (搜神記) quyển 4 có đoạn giải thích sự việc trên rằng: “Tống thời Hoằng Nông Bằng Di, Hoa Âm, Đồng Hương, Đê Thủ nhân dã, dĩ bát nguyệt thượng Canh nhật độ hà, nịch tử; Thiên Đế thự vi Hà Bá (宋時弘農馮夷、華陰潼鄉隄首人也、以八月上庚日渡河、溺死、天帝署爲河伯, vào niên hiệu Hoằng Nông nhà Tống, có Bằng Di, người Đê Thủ, Đồng Hương, vùng Hoa Âm, nhân qua sông vào ngày Canh đầu tháng 8, bị chết đuối; Thiên Đế phong cho làm Hà Bá).” Trong tác phẩm Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō No. 2122) quyển 75 của Phật Giáo cũng có cùng nội dung tương tự như vậy. Cũng có thuyết cho rằng Hà Bá dùng 8 thứ đá (xưa kia các Đạo gia dùng 8 loại nguyên liệu bằng đá để luyện đơn, gồm Chu Sa [硃砂], Hùng Hoàng [雄黃], Thử Hoàng [雌黃], Không Thanh [空青], Vân Mẫu [雲母], Lưu Huỳnh [硫黃], Nhung Diêm [戎鹽], và Tiêu Thạch [硝石]) và thành thần, như trong Sơn Hải Kinh Hải Kinh Tân Thích (山海經海經新釋) quyển 7 có giải thích: “Bằng Di, Hoa Âm, Đồng Hương, Đê Thủ nhân dã, phục bát thạch, đắc Thủy Tiên, thị vi Hà Bá (馮夷華陰潼鄉隄首人也、服八石、得水仙、是爲河伯, Bằng Di, người Đê Thủ, Đồng Hương, vùng Hoa Âm, dùng tám loại đá, thành Thủy Tiên, đó là Hà Bá).” Vị thần này còn có tên gọi khác là Hà Bá Sứ Giả (河伯使者), như trong Thần Dị Kinh (神异經), phần Tây Hoang Kinh (西荒經) có câu: “Tây hải thủy thượng hữu nhân, thừa bạch mã chu liệp, bạch y huyền quan, tùng thập nhị đồng tử, sử mã Tây hải thủy thượng, như phi như phong, danh viết Hà Bá Sứ Giả (西海水上有人、乘白馬朱鬣、白衣玄冠、從十二童子、駛馬西海水上、如飛如風、名曰河伯使者, trên mặt nước biển Tây có người cỡi con ngựa trắng, bờm đỏ, mặc áo trắng, đội mũ đen, cùng với mười hai đồng tử, cỡi ngựa trên mặt nước biển Tây, bay nhanh như gió, tên là Hà Bá Sứ Giả).” Tên gọi Kappa ở Nhật cũng xuất phát từ nguyên ngữ này. Nó đồng nghĩa với Hà Tông (河宗). Tín ngưỡng Hà Bá cũng rất thịnh hành ở Việt Nam; cho nên tục ngữ Việt Nam thường có câu: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá.” Truyền thuyết của Hà Đồng (河童) vốn phát xuất rất sớm từ vùng thượng du của lưu vực Hoàng Hà; xưa kia gọi là Thủy Hổ (水虎), hay Hà Bá. Về truyền thuyết của Hà Đồ, khi vua Đại Vũ (大禹) quản lý Hoàng Hà, có 3 báu vật là Hà Đồ (河圖, Bản Đồ Sông Nước), Khai Sơn Phủ (開山斧, Búa Mở Núi) và Tỵ Thủy Kiếm (避水劍, Kiếm Tránh Nước). Truyền thuyết cho rằng Hà Đồ do vị Thủy Thần là Hà Bá trao cho vua Đại Vũ. Vua phục nghi (伏羲) quan sát rất kỹ lưỡng đối với sự hưng suy của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, thời tiết, khí hầu, cây cỏ, v.v. Có hôm nọ, bỗng nhiên giữa Hoàng Hà xuất hiện một con Long Mã (龍馬), ông thấy chấn động tâm thần, tự thân cảm xúc được sự linh thiêng của trời đất, tự nhiên. Nhà vua phát hiện trên thân con ngựa có đồ hình, rất tâm đầu ý hợp với ý tưởng về quá trình quán sát vạn vật. Phục nghi đi qua thân con ngựa, quan sát thật kỹ, vẽ ra đồ hình Bát Quái (八卦). Từ đó, đò hình trên thân con ngựa kia được gọi là Hà Đồ. Trong Sơn Hải Kinh (山海經) có giải thích rằng: “Phục Nghi đắc Hà Đồ, Hạ nhân nhân chi, viết Liên Sơn (伏羲得河圖、夏人因之、曰連山, Phục Nghi có được Hà Đồ, người Hạ nhân đó gọi là Liên Sơn).” Ngay như Kinh Quái (經卦) của Phục Nghi cũng xuất phát từ nguồn gốc hiện tượng thiên văn, có căn nguyên từ Hà Đồ. Trong bài Cửu Ca (九歌) của Khuất Nguyên (屈原, 340-278 ttl.) cũng có thiên viết về Hà Bá.
(虎關師錬, Kokan Shiren, 1278-1346): vị Tăng của Lâm Tế Tông, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời Nam Bắc Triều, Tổ đời thứ 15 của Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji), Tổ đời thứ 15 của Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji); húy là Sư Luyện (師錬), thông xưng là Hải Tạng Hòa Thượng (海藏和尚); đạo hiệu là Hổ Quan (虎關), thụy hiệu Bản Giác Thiền Sư (本覺禪師); xuất thân vùng Kyoto, họ Đằng Nguyên. Ông đến tham Thiền với Trạm Chiếu (湛照) ở Đông Phước Tự vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro); rồi năm lên 10 tuổi thì thọ giới ở trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan). Vào năm 1291, ông theo học pháp với Quy Am Tổ Viên (規庵祖圓) ở Nam Thiền Tự, rồi năm 1293 thì đến sống ở Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) thuộc vùng Liêm Thương. Sau khi trở về Kinh Đô Kyoto, ông lại theo học Nho Giáo với vị quan Quản Nguyên Tại Phụ (菅原在輔), rồi tu thêm cả Mật Giáo, và có được tri thức rất rộng rãi về mọi mặt. Hơn nữa ông còn cảm hóa được vị Tăng du học trở về là Nhất Sơn Nhất Ninh (一山一寧). Đến năm 1312, theo lệnh của Hậu Phục Kiến Thượng Hoàng (後伏見上皇), ông đến sống ở Hoan Hỷ Quang Viện (歡喜光院). Năm sau, ông chuyển đến Tế Bắc Am (濟北庵) ở vùng Bạch Hà (白河, Shirakawa), và năm 1215 thì khai sáng ra Bản Giác Tự (本覺寺) ở vùng Y Thế (伊勢, Ise). Năm 1322, ông hoàn thành bộ Nguyên Hanh Thích Thư (元亨釋書) ở Tế Bắc Am, bộ sử thư Phật Giáo tối cổ của Nhật Bản. Năm 1232, ông làm trú trì của Đông Phước Tự, rồi năm 1239 thì làm trú trì Nam Thiền Tự, và đến cuối đời thì ông sống nhàn cư ở Hải Tạng Viện (海藏院) nơi Đông Phước Tự. Tác phẩm để lại của ông có Nguyên Hanh Thích Thư (元亨釋書) 30 quyển, Thập Thiền Chi Lục (十禪支錄), Tục Thập Thiền Chi Lục (續十禪支錄) 3 quyển, Tế Bắc Tập (濟北集) 20 quyển, Phật Ngữ Tâm Luận (佛語心論) 18 quyển, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập