Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Thành công có nghĩa là đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời so với những gì cuộc đời mang đến cho bạn. (To do more for the world than the world does for you, that is success. )Henry Ford
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tự Tại Thiên »»
(s: aṣṭāṅga-samanvāgatopavāsa, p: aṭṭhaṅga-samannāgata uposatha, aṭṭhaṅgika uposatha, 八關齋戒): các giới điều tạm thời xuất gia được đức Phật chế ra cho hàng Phật tử tại gia. Người thọ trì các giới điều này cần phải một ngày một đêm rời khỏi gia đình, đến trú xứ của chư tăng để học tập về nếp sống sinh hoạt của người xuất gia. Bát Quan Trai Giới còn gọi là Trưởng Dưỡng Luật Nghi (長養律儀), Cận Trú Luật Nghi (近住律儀), Bát Giới (八戒), Bát Chi Tịnh Giới (八支淨戒), Bát Chi Trai Pháp (八支齋法), Bát Chi Trai Giới (八支齋戒), Bát Phần Giới Trai (八分戒齋), Bát Giới Trai (八戒齋), Bát Trai Giới (八齋戒), Bát Cấm (八禁), Bát Sở Ưng Ly (八所應離). Bát (八) ở đây có nghĩa là hành trì 8 loại giới; Quan (關) là cánh cửa đóng chặt 8 điều ác, khiến cho Ba Nghiệp không sanh khởi những điều sai lầm; Trai (齋) ở đây đồng nghĩa với tề (齊), tức là cùng đoạn trừ những điều ác, cọng tu các điều thiện; bên cạnh đó, quá ngọ không ăn được gọi là trai. Giới (戒) có tác dụng ngăn ngừa điều sai trái và chận đứng điều ác. Nói chung, thọ trì 8 loại Trai Giới thì có thể đóng chặt 8 điều ác, không cho sanh khởi sai lầm, ngăn chận những ác nghiệp của thân miệng ý; cũng nhờ từ đây mà tạo cánh cửa mở thông con đường xuất gia và đóng chặt cánh cửa luân hồi sanh tử. Cho nên, Bát Quan Trai Giới là cánh cửa vi diệu hướng đến con đường thiện, là con đường tắt dẫn vào Phật đạo. Thọ trì Bát Quan Trai Giới có thể giúp cho hàng tín đồ Phật tử tại gia huân tập, nuôi lớn căn lành xuất thế, nên mới có tên gọi là Trưởng Dưỡng Luật Nghi. Người thọ trì Bát Quan Trai Giới bắt buộc phải một ngày một đêm xa lìa gia cư, đến sống nơi chốn già lam, gần Tam Bảo, chư vị A La Hán; vì vậy mới có tên gọi là Cận Trú Luật Nghi. Về nội dung, theo Tát Bà Đa Luận (薩婆多論), Bát Quan Trai Giới là 8 loại giới luật, hay nói cho đúng là Bát Giới Nhất Trai (八戒一齋, tám giới và một giới trai), gồm: (1) Bất sát sanh (不殺生, không giết hại sinh mạng), (2) Bất thâu đạo (不偷盜, không trộm cắp), (3) Bất dâm dật (不淫泆, không dâm đãng phóng túng), (4) Bất vọng ngữ (不妄語, không nói dối), (5) Bất ẩm tửu (不飲酒, không uống rượu), (6) Bất trước hoa man cập hương du đồ thân (不著華鬘及香油塗身, không mang tràng hoa và dùng dầu thơm xoa lên mình), (7) Bất ca vũ xướng kỷ cập vãng quan thính (不歌舞倡伎及往觀聽, không đàn ca xướng hát và đến xem nghe), (8) Bất tọa ngọa cao quảng đại sàng (不坐臥高廣大床, không ngồi nằm giường cao rộng lớn), (9) Bất phi thời thực (不非時食, không ăn phi thời). Tuy thực tế là 9 giới, nhưng thường được gọi là Bát Quan Trai Giới, trong Bát Quan Trai Pháp (八關齋法, CBETA Vol. 60, No. 1130) có giải thích lý do rõ rằng: “Phù Bát Trai Pháp, tinh quá trung bất thực, nãi hữu Cửu Pháp, hà dĩ Bát Sự đắc danh; Phật ngôn, trai pháp quá trung bất thực vi thể, bát sự trợ thành trai thể, cọng tương chi trì, danh Bát Chi Trai Pháp; thị cố ngôn Bát Trai, bất vân cửu dã (夫八齋法、并過中不食、乃有九法、何以八事得名、佛言、齋法過中不食爲體、八事助成齋體、共相支持、名八支齋法、是故言八齋、不云九也, phàm Tám Pháp Quan Trai cọng với việc không ăn quá ngọ, thành ra Chín Pháp, tại sao có tên gọi Tám Pháp; đức Phật dạy rằng pháp không ăn quá ngọ là thể, Tám Pháp giúp cho thành tựu thể ấy, cùng nâng đỡ nhau, nên gọi là Tám Chi Trai Pháp; vì vậy gọi là Tám Pháp Trai, chứ không gọi là chín).” Trong 5 giới đầu của Bát Quan Trai Giới có nội dung tương đương với Ngũ Giới, chỉ khác giới “bất tà dâm (不邪淫, không tà dâm)” đổi thành giới “bất dâm (不淫)” hay “bất dâm dật (不淫泆)”. Cho nên, khi thọ trì Bát Quan Trai Giới, hành giả không những đoạn tuyệt quan hệ hợp pháp vợ chồng, mà còn tuyệt đối nghiêm thủ không dâm dục trong một ngày một đêm; vì vậy người thọ trì pháp tu này được gọi là “Tịnh Hạnh Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di”. Đức Phật chế rằng người Phật tử tại gia nên thọ trì Bát Quan Trai Giới vào 6 ngày trai của mỗi tháng. Đại Thiên Nại Lâm Kinh (大天捺林經) của Trung A Hàm (中阿含經) quyển 14, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經) quyển 16, v.v., cho rằng mỗi tháng vào 6 ngày trai giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (nếu nhằm tháng thiếu Âm Lịch thì có thể thay đổi vào ngày 28 và 29). Người chuyên thọ trì Bát Quan Trai Giới có được những công đức, lợi ích như: (1) Xa lìa nỗi khổ bệnh hoạn; như trong Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh (藥師琉璃光如來本願功德經, Taishō No. 450) có giải thích rằng: “Nhược hữu bệnh nhân, dục thoát bệnh khổ, đương vi kỳ nhân, thất nhật thất dạ, thọ trì Bát Phần Trai Giới (若有病人、欲脫病苦、當爲其人、七日七夜、受持八分齋戒, nếu có người bệnh, muốn thoát khỏi nỗi khổ của bệnh, nên vì người ấy, trong bảy ngày bảy đêm, thọ trì Tám Phần Trai Giới)”. (2) Tiêu trừ tội chướng; phàm những ai muốn sám hối tội chướng, đều phải nên thọ trì tám pháp này; như trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh (優婆塞戒經, Taishō No. 1488) quyển 5, phẩm Bát Giới Trai (八戒齋品) thứ 21 có giải thích rằng: “Nhược năng như thị thanh tịnh quy y thọ bát giới giả, trừ Ngũ Nghịch tội, dư nhất thiết tội tất giai tiêu diệt (若能如是清淨歸依受八戒者、除五逆罪、餘一切罪悉皆消滅, nếu người nào có thể quy y thọ tám giới thanh tịnh như vậy, thì trừ được Năm Tội Nghịch, hết thảy các tội khác tất đều tiêu diệt).” Hay như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō No. 374) quyển 19 có nêu ra câu chuyện của Quảng Ngạch (廣額): “Ba La Nại quốc hữu đồ nhi, danh viết Quảng Ngạch, ư nhật nhật trung, sát vô lượng dương, kiến Xá Lợi Phất tức thọ Bát Giới Kinh nhất nhật nhất dạ, dĩ thị nhân duyên, mạng chung đắc vi Bắc phương thiên Tỳ Sa Môn tử (波羅捺國有屠兒、名曰廣額、於日日中、殺無量羊、見舍利弗卽受八戒經一日一夜、以是因緣、命終得爲北方天王毘沙門子, tại nước Ba La Nại có người đồ tể tên Quảng Ngạch, trong mỗi ngày giết vô lượng con dê, khi gặp Xá Lợi Phất liền thọ Bát Giới Kinh một ngày một đêm, nhờ nhân duyên ấy mà sau khi qua đời thì được làm con trai của Tỳ Sa Môn ở cõi trời phương Bắc).” (3) Phước báo không cùng, như trong Ưu Ba Di Đọa Xá Ca Kinh (優陂夷墮舍迦經, Taishō No. 88) cho biết rằng: “Lục nhật trai giả, thí như hải thủy bất khả hộc lượng; kỳ hữu trai giới nhất nhật nhất dạ giả, kỳ phước bất khả kế (六日齋者、譬如海水不可斛量、其有齋戒一日一夜者、其福不可計, sáu ngày trai giới, giống như nước biển không thể nào đong đếm được; người nào có trai giới trong một ngày một đêm, phước của người đó không thể nào tính được).” (4) Xa lìa các đường ác, như Thọ Thập Thiện Giới Kinh (受十善戒經, Taishō No. 1486) cho biết rằng: “Trì thử thọ trai công đức, bất đọa Địa Ngục, bất đọa Ngạ Quỷ, bất đọa Súc Sanh, bất đọa A Tu La, thường sanh nhân trung, chánh kiến xuất gia, đắc Niết Bàn đạo (持此受齋功德、不墮地獄、不墮餓鬼、不墮畜生、不墮阿修羅、常生人中、正見出家、得涅槃道, công đức hành trì Tám Trai Giới này, không đọa vào đường Địa Ngục, không đọa vào đường Ngạ Quỷ, không đọa vào đường Súc Sanh, không đọa vào đường A Tu La, thường sanh vào cõi người, có chánh kiến xuất gia, chứng đạo Niết Bàn).” (5) Đạt được niềm vui vô thượng, như trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh quyển 5, phẩm Bát Giới Trai thứ 21 dạy rằng: “Phàm thị trai nhật, tất đoạn chư ác phạt lục chi sự; nhược năng như thị thanh tịnh thọ trì Bát Giới Trai giả, thị nhân tắc đắc vô lượng quả báo, chí vô thượng lạc (凡是齋日、悉斷諸惡罰戮之事、若能如是清淨受持八戒齋者、是人則得無量果報、至無上樂, phàm ngày trai này, tất dứt hết những việc ác hình phạt, chém giết; nếu người nào có thể thọ trì Tám Giới Trai thanh tịnh như vậy, người ấy ắt đạt được quả báo vô lượng, cho đến niềm vui vô thượng).” (6) Sanh lên các cõi trời, như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 16, Cao Tràng Phẩm (高幢品) thứ 24 dạy rằng: “Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, trì Bát Quan Trai giả, thân hoại mạng chung, sanh thiện xứ thiên thượng, diệc sanh Hê Thiên, Đâu Thuật Thiên, Tha Tự Tại Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, chung bất hữu hư, sở dĩ nhiên giả, dĩ kỳ trì giới chi nhân sở nguyện giả đắc (若善男子、善女人、持八關齋者、身壞命終、生善處天上、亦生豔天、兜術天、化自在天、他化自在天、終不有虛、所以然者、以其持戒之人所願者得, nếu có người thiện nam, tín nữ nào hành trì Tám Giới Trai, sau khi thân hoại mạng hết, sanh vào nơi tốt lành trên trời, cũng được sanh lên cõi Ma Hê Thủ La Thiên, Đâu Suất Thiên, Tha Tự Tại Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, dứt khoát không hư dối, vì sao đúng như vậy; vì do sở nguyện của người trì giới mà đạt được).” Bên cạnh những điều nêu trên, còn có một số công đức khác như sanh vào đời sau được mọi người tôn quý, trợ duyên cho vãng sanh, khi lâm chung được an lạc, có tướng mạo tốt đẹp, tạo duyên lành để thành Phật đạo, v.v.
(六欲): có nhiều nghĩa khác nhau.
(1) Chỉ cho sáu loại dục vọng đối với người khác tánh, gồm: tham muốn về sắc, tham muốn về hình tướng, tham muốn về uy nghi, tham muốn về ngôn ngữ âm thanh, tham muốn về sự mềm mại, tham muốn về tướng người.
(2) Chỉ sáu căn sản sinh ra dục vọng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
(3) Từ gọi tắt của Lục Dục Thiên (六欲天, sáu tầng trời của cõi dục), gồm: Tứ Đại Vương Thiên (s: Cāturmahārājakāyika-deva, 四大王天, có bốn vị trời Trì Quốc [持國], Tăng Trưởng [增長], Quảng Mục [廣目], Đa Văn [多聞] cùng quyến thuộc của họ); Tam Thập Tam Thiên (s: Trayastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 三十三天, còn gọi là Đao Lợi Thiên [忉利天]); Diệm Ma Thiên (s: Yāma, 焰摩天, còn gọi là Dạ Ma Thiên [夜摩天], Viêm Ma Thiên [炎摩天], Thời Phân Thiên [時分天]); Đâu Suất Thiên (s: Tuṣita, p: Tusita, 兜率天, còn gọi là Đâu Suất Đà Thiên [兜率陀天], còn gọi là Đô Suất Thiên [都率天], Đâu Thuật Thiên [兜術天], Đâu Suất Đa Thiên [兜率多天], Đâu Sư Đà Thiên [兜師陀天], Đổ Sử Đa Thiên [覩史多天], Đâu Sử Đa Thiên [兜駛多天]); Hóa Tự Tại Thiên (s: Nirmāṇa-rati, 化自在天, còn gọi là Lạc Biến Hóa Thiên [樂變化天], Vô Kiều Lạc Thiên [無憍樂天], Vô Cống Cao Thiên [無貢高天], Ni Ma La Thiên [尼摩羅天]); và Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Paranirmita-vaśa-vartin, 他化自在天, còn gọi là Tha Hóa Tự Chuyển Thiên [他化自轉天], Tha Hóa Lạc Thiên [他化樂天], Hóa Ứng Thanh Thiên [化應聲天], Ba La Ni Mật Thiên [波羅尼蜜天]).
(二十五有): tức 25 cảnh giới trong đó chúng sanh tồn tại, gồm Tứ Thú (四趣) là Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄), Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼), Súc Sanh (s: tiryagyoni, p: tiracchānayoni, 畜生), A Tu La (s: asura, 阿修羅); Tứ Châu (s: catvāro dvīpāḥ, p: cattāro dīpā, 四洲) là Đông Thắng Thân Châu (s: Pūrva-videha, 東勝身洲, tức Đông Phất Bà Đề [東弗婆提]), Nam Thiệm Bộ Châu (s: Jampudīpa, 南贍部洲, tức Nam Diêm Phù Đề [南閻浮提]), Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲, tức Tây Cù Da Ni [西瞿耶尼]), Bắc Cu Lô Châu (s: Uttara-kuru, 北倶盧洲, tức Bắc Uất Đơn Việt [北鬱單越]); Tứ Thiên Vương Thiên (s: Cāturṁahārājakāyika, 四天王天), Tam Thập Tam Thiên (s: Trayastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 三十三天), Diệm Ma Thiên (s: Yāma, 焰摩天), Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Paranirmita-vaśa-vartin, 他化自在天), Sơ Thiền Thiên (初禪天), Đại Phạm Thiên (s: Mahābrahmā, 大梵天), Nhị Thiền Thiên (二禪天), Tam Thiền Thiên (三禪天), Tứ Thiền Thiên (四禪天), Vô Tưởng Thiên (s: Avṛha, 無想天), A Na Hàm Thiên (阿那含天), và 4 cõi Không Xứ Thiên (空處天).
(二十五三昧): 25 cảnh giới Tam Muội (, Định) dùng để phá tan 25 hình thức tồn tại (Nhị Thập Ngũ Hữu [二十五有]) được thuyết trong các kinh điển như Nam Bản Niết Bàn Kinh (南本涅槃經) quyển 13, Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa (法華經玄義) quyển 4, Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Thiêm (法華玄義釋籤) quyển 4, v.v., và cũng được Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397) nhấn mạnh trong Thiên Thai Tông. Nhị Thập Ngũ Tam Muội gồm:
(1) Vô Cấu Tam Muội (無垢三昧) để phá tan sự tồn tại của Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄);
(2) Bất Thối Tam Muội (不退三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Súc Sanh (s: tiryagyoni, p: tiracchānayoni, 畜生);
(3) Tâm Lạc Tam Muội (心樂三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼);
(4) Hoan Hỷ Tam Muội (歡喜三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi A Tu La (s: asura, 阿修羅);
(5) Nhật Quang Tam Muội (日光三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Đông Phất Bà Đề (東弗婆提, tức Đông Thắng Thân Châu [s: Pūrva-videha, 東勝身洲]);
(6) Nguyệt Quang Tam Muội (月光三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tây Cù Da Ni (西瞿耶尼, tức Tây Ngưu Hóa Châu [s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲]);
(7) Nhiệt Diệm Tam Muội (熱燄三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Bắc Uất Đơn Việt (北鬱單越, tức Bắc Cu Lô Châu[s: Uttara-kuru, 北倶盧洲]);
(8) Như Huyễn Tam Muội (如幻三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Nam Diêm Phù Đề (南閻浮提, tức Nam Thiệm Bộ Châu [s: Jampudīpa, 南贍部洲]);
(9) Bất Động Tam Muội (不動三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tứ Thiên Vương Thiên (s: Cāturṁahārājakāyika, 四天王天);
(10) Nan Phục Tam Muội (難伏三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tam Thập Tam Thiên (三十三天, cõi trời thứ 33, tức cõi trời Đao Lợi [s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利]);
(11) Duyệt Ý Tam Muội (悅意三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Diệm Ma Thiên (s: Yāma, 焰摩天);
(12) Thanh Sắc Tam Muội (青色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Đâu Suất Thiên (s: Tuṣita, p: Tusita, 兜率天);
(13) Huỳnh Sắc Tam Muội (黃色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Hóa Lạc Thiên (s: Nirmāṇa-rati,化樂天);
(14) Xích Sắc Tam Muội (赤色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Paranirmita-vaśa-vartin, 他化自在天);
(15) Bạch Sắc Tam Muội (白色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Sơ Thiền (初禪);
(16) Chủng Chủng Tam Muội (種種三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Đại Phạm Thiên (s: Mahābrahmā, 大梵天);
(17) Song Tam Muội (雙三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Nhị Thiền (二禪);
(18) Lôi Âm Tam Muội (雷音三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tam Thiền (三禪);
(19) Chú Vũ Tam Muội (注雨三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tứ Thiền (四禪);
(20) Như Hư Không Tam Muội (如虛空三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Vô Tưởng Thiên (s: Avṛha, 無想天);
(21) Chiếu Kính Tam Muội (照鏡三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tịnh Cư A Na Hàm Thiên (淨居阿那含天);
(22) Vô Ngại Tam Muội (無礙三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Không Vô Biên Xứ (s: Akāśānantyāyatana, 空無邊處);
(23) Thường Tam Muội (常三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Thức Vô Biên Xứ (s: Vijñānānantyāyatana, 識無邊處);
(24) Lạc Tam Muội (樂三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Vô Sở Hữu Xứ (s: Ākiñcanyāyatana, 無所有處); và
(25) Ngã Tam Muội (我三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (s: Naivasaṁjñānāsaṁjñāyatana, 非想非非想處).
(520-460 trước công nguyên): âm dịch là Ba Nhĩ Ni (波爾尼), Ba Nị Ni (波膩尼), Ba Ni Ni (波尼尼), nhà văn pháp trứ danh của Ấn Độ ngày xưa, xuất thân vùng Ta La Đỗ La (s: Śalātura, 娑羅覩邏), nước Kiền Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄邏), thuộc Quận Attock, Tỉnh Punjab, Pakistan ngày nay, nằm giữa Rawalpindi và Peshawar. Theo Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記) quyển 1, phần Kiền Đà La Quốc (健駄邏國), Ba Nhĩ Ni sanh ra đã thông hiểu tất cả, nhạy bén, lanh lợi, có chí muốn viết sách, được trời Tự Tại Thiên (自在天) chỉ giáo cho, nhờ vậy ông nghiên cứu sâu sắc hơn, lấy các ngôn ngữ mà viết thành sách. Sách này thông cả xưa nay, bao quát hết văn từ, ý ngữ; nhà vua thấy vậy rất kinh ngạc, bèn truyền khắp trong nước nếu có ai tụng thuộc sách này thì sẽ được ban thưởng tiền vàng; cho nên sách này được lưu truyền rất thịnh hành. Tương truyền sách này là văn điển Vyākaraṇa (毘伽羅論, Tỳ Già La Luận) gồm 1.000 bài tụng và 32.000 từ. Văn điển do ông trước tác vốn không có tiêu đề và ông rất nổi tiếng về văn pháp tiếng Sanskrit, đặc biệt là hệ thống 3.959 nguyên tắc của hình thái học tiếng Sanskrit về văn phạm, thường được gọi là Aṣṭādhyāyī (nghĩa là “Tám Chương”). Đây là văn bản cơ sở thuộc trường phái văn pháp của Vedāṅga. Aṣṭādhyāyī là sách văn phạm tiếng Sanskrit cổ xưa nhất (mặc dầu một số học giả cho rằng nó lập cước trên các tác phẩm xưa hơn), là tác phẩm sớm nhất về ngôn ngữ học miêu tả và về ngôn ngữ học nói chung. Thông thường lý thuyết dễ hiểu và rất khoa học về văn pháp của Pāṇini được xem như đánh dấu sự chấm dứt giai đoạn tiếng Sanskrit Phệ Đà (Vedic Sanskrit), bằng dịnh nghĩa giới thiệu tiếng Sanskrit Cổ Điển (Classical Sanskrit). Mặc dầu tác phẩm của ông thuần túy mang tính văn pháp và từ điển, chúng ta có thể rút ra vài luận cứ về văn hóa cũng như địa lý qua từ ngữ do ông dùng trong các ví dụ và từ những thư từ ông gởi cho bạn bè văn pháp học của ông.
(s: trayo dhātavaḥ, p: tisso dhātuyo, 三界): Ba Cõi, có nhiều ý nghĩa khác nhau.
(1) Chỉ ba cõi mà chúng sanh đang sống gồm Dục Giới (s: kāma-dhātu, 欲界), Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界) và Vô Sắc Giới (s: ārūpa-dhātu, 無色界). Chúng hữu tình mê vọng lưu chuyển trong vòng sanh tử biến hóa, tùy theo cảnh giới mà chia thành 3 giai cấp khác nhau. Nó còn được gọi là Tam Hữu (三有). Tam Giới là lãnh vức mê khổ của chúng sanh, như biển lớn không có giới hạn, nên được gọi là Khổ Giới (苦界, Cõi Khổ), Khổ Hải (苦海, Biển Khổ). Dục Giới là thế giới cư trú của chúng hữu tình đầy dâm dục, tình dục, sắc dục, tham dục, v.v. Cõi này bao gồm trên từ cõi trời thứ 6 Tha Hóa Tự Tại Thiên (他化自在天), giữa có bốn châu lớn của con người và dưới đến Vô Gián Địa Ngục (無間地獄), v.v. Do vì nam nữ cùng sống chung với nhau, nhiễm các mong muốn, nên gọi là Dục Giới. Cõi Dục Giới có Địa Cư (s: Bhauma, 地居), Hư Không Cư (s: Āntarikṣavāsina, 虛空居), Tứ Thiên Vương Thiên (s: Cāturṁahārājakāyika, 四天王天, gồm Trì Quốc Thiên [s: Dhṛtarāṣṭra, 持國天], Tăng Trưởng Thiên [s: Virūḍhaka, 增長天], Quảng Mục Thiên [s: Virūpākṣa, 廣目天] và Đa Văn Thiên [s: Vaiśrāmana, 多聞天]), Đao Lợi Thiên (s: Trāyastriṁśa, 忉利天), Tu Dạ Ma Thiên (s: Yāma, 須夜摩天), Đâu Suất Thiên (s: Tuṣita, 兜率天), Hóa Lạc Thiên (s: Nirmāṇarati, 化樂天), Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Parmanirmitavaśavartin, 他化自在天). Sắc Giới, sắc ở đây có nghĩa là thị hiện (hiện rõ), là thế giới cư trú của chúng hữu tình đã xa lìa được dâm dục, thực dục và có đầy đủ sắc chất thanh tịnh. Cõi này năm trên Dục Giới, không có dục nhiễm, cũng chẳng có hình nữ; chúng sanh ở đây đều do hóa sanh mà có. Cung điện tại đây cao lớn, do sắc hóa sanh, nên hết thảy đều đặc biệt, khác thường. Do vì cõi này có sắc chất nên được gọi là Sắc Giới. Căn cứ vào Thiền định sâu cạn, thô tế mà cõi này được chia thành 4 cấp khác nhau, từ Sơ Thiền Phạm Thiên (初禪梵天) cho đến A Ca Nị Tra Thiên (阿迦膩吒天), có 28 cõi trời. Cõi này có Sơ Thiền Thiên (初禪天, gồm Phạm Thiên [s: Brahmakaya, 梵天], Phạm Chúng Thiên [s: Brahmapārṣadya, 梵眾天], Phạm Phụ Thiên [s: Brahmapurohita, 梵輔天] và Đại Phạm Thiên [s: Mahābrahmā, 大梵天]), Nhị Thiền Thiên (二禪天, gồm Thiểu Quang Thiên [s: Parittābha, 少光天], Vô Lượng Quang Thiên [s: Apramāṇābha, 無量光天] và Quang Âm Thiên [s: Ābhāsvara, 光音天]), Tam Thiền Thiên (三禪天, gồm Thiểu Tịnh Thiên [s: Parittaśubha, 天], Vô Lượng Tịnh Thiên [s: Apramāṇaśubha, 天] và Biến Tịnh Thiên [s: Śubhakṛtsna, 少淨天]), Tứ Thiền Thiên (四禪天, gồm Vô Vân Thiên [s: Anabhraka, 無雲天], Phước Sanh Thiên [s: Puṇyaprasava, 福生天] và Quảng Quả Thiên [s: Bṛhatphala, 廣果天]) và Tịnh Phạm Địa (淨梵天, gồm Vô Tưởng Thiên [s: Avṛha, 無想天], Vô Phiền Thiên [s: Atapa, 無煩天], Vô Nhiệt Thiên [s: Sudrśa, 無熱天], Thiện Kiến Thiên [s: Sudarśana, 善見天], Sắc Cứu Cánh Thiên [s: Akaniṣṭha, 色究竟天], Hòa Âm Thiên [s: Aghaniṣṭha, 和音天] và Đại Tự Tại Thiên [s: Mahāmaheśvara, 大自在天]). Vô Sắc Giới là thế giới cư trú của chúng hữu tình không có vật chất mà chỉ có 4 tâm là Thọ (受), Tưởng (想), Hành (行) và Thức (識). Cõi này không có vật chất, thân thể, cung điện, quốc độ gì cả; chỉ lấy tâm thức mà trú trong Thiền định sâu xa vi diệu; nên có tên gọi như vậy. Nó nằm trên Sắc Giới, có 4 cõi trời (Không Vô Biên Xứ [s: Akāśānantyāyatana, 空無邊處], Thức Vô Biên Xứ [s: Vijñānānantyāyatana, 識無邊處], Vô Sở Hữu Xứ [s: Ākiñcanyāyatana, 無所有處] và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ [s: Naivasaṁjñānāsaṁjñāyatana, 非想非非想處]), được gọi là Tứ Vô Sắc (四無色), Tứ Không Xứ (四空處). Quả báo, khổ vui, v.v., trong Tam Giới tuy có khác nhau; nhưng cả 3 đều thuộc vào cõi mê lầm, nên chúng sanh trong đó đều phải chịu sự chi phối của quy luật luân hồi sanh tử. Vì vậy, bậc thánh thường xa rời ba cõi này. Trong Phẩm Thí Dụ (譬喩品) của Kinh Pháp Hoa (法華經) có đoạn rằng: “Tam Giới vô an, do như hỏa trạch, chúng khổ sung mãn, thậm khả bố úy (三界無安、猶如火宅、眾苦充滿、甚可怖畏, Ba Cõi không an, giống như nhà lửa, các khổ đầy ắp, rất đáng sợ hãi)”. Bên cạnh đó, Phẩm Hóa Thành Dụ (化城喩品) của kinh này cũng diễn tả rằng: “Năng ư Tam Giới ngục, miễn xuất chư chúng sanh (能於三界獄、勉出諸眾生, có thể nơi ngục của Ba Cõi, làm cho các chúng sanh ra khỏi)”. Như vậy, kinh này muốn cho mọi người thấy rõ rằng Tam Giới không phải là thế giới an ổn thật sự, nên phải thường cầu mong thoát khỏi thế giới ấy.
(2) Tam Giới chỉ cho ba con đường đối trị của giải thoát, gồm: Đoạn Giới (斷界), Ly Giới (離界) và Diệt Giới (滅界). Đoạn Giới là đoạn trừ Cửu Kết (九結, 9 loại phiền não), trong đó trừ Tham ra, còn lại 8 thứ kia đều đoạn trừ, hoặc đoạn trừ Vô Minh Kết (無明結, sự ràng buộc của vô minh). Ly Giới là đoạn trừ phiền não của Tham, hay đoạn trừ Ái Kết (愛結, sự ràng buộc của ái). Diệt Giới là đoạn diệt Hữu Lậu (有漏) và các pháp Hữu Vi (有爲), v.v.
(3) Chỉ Sắc Giới (色界), Vô Sắc Giới (無色界) và Tận Giới (盡界).
(4) Chỉ Pháp Giới (法界), Tâm Giới (心界) và Chúng Sanh Giới (眾生界).
Trong Phong Thần Diễn Nghĩa (封神演義), hồi thứ 26 có đoạn: “Siêu xuất Tam Giới ngoại, bất tại Ngũ Hành trung (超出三界外、不在五行中, vượt ra ngoài Ba Cõi, chẳng ở trong Năm Hành).” Hay trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) cũng có đoạn rằng: “Tam Giới nghiệp báo, duy tâm sở sanh, bổn nhược vô tâm, ư Tam Giới trung, tức xuất Tam Giới; kỳ Tam Giới giả, tức Tam Độc giả; Tham vi Dục Giới, Sân vi Sắc Giới, Si vi Vô Sắc Giới; cố danh Tam Giới (三界業報、唯心所生、本若無心、於三界中、卽出三界、其三界者、卽三毒也、貪爲欲界、嗔爲色界、癡爲無色界、故名三界, nghiệp báo của Ba Cõi, do tâm sanh ra, nếu vốn không tâm, ở trong Ba Cõi, tức ra Ba Cõi; Ba Cõi ấy tức là Ba Độc; Tham là Cõi Dục, Sân là Cõi Sắc, Si là Cõi Vô Sắc; nên gọi là Ba Cõi).”
(s: Prajvaloṣṇīṣaḥ, 熾盛光佛頂): là Giáo Lịnh Luân Thân (敎令輪身) của đức Phật Thích Ca, ngọn lửa tỏa sáng hừng hực từ lỗ chân lông lưu xuất ra. Chủng tử là bhrū (悖嚕吽, bột rô hồng). Hình Tam Muội Da là 12 vòng tròn xe, hoặc 3 cây chày. Trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 4, phần Thiên Thu Tuế (千秋歲), có đoạn: “Chí tâm tín lễ Xí Thạnh Quang Như Lai, Tự Tại Thiên trung xuất hiện, đại uy đức thần thông biến, hồng liên đài thượng tử kim dung (志心信禮熾盛光如來、自在天中出現、大威德神通變、紅蓮臺上紫金容, một lòng kính lạy Xí Thạnh Quang Như Lai, xuất hiện trên cõi Trời Tự Tại, oai đức lớn thần thông biến, sen hồng trên đài vàng tía thân).” Hay trong Thiền Lâm Bảo Huấn Bút Thuyết (禪林寶訓筆說, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1266) quyển Trung lại có đoạn rằng: “Toại linh phần hương trai giới, trì Xí Thạnh Quang Vương thần chú kỳ chi, vị cập thất nhật, dạ mộng lão nhân trước bạch y kỵ ngưu hãm địa toàn một nhi khứ, lạp nhật toàn gia tật dũ hĩ (遂令焚香齋戒、持熾盛光王神咒祈之、未及七日、夜夢老人著白衣騎牛陷地旋沒而去、翌日全家疾愈矣, bèn sai đốt hương ăn chay giữ giới, trì tụng thần chú Xí Thạnh Quang Vương để cầu nguyện, chưa được bảy ngày, đêm mộng thấy một ông lão mặc áo trắng cỡi trâu đi xuống đất trong thoáng chốc rồi biến mất; hôm sau cả nhà lành bệnh hết).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập