Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tu trai »»

(孤魂): chỉ những linh hồn cô đơn, không nơi nương tựa. Như trong tác phẩm Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄), phần Trung Nguyên Tiết (中元節), của Mạnh Nguyên Lão (孟元老, ?-?) nhà Tống, có đoạn: “Thiết đại hội, phần tiền sơn, tế quân trận vong một, thiết cô hồn chi đạo tràng (設大會、焚錢山、祭軍陣亡歿、設孤魂之道塲, thiết lập đại hội, đốt núi tiền, tế các vong linh chết trong quân trận, lập đạo tràng cô hồn).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 5 có câu: “Cô hồn diểu diểu dĩ vô y, trường dạ man man nhi vị đán (孤魂渺渺以無依、長夜漫漫而未旦, cô hồn mù mịt biết nương đâu, đêm tối mênh mang chưa tỏ sáng).” Hay trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) quyển 6, phần Ngục Không Sám Biểu (獄空懺表), cũng có đoạn: “Vô luận thử quốc độ, tha quốc độ, thử thế giới, tha thế giới, vô lượng quốc độ, vô tận thế giới, phàm trầm nịch Tam Đồ chi thảm thảm cô hồn, tất trượng Phật ân tận độ (無論此國土、他國土、此世界、他世界、無量國土、無盡世界、凡沉溺三塗之慘慘孤魂、悉仗佛恩盡度, không kể quốc độ này, quốc độ kia, thế giới này, thế giới kia, vô lượng các quốc độ, vô tận các thế giới, phàm chúng cô hồn thê thảm bị chìm đắm trong Ba Đường, đều nhờ ơn Phật được độ hết cả).” Trong Thiền môn có bài Tán Cô Hồn rằng: “Cô hồn phất tử, vô chủ vô y, giai nhân lụy thế bất tu trì, chánh pháp vĩnh văn tri, kim ngộ minh sư, thoát khổ sanh Đao Lị (孤魂甶子、無主無依、皆因累世不修持、正法永聞知、今遇明師、脫苦生忉利, cô hồn đầu quỷ, không chủ nương gì, đều do đời trước chẳng tu trì, chánh pháp mãi biết nghe, nay gặp minh sư, thoát khổ sanh Đao Lị).”
(監齋使者): vị thần chuyên giám sát việc ăn uống của chúng tăng; còn được gọi là Giám Trai Bồ Tát (監齋菩薩), Giám Trai (監齋). Vị này có khuôn mặt màu xanh, tóc đỏ. Theo tác phẩm Thiền Lâm Tượng Khí Tiên (禪林象器箋), phần Linh Tượng Môn (靈像門), các tự viện dưới thời nhà Thanh (清, 1616-1911) đều gọi Giám Trai Sứ Giả là Giám Trai Bồ Tát. Bộ Tiễn Dăng Dư Thoại (剪燈餘話) quyển 1, phần Thính Kinh Viên Ký (聽經猿記), của Lý Trinh (李禎, 1403-1424) nhà Thanh, cho biết rằng có người tên Viên Tú Tài (袁秀才), thường vui đùa, làm dáng đứa bé nhỏ, nhảy qua xà nhà, có khi duỗi hai chân ngồi trong khám thờ, lấy màu xanh nhuộm lên mặt, khiến cho người trong Nhà Bếp cho rằng đó là Giám Trai, Đại Thánh Hồng Sơn (洪山大聖). Về sau, Nhà Trù của chùa thường tôn thờ vị này. Trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1248), phần Kết Hạ Khải Kiến Lăng Nghiêm Hội Sớ (結夏啟建楞嚴會疏), có câu: “Trù ty Giám Trai Sứ Giả, chủ thang hỏa tỉnh Táo thần kỳ (廚司監齋使者、主湯火井灶神祇, Giám Trai Sứ Giả chưởng quản Nhà Trù là Táo Thần chủ quản về lửa, nước sôi, giếng nước).” Hay trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 3 có câu thỉnh rằng: “Đông Trù Ty Mạng, Giám Trai Sứ Giả thần chúng (東廚司命、監齋使者神眾, Đông Trù Ty Mạng, Giám Trai Sứ Giả các thần).” Trong Thiền môn có bài tán về Giám Trai Bồ Tát rằng: “Giám Trai Sứ Giả, hỏa bộ oai thần, điều hòa bách vị tiến duy hinh, tai hao vĩnh vô xâm, hộ mạng tư thân, thanh chúng vĩnh mông ân. Nam Mô Diệm Huệ Địa Bồ Tát (監齋使者、火部威神、調和百味薦惟馨、災耗永無侵、護命資身、清眾永蒙恩、南無燄慧地菩薩, Giám Trai Sứ Giả, quản lửa oai thần, điều hòa trăm vị cúng hương thơm, tai nạn mãi không xâm, hộ mạng an thân, đại chúng mãi mang ơn. Kính lễ Diệm Huệ Địa Bồ Tát).”
(橫死): còn gọi là Phi Thời Tử (非時死), Bất Lự Tử (不慮死), Sự Cố Tử (事故死); chỉ cho những người chết không phải do vì nhân nghiệp quả của đời trước, mà do vì tai họa bất ngờ. Hoạnh tử có 9 loại: (1) Có bệnh nhưng không thầy thuốc mà chết; (2) Bị chém chết do phép vua; (3) Chết do loài không phải người đoạt mất tinh khí; (4) Bị chết do lửa thiêu cháy; (5) Bị chết đuối; (6) Chết do bị ác thú ăn; (7) Chết do bị rớt xuống vực thẳm; (8) Chết do bị thuốc độc, bùa chú thư yểm; (9) Chết do bị đói khát. Trong Tống Thư (宋書), phần Liễu Nguyên Cảnh Truyện (柳元景傳), có đoạn: “Thế Tổ băng, Nghĩa Cung, Nguyên Cảnh đẳng tinh tương vị viết: 'Kim nhật thỉ miễn hoạnh tử' (世祖崩、義恭、元景等幷相謂曰、今日始免橫死, vua Thế Tổ băng hà, Nghĩa Cung, Nguyên Cảnh, v.v., cùng bảo rằng: 'Hôm nay bắt đầu khỏi hoạnh tử rồi !').” Trong Thập Nhị Phẩm Sanh Tử Kinh (十二品生死經, Taishō Vol. 17, No. 753), đức Phật có thuyết về 12 trường hợp chết, trong đó có hoạnh tử. Trong Hư Không Tạng Bồ Tát Vấn Thất Phật Đà La Ni Chú Kinh (虛空藏菩薩問七佛陀羅尼咒經, Taishō Vol. 21, No. 1333) thì dạy rằng: “Nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân thọ trì thử chú giả, nhược độc nhược tụng, nhược phục hữu nhân suy mịch thử chú giả, nhược nhạo thính văn giả, thị nhân bất vi nhất thiết đao trượng sở hại, bất vi nhất thiết thủy nịch, bất vi nhất thiết khổ hoạn sở trì, bất thọ nhất thiết hoạnh tử (若有善男子善女人受持此咒者、若讀若誦、若復有人推覓此咒者、若樂聽聞者、是人不爲一切刀仗所害、不爲一切水溺、不爲一切苦患所持、不受一切橫死, nếu có người thiện nam, thiện nữ nào thọ trì chú này, hoặc đọc hoặc tụng, nếu lại có người tìm tòi chú này, nếu thích lắng nghe, người ấy không bị tất cả đao gậy xâm hại, không bị tất cả chết đuối, không bị tất cả hoạnh tử).” Hay trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 3 lại có câu thỉnh rằng: “Nhất tâm phụng thỉnh, thập phương pháp giới Diệm Khẩu quỷ vương, Tam Phẩm Cửu Loại chư ngạ quỷ chúng, hoạnh tử cô hồn, tinh chư quyến thuộc (一心奉請、十方法界燄口鬼王、三品九類諸餓鬼眾、橫死孤魂、幷諸眷屬, một lòng phụng thỉnh mười phương pháp giới Diệm Khẩu [miệng bốc lửa] quỷ vương, ba phẩm chín loài các chúng ngạ quỷ, hoạnh tử cô hồn, cùng các quyến thuộc).”
(法侶): bạn pháp, còn chỉ cho tăng lữ, tu sĩ; đồng nghĩa với đạo hữu (道友, bạn đạo). Như trong bài Kim Cang Bát Nhã Sám Văn (金剛般若懺文) của vua Lương Võ Đế (梁武帝, tại vị 502-549) thời Nam Triều có câu: “Hằng sa chúng sanh, giai vi pháp lữ (恆沙眾生、皆爲法侶, hằng sa chúng sanh, đều là bạn pháp).” Hay trong Truy Môn Cảnh Huấn (緇門警訓, Taishō Vol. 48, No. 2023), phần Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách (潙山大圓禪師警策), lại có câu: “Nguyện bách kiếp thiên sanh đồng vi pháp lữ (願百劫千生處處同爲法侶, nguyện trăm kiếp ngàn đời cùng là bạn pháp).” Hoặc trong Hoàng Thái Tử Thanh Thành Sơn Tu trai Từ (皇太子青城山修齋詞) của Đỗ Quang Đình (杜光庭, 850-933) nhà Tiền Thục cũng có câu: “Chiêu thập châu chi pháp lữ, ước tam động chi huyền khoa (召十洲之法侶、約三洞之玄科, mời mười châu bao bạn pháp, hẹn ba động ấy khoa nghi).”
(法力): năng lực, uy lực của Phật pháp. Như trong Tỳ Ni Nhật Dụng Lục (毗尼日用錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1114) có dẫn bài Kệ Xuất Sanh rằng: “Pháp lực bất tư nghì, đại bi vô chướng ngại, thất liệp biến thập phương, phổ thí châu sa giới. Án, độ lợi ích sa ha (法力不思議、大悲無障礙、七粒遍十方、普施周沙界、唵度利益莎訶, Pháp lực chẳng nghĩ bàn, đại bi không chướng ngại, bảy hột biến mười phương, ban cùng các cõi nước. Án, độ lợi ích sa ha).” Hay trong Đại Đường Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện (大唐大慈恩寺三藏法師傳, Taishō Vol. 50, No. 2053) quyển 8 lại có đoạn: “Phiếm Lục Độ ư ái hà, giá Tam Xa ư hỏa trạch, thị tri pháp vương pháp lực, siêu quần sanh nhi tự tại (泛六度於愛河、駕三車於火宅、是知法王法力、超群生而自在, chơi Sáu Độ nơi sông thương, cỡi Ba Xe nơi nhà lửa, mới biết năng lực pháp vương, vượt chúng sanh mà tự tại).” Hoặc trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 3 cũng có đoạn: “Duy nguyện Phật quang chiếu chúc, pháp lực đề huề, tài văn triệu thỉnh chi ngôn, tức nhiếp uy nghi nhi chí (惟願佛光照燭、法力提攜、纔聞召請之言、卽攝威儀而至, cúi mong hào quang chiếu tỏ, pháp lực dẫn đường, mới nghe triệu thỉnh lời văn, tức giữ oai nghi mà đến).”
(s: dharma-deśanā, p: dhamma-desanā, 法施): bố thí pháp, là một trong 2 hay 3 hình thức bố thí; tức tuyên thuyết giáo pháp, làm lợi ích chúng sanh; còn gọi là pháp cúng dường (法供養), thuyết giáo (說敎), thuyết pháp (說法), thuyết kinh (說經), đàm nghĩa (談義), khuyến hóa (勸化). Như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) quyển Thượng giải thích rằng: “Khấu pháp cổ, xuy pháp loa, chấp pháp kiếm, kiến pháp tràng, chấn pháp lôi, diệu pháp điện, chú pháp vũ, diễn pháp thí, thường dĩ pháp âm giác chư thế gian (扣法鼓、吹法螺、執法劍、建法幢、震法雷、曜法電、澍法雨、演法施、常以法音覺諸世間, đánh trống pháp, thổi ốc pháp, cầm kiếm pháp, lập cờ pháp, chấn sấm pháp, rực điện pháp, rưới mưa pháp, diễn pháp thí, thường lấy âm pháp để tỉnh thức các thế gian).” Hay trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 5 lại có đoạn: “Kim tắc đặc khai thắng hội, phổ độ mê lưu, nguyện nhân Phật nhật chi quang, lai phó đàn gia chi cúng, thân thừa pháp thí, hoát ngộ Tánh Không (今則特開勝會、普度迷流、願因佛日之光、來赴檀家之供、親承法施、豁悟性空, nay tất khai mở thắng hội, độ kẻ tầm mê, nguyện nhờ trời Phật hào quang, đến dự thí chủ dâng cúng, nương vào pháp thí, chợt ngộ Tánh Không).”
(扶桑): có nhiều nghĩa khác nhau.
(1) Tên của vị thần Phù Tang (Thần Mộc), ở phương Đông của Trung Quốc, nằm trong biển nơi mặt trời mọc.
(2) Nó còn là tên gọi của Nhật Bản, nơi có nhiều cây hoa Phù Tang (dâm bụt, Chinese hibiscus, China rose, Hibiscus rosa-sinensis L., thuộc Khoa Cẩm Quỳ [錦葵, Malvaceae]). Phù Tang Đại Đế (扶桑大帝) là tên gọi khác của Đông Vương Công (東王公), Đông Vương Phụ (東王父), Đông Hoa Đế Quân (東華帝君), Phù Tang Đế Quân (扶桑大帝), Thanh Đồng Quân (青童君), Thanh Đề Đế Quân (青提帝君), Đông Phụ (東父), Đông Quân (東君), Mộc Công (木公), v.v., là vị tiên nhân trong thần thần thoại Trung Quốc, vị vua ở phương Đông, thường đối ứng với Tây Vương Mẫu (西王母); nghĩa là Tây Vương Mẫu thống suất các tiên nữ trên thiên giới, còn Đông Vương Công thì thống lãnh các tiên nam.
Về lai lịch của Phù Tang Đại Đế hay Đông Vương Công, có nhiều ký lục khác nhau. Chẩm Trung Thư (枕中書) thì cho rằng ông do Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) và Thái Nguyên Thánh Mẫu (太元聖母) sanh ra. Trong khi đó, Thần Dị Kinh (神異經) do (東方朔, 154-93 ttl) nhà Hán soạn, lại ghi rằng: “Đông hoang sơn trung hữu đại thạch thất, Đông Vương Công cư yên; trường nhất trượng, đầu phát hạo, nhân hình điểu diện nhi hổ mao, tải nhất hắc hùng, tả hữu cố vọng (東荒山中有大石室、東王公居焉、長一丈、頭髮皓、人形鳥面而虎尾、載一黑熊、左右顧望, trong núi hoang vu phía Đông có một hang đá lớn, là nơi Đông Vương Công ở; thân ông dài một trượng, đầu tóc trắng, hình người, mặt chim mà lông cọp, mang một con gấu đen, nhìn quanh phải trái).” Lại có thuyết cho rằng Đông Hoa Đế Quân lãnh đạo các tiên nam, có họ là Nghê (倪), tên Quân Minh (君明). Khi thiên hạ đang còn hỗn độn, ông sanh ra trên biển xanh, sáng tạo ra vạn vật, chủ quản khí âm dương ở phương Đông. Ngày sinh nhật của ông là mồng 6 tháng 2 Âm Lịch. Cho nên, trong Thượng Chơn Chúng Tiên Ký (上眞眾仙記) cũng cho biết rằng: “Phù Tang Đại Đế trú tại bích hải chi trung, trạch địa tứ diện, tinh phương tam vạn lí, thượng hữu Thái Chơn Quân, Bích Ngọc Thành (扶桑大帝住在碧海之中、宅地四面、並方三萬里、上有太眞宮、碧玉城, Phù Tang Đại Đế ở trong biển xanh, có nhà và đất bốn mặt, vuông vức 30.000 dặm, trên có Thái Chơn Quân, Bích Ngọc Thành).” Cũng có thuyết khác cho rằng Đông Hoa Đế Quân có liên quan đến tín ngưỡng thời Xuân Thu Chiến Quốc (春秋戰國). Đương thời tín ngưỡng vị thần Đông Hoàng Thái Nhất (東皇太一) ở vùng đất Sở, còn gọi là Đông Quân (東君), tức là Thần Thái Dương (太陽神, hay Thái Dương Tinh Quân [太陽星君]) biến hóa; được xem như là hóa thân của Đông Vương Cung hay Đông Hoa Đế Quân. Có thuyết khác cho rằng Đông Hoa Đế Quân tên là Vương Huyền Phủ (王玄甫), sư phụ của Chánh Dương Chân Nhân Chung Ly Quyền (正陽眞人鍾離權); tương truyền ông là tiền thân của Thuần Dương Chân Nhân Lữ Nham (純陽眞人呂岩, tức Lữ Đồng Tân [呂洞賓]). Thuyết này có thể thấy trong các truyện tiểu thuyết như Bát Tiên Đắc Đạo Truyện (八仙得道傳), Đông Du Ký (東遊記), v.v. Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, CBETA No. 1497) quyển 3 có đoạn rằng: “Đông Nhạc Thiên Tề Nhân Thánh Đế, Ngũ Nhạc Thánh Đế, Ngũ Nhạc Tá Mạng Chơn Quân, Thủy Phủ Phù Tang Đại Đế, Tứ Đại Hải Vương, Tứ Độc Nguyên Công, Thủy Phủ chư thần, Ngũ Phương Long Vương, Tứ Hải Cửu Giang Ngũ Hồ Thất Trạch chư Long Vương chúng (東嶽天齊仁聖帝、五嶽聖帝、五嶽佐命眞君、水府扶桑大帝、四大海王、四瀆源公、水府諸神、五方龍王、四海九江五湖七澤諸龍王眾, Đông Nhạc Thiên Tề Nhân Thánh Đế, Ngũ Nhạc Thánh Đế, Ngũ Nhạc Tá Mạng Chơn Quân, Thủy Phủ Phù Tang Đại Đế, Tứ Đại Hải Vương, Tứ Độc Nguyên Công, Thủy Phủ chư thần, Ngũ Phương Long Vương, các chúng Long Vương khắp bốn biển, chín sông, năm hồ, bảy suối).”
(光定, Kōjō, 779-858): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Bình An, xuất thân vùng Y Dư (伊予, Iyo, thuộc Ehime-ken [愛媛縣]), họ là Chí (贄). Ông sớm mất cha mẹ, sau vào trong núi sâu tự Tu trai giới một mình. Theo lời khuyên của vị tăng Cần Giác (勤覺), ông lên kinh đô Kyoto, và năm 808 thì làm đệ tử của Tối Trừng. Năm 810, ông xuất gia và 2 năm sau thì thọ giới Cụ Túc ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji). Vào năm 814, ông ngao du vùng Nam Đô, luận tranh với Nghĩa Diên (義延, Gien) của Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji) và nêu cao tông nghĩa của mình. Ông đóng vai trò rất lớn trong việc lãnh đạo giáo đoàn sau khi Tối Trừng qua đời. Vào năm 838, ông được giao cho làm chức Truyền Đăng Pháp Sư và đến năm 854 thì được cử làm chức Biệt Đương (別當, Bettō, chức Tăng Quan thống lãnh tăng chúng và quản lý mọi việc ở các chùa lớn) của Diên Lịch Tự, cho nên ông thông xưng là Biệt Đương Đại Sư (別當大師). Trước tác của ông có Truyền Thuật Nhất Tâm Giới Văn (傳述一心戒文).
(十類): 10 loại cô hồn. Theo Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi (瑜伽集要焰口施食儀, Taishō No. 1320), quyển 1, cũng như Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, Taishō No. 1497) quyển 3, có liệt kê 10 loại như:
(1) Nhất thiết thủ cương hộ giới, trần lực ủy mạng quân trận tương trì, vị quốc vong thân quan viên tướng sĩ binh tốt cô hồn chúng (一切守疆護界、陳力委命軍陣相持、爲國亡身官員將士兵卒孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn của các quan viên, tướng sĩ, binh tốt đã trấn giữ biên cương, đem sức bỏ mạng trong chiến trận, hay vì nước quên mình).
(2) Nhất thiết phụ tài thất khiếm mạng, tình thức câu hệ sinh sản trí mạng, oan gia trái chủ đọa thai cô hồn chúng (一切負財欠命、情識拘繫生產致命、冤家債主墮胎孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn của những người không có tiền tài mất mạng, tình cảm vương vào sinh sản mà bỏ mạng, các oan gia trái chủ sẩy thai).
(3) Nhất thiết khinh bạc Tam Bảo, bất hiếu phụ mẫu, thập ác ngũ nghịch tà kiến cô hồn chúng (一切輕薄三寶、不孝父母、十惡五逆邪見孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn của những người khinh thường Tam Bảo, không có hiếu thảo với cha mẹ, phạm mười điều ác, năm tội nghịch, tà kiến).
(4) Nhất thiết giang hà thủy nịch, đại hải vi thương, phong lãng phiêu trầm thái bảo cô hồn chúng (一切江河水溺、大海爲商、風浪飄沉採寶孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn của những người chết đuối vì lặn lội khắp sông nước, biển lớn để bán buôn, sóng gió nỗi trôi trên biển cả để tìm kho báu).
(5) Nhất thiết biên địa tà kiến trí mạng man di cô hồn chúng (一切邊地邪見致命蠻夷孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn của mọi rợ bỏ mạng chốn biên địa, không có chánh kiến).
(6) Nhất thiết phao ly hương tinh khách tử tha châu, vô y vô thác du đãng cô hồn chúng (一切拋離鄉并客死他州、無依無托游蕩孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn của những người du đãng từ bỏ quê hương, bỏ mạng xứ người, không nơi nương tựa, không ai phó thác).
(7) Nhất thiết hà tỉnh đao sách phó hó đầu nhai, tường băng ốc đảo thọ chiết nham tồi, thú giảo trùng thương hoạnh tử cô hồn chúng (一切河井刀索赴火投崖、牆崩屋倒樹折嵒摧、獸咬虫傷橫死孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn bị hoạnh tử vì sông giếng, đao chém, xông vào lửa, nhảy xuống vực, tường sụp, nhà đỗ, cây gãy, núi lỡ, thú cắn, trùng làm thương tổn).
(8) Nhất thiết ngục trung trí mạng, bất tuân vương pháp, tặc khấu thiết đạo, bão khuất hàm oan, đại tịch phân thi phạm pháp cô hồn chúng (一切獄中致命、不遵王法、賊寇劫盜、抱屈銜冤、大辟分屍犯法孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn của những người mất mạng trong ngục thất, không tuân phép vua, trộm cướp, ăn cắp, mang nỗi hàm oan, phạm pháp bị phân thây).
(9) Nhất thiết nô tỳ cấp sử, cần lao trần lực, ủy mạng bần tiện cô hồn chúng (一切奴婢給使、懃勞陳力、委命貧賤孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn của các nô tỳ phục dịch, lao nhọc tận sức, bỏ mạng, bần tiện).
(10) Nhất thiết manh lung ám á túc bí thủ quyện, tật bệnh triền miên ung thư tàn hại, quan quả cô độc vô kháo cô hồn chúng (一切盲聾瘖啞足跛手裨、疾病纏綿癰疽殘害、鰥寡孤獨無靠孤魂眾, hết thảy linh hồn cô đơn của những người bị đui điếc, ngọng lịu, chân khập khểnh, tay tàn tật, tật bệnh triền miên, ung thư tàn hại, góa vợ cô độc không nơi nương tựa).
Tuy nhiên, trong bản hiện hành Chánh Khắc Trung Khoa Du Già Tập Yếu (正刻中科瑜伽集要)—khoa nghi cúng Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn do chư tăng thường dùng—được khắc dưới thời nhà Nguyễn vào năm Mậu Tý (1888) đời vua Đồng Khánh và tàng bản tại Chùa Báo Quốc, Thành Phố Huế, lại liệt kê đến 13 loại cô hồn như:
(1) vua chúa cai trị đất nước;
(2) anh hùng tướng lãnh triều đình;
(3) văn thần tể tướng, quan lại;
(4) văn nhân tài tử;
(5) tu sĩ xuất gia Phật giáo;
(6) huyền môn đạo sĩ của Khổng Giáo;
(7) kẻ lang thang không nơi nương tựa nơi đất khách;
(8) binh sĩ chết ngoài chiến trận;
(9) những phụ nữ chết vì sinh con;
(10) những người phỉ báng Tam Bảo và bất hiếu với cha mẹ;
(11) cung phi mỹ nữ trong cung nội;
(12) những vong hồn chết oan uổng; và
(13) pháp giới sáu đường, hết thảy linh hồn trong đại địa, v.v.
Như vậy, con số 10 hay 13, v.v., chỉ là con số tượng trưng để liệt kê những loại cô hồn chính mà thôi. Thật ra trên thế gian có bao nhiêu hạng người thì có bấy nhiêu loại cô hồn. Cho nên, Thập Loại ở đây không phải dừng lại ở ý nghĩa 10 loại, mà còn có nghĩa vô số loại khác nhau. Trong Chúng Sanh Thập Loại Tế Văn (眾生十類祭文, Văn Tế Mười Loại Chúng Sanh) của thi hào Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) có câu: “Trong trường dạ tối tăm trời đất, có khôn thiêng phảng phất u minh, thương thay thập loại chúng sinh, hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người…” Hay như trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh (地藏菩薩本願經) có bài tán công hạnh của Ngài rằng: “Địa Tạng Bồ Tát diệu nan luân, hóa hiện kim dung xứ xứ phân, Tam Đồ Lục Đạo văn diệu pháp, Tứ Sanh Thập Loại mông từ ân, minh châu chiếu triệt Thiên Đường lộ, kim tích chấn khai Địa Ngục môn, lụy kiếp thân nhân mông tiếp dẫn, Cửu Liên đài bạn lễ Từ Tôn (地藏菩薩妙難倫、化現金容處處分、三途六道聞妙法、四生十類蒙慈恩、明珠照徹天堂路、金錫振開地獄門、累劫親姻蒙接引、九蓮臺畔禮慈尊, Địa Tạng Bồ Tát mầu khó lường, hóa hiện dung vàng chốn chốn nương, Ba Đường Sáu Nẻo nghe diệu pháp, bốn loài mười loại đội ơn thương, châu sáng chiếu tận Thiên Đường cõi, kim tích chấn mở Địa Ngục toang, nhiều kiếp thân bằng được tiếp dẫn, sen đài Chín Phẩm lễ Từ Tôn).”
(齋事): chỉ cho các Phật sự như tụng kinh, bái sám, cầu đảo, cầu phước, v.v. Như trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 5 có đoạn: “Quân triêm thượng vị, hàm ngộ viên thường, thứ nhân trai sự chi duyên, đồng thành pháp thí chi hội (均沾上味、咸悟圓常、庶因齋事之緣、同成法施之會, đều thắm vị tuyệt, thảy ngộ viên thường; mong nhờ Phật sự nhân duyên, cùng thành pháp thí đại hội).” Hay trong Tịnh Độ Toàn Thư (淨土全書, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1176) quyển Hạ, phần Trương Nguyên Tường (張元祥), cũng có đoạn: “Đường Trương Nguyên Tường, cư thường niệm Phật bất chuyết, nhất nhật xúc gia nhân vân: 'Tây phương thánh nhân đãi ngã trai tất đồng vãng'. Trai sự ngật, phần hương già phu, diện Tây nhi hóa (唐張元祥、居常念佛不輟、一日促家人云、西方聖人待我齋畢同往、齋事訖、焚香跏趺、面西而化, Trương Nguyên Tường nhà Đường, sống thường niệm Phật không ngừng nghỉ, một hôm nọ thúc giục người nhà rằng: 'Thánh nhân phương Tât đang chờ ta, ăn xong sẽ cùng đi'. Sau khi Phật sự xong, ông đốt hương ngồi xếp bằng, mặt xoay về hướng Tây mà thác hóa).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập