Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Khi ý thức được rằng giá trị của cuộc sống nằm ở chỗ là chúng ta đang sống, ta sẽ thấy tất cả những điều khác đều trở nên nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tứ Thiên Vương »»
(八部): tức Tám Bộ Chúng trời rồng bảo vệ Phật pháp, còn gọi là Thiên Long Bát Bộ (天龍八部), gồm Trời (s: deva, 天), Rồng (s: nāga, 龍), Dạ Xoa (s: yakṣa, 夜叉), Càn Thác Bà (s: gandharva, 乾闥婆, Hương Thần [香神] hay Nhạc Thần [樂神]), A Tu La (s: asura, 阿修羅), Ca Lâu La (s: garuḍa, 迦樓羅, Kim Xí Điểu [金翅鳥]), Khẩn Na La (s: kiṃnara, 緊那羅, phi nhân, ca nhân), Ma Hầu La Già (s: mahoraga, 摩睺羅伽, Đại Mãng Thần [大蟒神]). Vì trong Tám Bộ Chúng này, Trời và Rồng đứng đầu, nên có tên là Thiên Long Bát Bộ. Tuy khác nhau về chủng loại, nhưng họ đều quy phục uy đức của Phật và trở thành quyến thuộc của Ngài để hộ trì Phật pháp. Từ xa xưa, tại Trung Quốc cũng như Nhật Bản đã có tạo lập tranh tượng của Tám Bộ Chúng này rồi. Trong bài thơ Tống Thâm Pháp Sư Du Nam Nhạc (送深法師游南岳) của Lưu Vũ Tích (劉禹錫, 772-842) nhà Đường có câu: “Thập phương truyền cú kệ, Bát Bộ hội đàn tràng (十方傳句偈、八部會壇塲, mười phương truyền câu kệ, Tám Bộ gặp đàn tràng).” Hay trong Bất Không Quyên Sách Thần Biến Chơn Ngôn Kinh (不空罥索神變眞言經, Taishō Vol. 20, No. 1092) quyển 7, Phẩm Hộ Ma Tăng Ích (護摩增益品) thứ 7, lại có đoạn: “Nhược hữu hữu tình như pháp tu học, thường sử Tứ Thiên Vương, nhất thiết Thiên Long Bát Bộ quỷ thần, giai đương hộ hựu (若有有情如法修學、常使四天王天、一切天龍八部鬼神、皆當護祐, nếu có hữu tình như pháp tu học, thường khiến cho Tứ Thiên Vương, hết thảy Tám Bộ Trời Rồng quỷ thần, đều sẽ giúp đỡ).”
(東大寺, Tōdai-ji): ngôi chùa Tổng Bản Sơn của Hoa Nghiêm Tông Nhật Bản, hiện tọa lạc tại Zasshi-chō (雜司町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣). Chùa còn có các tên gọi khác như Kim Quang Minh Tứ Thiên Vương Hộ Quốc Chi Tự (金光明四天王護國之寺), Đại Hoa Nghiêm Tự (大華嚴寺), Thành Đại Tự (城大寺), Tổng Quốc Phận Tự (總國分寺), là một trong bảy ngôi chùa lớn của vùng Nam Đô. Hiệu chùa có nghĩa là ngôi chùa lớn nằm ở phía đông kinh đô Bình Thành (平城). Tên chùa được tìm thấy lần đầu tiên trong phần Đông Đại Tự Tả Kinh Sở Giải Án (東大寺冩經所解案) ghi tháng 11 năm thứ 9 (747) niên hiệu Thiên Bình (天平) thứ 9 của Chánh Thương Viện Văn Thư (正倉院文書) và đôi khi trong văn thư này chùa được gọi là Đông Tự (東寺). Theo Tục Nhật Bản Kỷ (續日本書紀), nhân ghé tham bái Tri Thức Tự (知識寺) ở tiểu quốc Hà Nội (河內, Kawauchi) vào tháng 2 năm thứ 12 (748) cùng niên hiệu trên, Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749) thấy tượng Lô Xá Na Phật (盧舍那佛) tướng hảo trang nghiêm, bèn thốt lên rằng: “Trẫm cũng tạo tượng này để tôn thờ”; cho nên nhà vua phát nguyện tạc tượng Phật. Vào ngày rằm tháng 10 năm thứ 15 cùng niên hiệu trên, dựa trên cơ sở giáo lý của Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經), chiếu chỉ tạo lập tượng Đại Phật Lô Xá Na được ban bố. Chiếu chỉ này thể hiện đế quyền vĩ đại trên cơ sở của Chế Độ Luật Lịnh, kêu gọi sự viện trợ của đại chúng quốc dân. Chánh điện chùa thờ đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana Buddha), rất nổi tiếng với danh hiệu là Đại Phật Nại Lương. Vào năm 751 (năm thứ 3 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳]), Đại Hùng Bảo Điện được hoàn thành, năm sau thì tiến hành lễ Khai Nhãn Cúng Dường tượng Đại Phật, rồi đến năm 754 vị Đường tăng của Trung Hoa là Giám Chơn (鑑眞, Ganjin) đã thiết lập Giới Đàn Viện tại chùa và đây được xem như là một trong ba giới đàn lớn nhất của Nhật Bản. Đến thế kỷ thứ 9, chùa có cả trang viên và Tăng binh rộng lớn, cho nên uy thế của chùa rất nổi bật. Kể từ khi thành lập cho đến nay, chùa hiện còn một số kiến trúc đường xá như Pháp Hoa Đường (法華堂), Chuyển Hại Môn (轉害門), Kinh Khố (經庫) và Chánh Thương Viện (正倉院), v.v. Chùa hiện tàng trữ các tượng Phật được làm vào thời đại Thiên Bình, và cổng Nam Đại Môn Nhân Vương thuộc thời đại Liêm Thương là do sự hợp tác của Vận Khánh (運慶) và Khoái Khánh (快慶). Chánh điện Đại Phật hiện tồn được trùng tu vào giữa thời Giang Hộ (江戸, Edo, 1600-1868), là kiến trúc làm bằng gỗ lớn nhất thế giới.
(護法): bảo hộ, hộ trì chánh pháp. Tương truyền đức Phật từng phái 4 vị Đại Thanh Văn, 16 vị A La Hán (阿羅漢) đến để hộ trì Phật pháp. Bên cạnh đó, lại có Phạm Thiên (梵天), Đế Thích Thiên (帝釋天), Tứ Thiên Vương (四天王, 4 Thiên Vương), Thập Nhị Thần Tướng (十二神將, 12 Thần Tướng), 28 bộ chúng, 13 phiên thần, 36 thần vương, 18 thiện thần chốn Già Lam, Long Vương, quỷ thần, v.v., nhân nghe đức Phật thuyết pháp mà thệ nguyện hộ trì Phật pháp. Những vị này được gọi là Thần Hộ Pháp, hay Hộ Pháp Thiện Thần (護法善神). Ngoài ra, các bậc đế vương, đàn việt, Phật tử đều là những người hộ pháp đắc lực. Trong số các Thần Hộ Pháp, có vị là thiện thần, nhưng cũng có vị là hung thần, ác thần. Họ có trách nhiệm bảo hộ chúng sanh, đầy đủ 4 công đức độ đời là làm cho tiêu trừ mọi tai họa, làm tăng trưởng ích lợi, tạo sự kính mến thương yêu, và hàng phục. Đặc biệt, Quan Vũ (關羽, tức Quan Thánh Đế Quân [關聖帝君]) cũng trở thành Thần Hộ Pháp, sau khi được Trí Khải Đại Sư (智顗大師, 538-397) dùng pháp Phật làm cho siêu độ và thoát khỏi thân quỷ.
(興福寺, Kōfuku-ji): ngôi đại bản sơn của Pháp Tướng Tông, tọa lạc tại Noboriōji-chō (登大路町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣). Nguồn gốc của chùa là ngôi Sơn Giai Tự (山階寺, Yamashina-dera) do Đằng Nguyên Liêm Túc (藤原鎌足, Fujiwara-no-Kamatari) xây cho vợ mình là Kính Vương Nữ (鏡王女, Kagami-no-Ōkimi) vào năm thứ 8 (669) đời Thiên Trí Thiên Hoàng (天智天皇, Tenji Tennō); sau đó chùa được dời về vùng Phi Điểu (飛鳥, Asuka) và lấy tên là Cứu Phản Tự (厩坂寺, Umayasaka-dera). Sau khi kinh đô được dời về vùng Bình Thành (平城, Heizei), chùa được chuyển về vị trí hiện tại, trở thành ngôi chùa của dòng họ Đằng Nguyên và lấy tên là Hưng Phước Tự. Các kiến trúc như Trung Kim Đường (中金堂), Bắc Viên Đường (北圓堂), Đông Kim Đường (東金堂), Ngũ Trùng Tháp (五重塔), Tây Kim Tháp (西金塔), Nam Viên Đường (南圓堂), v.v., lần lần được xây dựng. Rất nhiều tác phẩm thuộc dạng điêu khắc thời Thiên Bình (天平) vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay như tượng Thập Đại Đệ Tử, Bát Bộ Chúng, do Quang Minh Hoàng Hậu (光明皇后, Kōmyō Kōgō) phát nguyện cúng dường để cầu nguyện cho mẹ Quất Tam Thiên Đại (橘三千大) được siêu độ, được an trí tại Tây Kim Đường (西金堂). Đến thời đại Bình An, cùng với sự vinh quang của dòng họ Đằng Nguyên, chùa cũng trở nên hưng thịnh và được xếp vào một trong 7 ngôi chùa nổi tiếng vùng Nam Đô với nhiều trang viên tuyệt mỹ. Chùa đã kết hợp tư tưởng Thần Phật Tập Hợp để trở thành nhất thể với đền thờ Xuân Nhật Thần Xã (春日神社, Kasuga-jinja). Dưới thời đại Viện Chính (院政, Insei), thỉnh thoảng có xảy ra vài trận hỏa hoạn; đặc biệt trận phóng hỏa của Bình Trọng Hành (平重衡, Taira-no-Shigehira) vào năm thứ 4 (1180) niên hiệu Trị Thừa (治承) đã là cho ngôi già lam bị cháy rụi và phải mất 30 năm sau mới có thể tái thiết được. Trong lần này, các tượng Bất Không Quyên Sách Quan Âm (不空羂索觀音), Tứ Thiên Vương (四天王), v.v., do nhóm môn hạ của Khang Khánh (康慶, Kōkei), và tượng Di Lặc Phật (彌勒佛), Vô Trước (無著), Thế Thân (世親), v.v., do nhóm môn hạ của Vận Khánh (運慶, Unkei) làm nên. Đến thời đại Liêm Thương, chùa được ủy nhiệm chức Thủ Hộ tiểu quốc Đại Hòa (大和, Yamato) nên đã xác lập được quyền thống trị cả một tiểu quốc. Từ cuối thời Liêm Thương trở đi, chùa tự lập hóa với lực lượng tăng binh. Sau vụ Loạn Ứng Nhân (應仁の亂, Ōnin-no-ran), uy thế của chùa dần dần suy yếu; nhưng đến thời Giang Hộ lại được ban cho đất đại khá nhiều. Đến thời Minh Trị Duy Tân, chùa công kích bởi làn song Phế Phật Hủy Thích; tuy nhiên sau đó thì từ từ hồi phục lại. Trong số các thư tịch ghi lại nguồn gốc của chùa, bản Hưng Phước Tự Duyên Khởi (興福寺緣起) là tối cổ, do Đằng Nguyên Lương Thế (藤原良世) viết vào năm thứ 3 (900) niên hiệu Xương Thái (昌泰), có ghi lại sự việc kiến lập các ngôi đường tháp, tạo dựng tượng Phật, xuất xứ những pháp hội, v.v.
(義天): có mấy nghĩa chính. (1) Gọi đủ là Đệ Nhất Nghĩa Thiên (第一義天), Đệ Nhất Nghĩa Tịnh Thiên (第一義淨天), tức chỉ cho chư Phật, Bồ Tát chứng quả Đại Niết Bàn; hoặc chư vị Bồ Tát đang ở quả vị Thập Trú (十住, gồm Phát Tâm Trú [發心住], Trị Địa Trú [治地住], Tu Hành Trú [修行住], Sanh Quý Trú [生貴住], Cụ Túc Trú [具足住], Chánh Tâm Trú [正心住], Bất Thối Trú [不退住], Đồng Chơn Trú [童眞住], Chánh Pháp Vương Trú [法王子住] và Quán Đảnh Trú [灌頂住]); là một trong 4 cõi trời. Như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 22, phẩm Cao Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát Phẩm (光明遍照高貴德王菩薩品) có giải thích rõ rằng: “Hữu tứ thiên, nhất giả Thế Gian Thiên, nhị giả Sanh Thiên, tam giả Tịnh Thiên, tứ giả Nghĩa Thiên. Thế Gian Thiên giả như chư quốc vương; Sanh Thiên giả tùng Tứ Thiên Vương nãi chí Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Thiên; Tịnh Thiên giả tùng Tu Đà Hoàn chí Bích Chi Phật; Nghĩa Thiên giả Thập Trú Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng. Dĩ hà nghĩa cố Thập Trú Bồ Tát danh vi Nghĩa Thiên ? Dĩ năng thiện giải chư pháp nghĩa cố. Vân hà vi nghĩa ? Kiến nhất thiết pháp thị không nghĩa cố (有四種天、一者世間天、二者生天、三者淨天、四者義天、世間天者如諸國王、生天者從四天王乃至非有想非無想天、淨天者從須陀洹至辟支佛、義天者十住菩薩摩訶薩等、以何義故十住菩薩名爲義天、以能善解諸法義故、云何爲義、見一切法是空義故, có bốn loại cõi trời, một là Thế Gian Thiên, hai là Sanh Thiên, ba là Tịnh Thiên, bốn là Nghĩa Thiên. Thế Gian Thiên là các quốc vương; Sanh Thiên là từ Tứ Thiên Vương cho đến cõi trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng; Tịnh Thiên là từ Tu Đà Hoàn cho đến Bích Chi Phật; Nghĩa Thiên là các Bồ Tát Ma Ha Tát của quả vị Thập Trú. Vì lấy nghĩa gì mà Bồ Tát của quả vị Thập Trú được gọi là Nghĩa Thiên ? Vì có thể khéo hiểu nghĩa của các pháp. Nghĩa đó là gì ? Thấy hết thảy các pháp là nghĩa không).” (2) Chỉ cho Từ Ân Đại Sư (慈恩大師), tức Khuy Cơ (窺基, 632-682), sơ Tổ của Pháp Tướng Tông Trung Quốc, có thể hiểu được nghĩa nhiệm mầu, nên được gọi là Nghĩa Thiên. (3) Chỉ cho Nghĩa Thiên (1055-1101), hiệu là Đại Giác Thiền Sư (大覺禪師), là con trai thứ 4 của vua Văn Tông (文宗, tại vị 1046-1083) nước Cao Lệ (高麗, Triều Tiên), được phong làm Hựu Thế Tăng Thống (祐世僧統), quản lý tăng giới Triều Tiên.
(二十五有): tức 25 cảnh giới trong đó chúng sanh tồn tại, gồm Tứ Thú (四趣) là Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄), Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼), Súc Sanh (s: tiryagyoni, p: tiracchānayoni, 畜生), A Tu La (s: asura, 阿修羅); Tứ Châu (s: catvāro dvīpāḥ, p: cattāro dīpā, 四洲) là Đông Thắng Thân Châu (s: Pūrva-videha, 東勝身洲, tức Đông Phất Bà Đề [東弗婆提]), Nam Thiệm Bộ Châu (s: Jampudīpa, 南贍部洲, tức Nam Diêm Phù Đề [南閻浮提]), Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲, tức Tây Cù Da Ni [西瞿耶尼]), Bắc Cu Lô Châu (s: Uttara-kuru, 北倶盧洲, tức Bắc Uất Đơn Việt [北鬱單越]); Tứ Thiên Vương Thiên (s: Cāturṁahārājakāyika, 四天王天), Tam Thập Tam Thiên (s: Trayastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 三十三天), Diệm Ma Thiên (s: Yāma, 焰摩天), Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Paranirmita-vaśa-vartin, 他化自在天), Sơ Thiền Thiên (初禪天), Đại Phạm Thiên (s: Mahābrahmā, 大梵天), Nhị Thiền Thiên (二禪天), Tam Thiền Thiên (三禪天), Tứ Thiền Thiên (四禪天), Vô Tưởng Thiên (s: Avṛha, 無想天), A Na Hàm Thiên (阿那含天), và 4 cõi Không Xứ Thiên (空處天).
(二十五三昧): 25 cảnh giới Tam Muội (, Định) dùng để phá tan 25 hình thức tồn tại (Nhị Thập Ngũ Hữu [二十五有]) được thuyết trong các kinh điển như Nam Bản Niết Bàn Kinh (南本涅槃經) quyển 13, Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa (法華經玄義) quyển 4, Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Thiêm (法華玄義釋籤) quyển 4, v.v., và cũng được Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397) nhấn mạnh trong Thiên Thai Tông. Nhị Thập Ngũ Tam Muội gồm:
(1) Vô Cấu Tam Muội (無垢三昧) để phá tan sự tồn tại của Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄);
(2) Bất Thối Tam Muội (不退三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Súc Sanh (s: tiryagyoni, p: tiracchānayoni, 畜生);
(3) Tâm Lạc Tam Muội (心樂三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼);
(4) Hoan Hỷ Tam Muội (歡喜三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi A Tu La (s: asura, 阿修羅);
(5) Nhật Quang Tam Muội (日光三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Đông Phất Bà Đề (東弗婆提, tức Đông Thắng Thân Châu [s: Pūrva-videha, 東勝身洲]);
(6) Nguyệt Quang Tam Muội (月光三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tây Cù Da Ni (西瞿耶尼, tức Tây Ngưu Hóa Châu [s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲]);
(7) Nhiệt Diệm Tam Muội (熱燄三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Bắc Uất Đơn Việt (北鬱單越, tức Bắc Cu Lô Châu[s: Uttara-kuru, 北倶盧洲]);
(8) Như Huyễn Tam Muội (如幻三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Nam Diêm Phù Đề (南閻浮提, tức Nam Thiệm Bộ Châu [s: Jampudīpa, 南贍部洲]);
(9) Bất Động Tam Muội (不動三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tứ Thiên Vương Thiên (s: Cāturṁahārājakāyika, 四天王天);
(10) Nan Phục Tam Muội (難伏三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tam Thập Tam Thiên (三十三天, cõi trời thứ 33, tức cõi trời Đao Lợi [s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利]);
(11) Duyệt Ý Tam Muội (悅意三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Diệm Ma Thiên (s: Yāma, 焰摩天);
(12) Thanh Sắc Tam Muội (青色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Đâu Suất Thiên (s: Tuṣita, p: Tusita, 兜率天);
(13) Huỳnh Sắc Tam Muội (黃色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Hóa Lạc Thiên (s: Nirmāṇa-rati,化樂天);
(14) Xích Sắc Tam Muội (赤色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Paranirmita-vaśa-vartin, 他化自在天);
(15) Bạch Sắc Tam Muội (白色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Sơ Thiền (初禪);
(16) Chủng Chủng Tam Muội (種種三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Đại Phạm Thiên (s: Mahābrahmā, 大梵天);
(17) Song Tam Muội (雙三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Nhị Thiền (二禪);
(18) Lôi Âm Tam Muội (雷音三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tam Thiền (三禪);
(19) Chú Vũ Tam Muội (注雨三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tứ Thiền (四禪);
(20) Như Hư Không Tam Muội (如虛空三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Vô Tưởng Thiên (s: Avṛha, 無想天);
(21) Chiếu Kính Tam Muội (照鏡三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tịnh Cư A Na Hàm Thiên (淨居阿那含天);
(22) Vô Ngại Tam Muội (無礙三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Không Vô Biên Xứ (s: Akāśānantyāyatana, 空無邊處);
(23) Thường Tam Muội (常三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Thức Vô Biên Xứ (s: Vijñānānantyāyatana, 識無邊處);
(24) Lạc Tam Muội (樂三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Vô Sở Hữu Xứ (s: Ākiñcanyāyatana, 無所有處); và
(25) Ngã Tam Muội (我三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (s: Naivasaṁjñānāsaṁjñāyatana, 非想非非想處).
(s: dharma-rāja, p: dhamma-rāja, 法王): có mấy nghĩa chính. (1) Là tôn xưng của đức Phật. Vương (王) có nghĩa là tối thắng, không ai bằng, tự tại, không ngăn ngại; đức Phật là chủ tể các pháp môn, có thể giáo hóa chúng sanh một cách tự tại, nên được gọi là Pháp vương. Như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) giải thích rằng: “Phật vi pháp vương tôn siêu chúng Thánh, phổ vị nhất thiết thiên nhân chi sư (佛爲法王尊超眾聖、普爲一切天人之師, đức Phật là vua pháp, tôn kính hơn các bậc Thánh, là thầy của khắp tất cả trời người).” Hay trong Thích Ca Phương Chí (釋迦方志, Taishō Vol. 51, No. 2088) quyển Thượng cho biết thêm rằng: “Phàm nhân cực vị danh viết Luân Vương, thánh nhân cực vị danh viết Pháp Vương (凡人極位名曰輪王、聖人極位名曰法王, ngôi vị cao tột của người phàm gọi là Luân Vương, ngôi vị cao tột của bậc Thánh là Pháp Vương).” (2) Là tôn xưng của vị Bồ Tát. Căn cứ vào Kinh Hoa Nghiêm quyển 27 cho biết rằng vị Bồ Tát khi thọ chức, chư Phật lấy nước trí tuệ rưới lên đỉnh đầu để cho vị ấy đầy đủ Mười Lực của đức Phật, có thể chuyển hóa 10 con đường thiện, nên được gọi là Quán Đảnh Pháp Vương (灌頂法王). Theo Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō Vol. 11, No. 310) quyển 27, vì vị Bồ Tát có đủ 4 việc, nên được gọi là Pháp Vương. Bốn việc đó là không bỏ đạo tâm; khuyến hóa người khác phát ý; lấy gốc của các đức mà khuyên giúp đạo tâm; khiến cho hết thảy Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, các bậc Thanh Văn cũng như Duyên Giác, đạt đến nghiệp cùng tận không hoại. (3) Là tên gọi khác của vua Diêm Ma (閻魔) dưới cõi u minh. (4) Là phong hiệu vị thủ lãnh của Phật Giáo Tây Tạng. Bắt đầu từ năm 1270 (Chí Nguyên [至元] thứ 7) đời vua Thế Tổ Hốt Tất Liệt (世祖忽必烈, tại vị 1260-1271, 1271-1294) nhà Nguyên, nhà vua phong cho Bát Tư Ba (八思巴), thủ lãnh của Phái Tát Ca (薩迦派), là Đại Bảo Pháp Vương (大寶法王). Đến năm 1406 (Vĩnh Lạc [永樂] thứ 4), vua Thành Tổ (成祖, tại vị 1402-1424) nhà Minh cho mời Cáp Lập Ma (哈立麻), vị Lạt Ma thủ lãnh của Phái Ca Nhĩ Cư (迦爾居派) đến Bắc Kinh, rồi đến năm sau thì phong cho vị này là Vạn Hạnh Cụ Túc Thập Phương Tối Thắng Viên Giác Diệu Trí Tuệ Thiện Phổ Ứng Hựu Quốc Diễn Giáo Như Lai Đại Bảo Pháp Vương Tây Thiên Tự Tại Phật (萬行具足十方最勝圓覺妙智慧善普應佑國演敎如來大寶法王西天自在佛), gọi tắt là Đại Bảo Pháp Vương. Từ đó về sau, lại phân biệt phong cho các vị Lạt Ma thượng thủ của hai phái Tát Ca và Cách Lỗ (格魯) là Đại Thừa Pháp Vương (大乘法王), Đại Từ Pháp Vương (大慈法王). (5) Về phía Nhật Bản, dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara, 710-794), có Thiếu Tăng Đô Đạo Kính (道鏡, Dōkyō, ?-772), tăng sĩ của Pháp Tướng Tông, thường ra vào cung nội, được Thiên Hoàng sủng ái, ban tặng cho hiệu là Đại Thần Thiền Sư (大臣禪師). Rồi đến năm 766 (Thiên Bình Thần Hộ [天平神護] thứ 2), ông được ban cho chức vị Pháp Vương. Ngoài ra, Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi, 574-622) cũng được tôn xưng là Thánh Đức Pháp Vương (聖德法王) hay Đại Pháp Vương Hoàng Thái Tử (大法王皇太子). Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) có bài kệ Tán Phật (讚佛): “Pháp Vương vô thượng tôn, Tam Giới vô luân thất, thiên nhân chi đạo sư, Tứ Sanh chi từ phụ, ngã kim tạm quy y, năng diệt Tam Kỳ nghiệp, xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận (法王無上尊、三界無倫匹、天人之導師、四生之慈父、我今暫皈依、能滅三祇業、稱揚若讚歎、億劫莫能盡, đấng pháp vương vô thượng, Ba Cõi chẳng ai bằng, thầy dạy khắp trời người, cha lành chung Bốn Loại, con nay tạm quy y, dứt sạch nghiệp Ba Kỳ, xưng dương và tán thán, ức kiếp không cùng tận).”
(廣隆寺, Kōryū-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Ngự Thất (御室派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiện tọa lạc tại Sakyō-ku (右京區), Kyōto-to (京都市), Kyōto-fu (京都府); còn gọi là Phong Cang Tự (蜂岡寺), Thái Tần Tự (太秦寺), Tần Tự (秦寺), Tần Công Tự (秦公寺), Cát Dã Tự (葛野寺); hiệu núi là Phong Cang Sơn (蜂岡山). Ở vùng này, vào thời đại Ứng Thần Thiên Hoàng (應神天皇), con cháu của vua Tần Thủy Hoàng cũng như những người di dân từ Vương Quốc Bách Tế (百濟, Kudara) bên Triều Tiên sang đã làm cho hưng thạnh sản nghiệp, và đây cũng là nơi di thực nền văn minh từ vùng Đại Lục Trung Hoa vậy. Trong số những người dân đến đây có người hậu duệ của nhà họ Tần là Tần Hà Thắng (秦河勝). Tương truyền vị này nhân để an trí tượng Phật mà được Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtōku Taishi) ban tặng vào năm 604, cũng như các tượng Phật do hai nước Tân La (新羅) và Nhậm Na (任那) ban tặng, đã tạo lập nên ngôi chùa này nơi vùng đất nhà họ Tần. Sau đó, vào năm 810 và 1150 thì chùa bị cháy tan tành, nhưng cũng đã được tái kiến lại mấy lần. Chùa này vốn là chùa của dòng họ Tần, là ngôi chùa tối cổ ở vùng Kinh Đô Kyoto, là một trong bảy ngôi chùa có liên quan đến hành trạng của Thái Tử, bên cạnh Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), Tứ Thiên Vương Tự (四天王寺, Shitennō-ji). Quần thể kiến trúc hiện tại có Giảng Đường là kiến trúc được tái kiến dưới thời Bình An. Trong tòa nhà này ở chính giữa thờ tượng ngồi A Di Đà Phật bằng gỗ, bên phải có tượng Địa Tạng Bồ Tát, bên trái có tượng Hư Không Tạng Bồ Tát (虛空藏菩薩), phía đằng sau hai bên phải trái lại có an trí hai tượng Bất Không Quyên Sách Quan Âm (不空羂索觀音), Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音). Còn Chánh Điện Quế Cung Viện (桂宮院) là kiến trúc ảnh hưởng phong trào tín ngưỡng Thái Tử vào thời Liêm Thương, được xây dựng dưới hình thức Mộng Điện, nhà hình tròn bát giác. Trong điện thờ tượng ngồi bán già Như Ý Luân Quan Âm (如意輪觀音) bằng gỗ. Thượng Cung Vương Viện Thái Tử Điện (上宮王院太子殿) lại là Chánh Điện chính của chùa, thờ tượng Thánh Đức Thái Tử ngồi bán già. Linh Bảo Điện (靈寶殿) là nơi tàng trữ những vật báu của chùa ngang tầm cỡ quốc bảo. Bảo vật của chùa có tượng Bồ Tát Di Lặc ngồi bán già, bằng gỗ; tượng ngồi A Di Đà Như Lai, bằng gỗ; tượng đứng Bất Không Quyên Sách Quan Âm, bằng gỗ; tượng đứng Thiên Thủ Quan Âm, bằng gỗ; tượng đứng Thập Nhị Thần Tướng, bằng gỗ; Chánh Điện Quế Cung Viện, v.v.
(鬼神): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho quái vật có đủ uy lực khủng khiếp, có thể biến hóa tự tại; được chia thành hai loại thiện và ác. Trường hợp bảo vệ thế gian hoặc hộ trì Phật pháp như Đại Phạm Thiên Vương (大梵天王), Tam Thập Tam Thiên Vương (三十三天王), Tứ Thiên Vương (四天王), Viêm Ma Vương (炎魔王), Nan Đà Long Vương (難陀龍王), Bạt Nan Đà Long Vương (跋難陀龍王), v.v., đều là quỷ thần thiện. Trường hợp như La Sát (s: rākṣasa, 羅剎), v.v., thuộc về quỷ thần ác. Còn Dạ Xoa (s: yakṣa,p: yakkha, 夜叉) thì thuộc về cả hai thiện và ác. Tuy nhiên, quỷ thần được đề cập trong Phật Giáo là chỉ cho 6 bộ quỷ thần, gồm Càn Thác Bà (s: gandharva, p: gandhabba, 乾闥婆), Dạ Xoa, A Tu La (s, p: asura, 阿修羅), Ca Lâu La (s: garuḍa, 迦樓羅), Khẩn Na La (s: kiṃnara, p: kinnara, 緊那羅), Ma Hầu La Già (s: mahoraga, 摩睺羅伽). Vào thời cổ đại Ấn Độ, từ thời đại Veda trở về sau, trong dân gian rất thịnh hành tín ngưỡng quỷ thần; về sau một bộ phận tín ngưỡng này thâm nhập vào Phật Giáo, nổi bậc nhất là Mật Giáo; tỷ dụ như các Minh Vương có hình giận dữ vốn hiển hiện pháp thân của Phật Tỳ Lô Giá Na, cũng thuộc loại quỷ thần. Ngoài ra, trong Kim Quang Minh Kinh (金光明經, Taishō Vol. 16, No. 663) thuật lại rất rõ chư thiên quỷ thần, và quý vị này được Thiên Thai Tông tôn sùng cao độ. Trong bộ Trùng Biên Chư Thiên Truyện (重編諸天傳, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1658), 2 quyển, do Thích Hành Đình (釋行霆) ở Ô Thú (烏戍) nhà Tống biên soạn, thâu lục đầy đủ các quỷ thần được đề cập trong kinh điển. Trong bài Nguyên Quỷ (原鬼) của Hàn Dũ (韓愈, 768-824) có giải thích rằng: “Vô thanh dữ hình giả, quỷ thần thị dã (無聲與形者、鬼神是也, cái không có tiếng và hình chính là quỷ thần vậy).” Trong Đoạn Trường Tân Thanh có câu rằng: “Mai sau dầu đến thế nào, kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần.” (2) Chỉ chung cho các thần linh, tinh khí. Như trong Sử Ký (史記), phần Ngũ Đế Bổn Kỷ (五帝本紀), có câu: “Lịch nhật nguyệt nhi nghênh tống chi, minh quỷ thần nhi kính sự chi (曆日月而迎送之、明鬼神而敬事之, trãi tháng năm mà đón đưa ấy, rõ quỷ thần mà kính thờ ấy).” (3) Chỉ cho hình thể và linh hồn. Như trong Lễ Ký (禮記), phần Lễ Vận (禮運), có đoạn: “Cố nhân giả, kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, Ngũ Hành chi tú khí dã (故人者、其天地之德、陰陽之交、鬼神之會、五行之秀氣也, cho nên con người là đức của trời đất, giao tiếp của âm dương, tụ hội của quỷ thần, khí tốt của Ngũ Hành vậy).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) giải thích rõ rằng: “Quỷ vị hình thể, thần vị tinh linh (鬼謂形體、神謂精靈, quỷ là hình thể, thần là linh hồn).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập