Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Từ tâm »»

(s: śirasā'bhivandate, 頂禮): tức hai đầu gối, hai cùi chỏ và đầu chạm đất, lấy đỉnh đầu lạy xuống, tiếp xúc với hai chân của đối tượng mình đảnh lễ. Khi hướng tượng Phật hành lễ thì nâng hai tay quá đầu, để khoảng trống, biểu hiện tiếp xúc với bàn chân đức Phật. Hình thức đảnh lễ này còn gọi là Đầu Đảnh Kính Lễ (頭頂禮敬, đỉnh đầu kính lạy), Đầu Diện Lễ Túc (頭面禮足, đầu mặt lạy dưới chân), Đầu Diện Lễ (頭面禮, đầu mặt lạy); đồng nghĩa với Ngũ Thể Đầu Địa (五體投地, năm vóc gieo xuống đất), Tiếp Túc Lễ (接足禮, lạy chạm chân). Hình thức này thể hiện sự sùng kính tối cao của Ấn Độ, lấy cái cao nhất của mình là đỉnh đầu, kính trọng cái thấp nhất của người khác là chân. Như trong Tán A Di Đà Phật Kệ (讚阿彌陀佛偈, Taishō Vol. 47, No. 1978) có đoạn: “Phật quang chiếu diệu tối đệ nhất, cố Phật hựu hiệu Quang Viêm Vương, Tam Đồ hắc ám mông quang khải, thị cố đảnh lễ Đại Ứng Cúng (佛光照耀最第一、故佛又號光炎王、三塗黑闇蒙光啟、是故頂禮大應供, hào quang Phật tỏa sáng bậc nhất, nên Phật có hiệu Quang Viêm Vương, Ba Đường tăm tối mong soi tỏ, cho nên kính lễ Đại Ứng Cúng).” Hay trong bài Thơ Thu Nhật Du Đông Sơn Tự Tầm Thù Đàm Nhị Pháp Sư (秋日游東山寺尋殊曇二法師) của Huệ Tuyên (慧宣, ?-?) nhà Đường lại có câu: “Tâm hoan tức đảnh lễ, đạo tồn nhưng mục kích (心歡卽頂禮、道存仍目擊, tâm vui tức kính lễ, đạo còn như mắt thấy).” Hoặc trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 42 có đoạn: “Tống Giang tại mã thượng dĩ thủ gia ngạch, vọng không đảnh lễ, xưng tạ thần minh tỉ hựu chi lực (宋江在馬上以手加額、望空頂禮、稱謝神明庇祐之力, Tống Giang ở trên ngựa lấy tay đưa lên trán, hướng giữa trời vái lạy, cảm tạ sức trợ giúp của thần minh).” Ngoài ra, đảnh lễ cũng thể hiện sự sùng bái, kính phục. Như trong bộ tiểu thuyết Khách Song Nhàn Thoại (客窗閒話) của Ngô Xí Xương (吳熾昌, ?-?) nhà Thanh có câu: “Sĩ đại phu thiên đảnh lễ bội phục, đại chúng vô bất thế khấp tán hoan (士大夫僉頂禮佩服、大眾無不涕泣贊歎, hàng sĩ đại phu đều sùng bái bội phục, đại chúng chẳng ai mà không rơi lệ khen ngợi vui mừng).”
(s: nāma-lakṣana, p: nāma-lakkhaṇa, 名相): danh xưng và hình tướng. Trong bài tựa của Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記) có đoạn rằng: “Lăng Nghiêm Kinh vân: Tự tâm hiện cảnh giới, tùy loại phổ hiện ư ngũ pháp, vân hà thị ngũ pháp, danh tướng vọng tưởng chánh trí như như, thị cố chúng vật vô danh, do tâm tác danh, chư tướng vô tướng, do tâm tác tướng (楞嚴經云、自心現境界、隨類普現於五法、 云何是五法、名相妄想正智如如、是故眾物無名、由心作名、諸相無相、由心作相, Kinh Lăng Nghiêm dạy rằng: Tự tâm hiện ra cảnh giới, tùy theo từng loại mà hiện rõ nơi 5 pháp. Thế nào là 5 pháp ? Đó là danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí và như như. Vì vậy các vật không có tên gọi, do tâm tạo ra tên gọi; các hình tướng cũng không có hình tướng, do tâm tạo ra hình tướng).”
(s: maṇḍa, sarpir-maṇḍa, p: maṇḍa, sappi-maṇḍa, 醍醐):
(1) chỉ loại dầu tinh chất được chế thành từ ván sữa; màu vàng trắng, đem làm bánh, rất ngọt và béo;
(2) chỉ cho một loại rượu ngon;
(3) là một trong 5 vị, tức sữa, cạo sữa, ván sữa sống, ván sữa chín và đề hồ; nên có tên gọi là Đề Hồ Vị (醍醐味);
(4) vì Đề Hồ là vị ngon nhất trong các loại sữa, nên Phật Giáo dùng để chỉ Niết Bàn, Phật tánh, giáo lý chân thật. Trong kinh điển Hán dịch của Phật Giáo Trung Quốc thời kỳ đầu, Đề Hồ có nghĩa là “bản chất, tinh túy.”
Ngoài ra, Đề Hồ còn được dùng như là một phương thuốc chữa bệnh; như trong chương Tây Vức (西域) của Ngụy Thư (魏書) có đoạn: “Tục tiễn phát tề mi, dĩ Đề Hồ đồ chi, dục dục nhiên quang trạch, nhật tam tháo thấu, nhiên hậu ẩm thực (俗剪髮齊眉、以醍醐塗之、昱昱然光澤、日三澡漱、然後飲食, có tục lệ cắt tóc xén lông mày, lấy đề hồ thoa lên, hong nắng ánh sáng, một ngày tắm giặt ba lần, sau đó mới ăn uống).” Quyển 596 của Toàn Đường Văn (全唐文), bài Tống Thái Chiểu Hiếu Liêm Cập Đệ Hậu Quy Mân Cận Tỉnh Tự (送蔡沼孝廉及第後歸閩覲省序) của Âu Dương Chiêm (歐陽詹, 756-798) lại có đoạn rằng: “Phanh nhũ vi đề hồ, đoán kim vi càn tương, dự kỳ phanh đoán dĩ biến hóa (烹乳爲醍醐、鍛金爲乾將、予期烹鍛以變化, nấu sữa thành Đề Hồ, nung vàng làm kiếm tốt, chờ đợi lúc nấu và rèn biến hóa).” Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅蜜多經) quyển 1 có giải thích rằng: “Khế Kinh như nhũ, điều phục như lạc, Đối Pháp Giáo giả như bỉ sanh tô, Đại Thừa Bát Nhã do như thục tô, Tổng Trì Môn giả thí như Đề Hồ. Đề Hồ chi vị, nhũ, lạc, tô trung vi diệu đệ nhất, năng trừ chư bệnh, linh chư hữu tình thân tâm an lạc. Tổng Trì Môn giả, Khế Kinh đẳng trung tối vi đệ nhất, năng trừ trọng tội, linh chư chúng sanh giải thoát sanh tử, tốc chứng Niết Bàn an lạc pháp thân (契經如乳、調伏如酪、對法敎者如彼生酥、大乘般若猶如熟酥、總持門者譬如醍醐。醍醐之味、乳、酪、酥中微妙第一、能除諸病、令諸有情身心安樂。總持門者、契經等中最爲第一、能除重罪、令諸眾生解脫生死、速證涅槃安樂法身, Khế Kinh như sữa, điều phục như cạo sữa, giáo lý Đối Pháp giống như ván sữa sống, Bát Nhã Đại Thừa như ván sữa chín, Tổng Trì Môn ví như Đề Hồ. Vị của Đề Hồ vi diệu số một trong các loại sữa, cạo sữa, ván sữa; có thể trừ các bệnh, khiến cho thân tâm chúng hữu tình được an lạc. Tổng Trì Môn là số một trong Khế Kinh, v.v., có thể trừ các tội nặng, khiến các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, pháp thân an lạc).” Do vì Đề Hồ được xem như là giáo lý tối thượng, Phật tánh, v.v.; cho nên xuất hiện thuật ngữ “Đề Hồ Quán Đảnh (醍醐灌頂)” để ví dụ cho việc lấy giáo pháp tối thượng giúp người hành trì để chuyển hóa vô minh, phiền não và đạt được mát mẻ, an lạc. Như trong bài thơ Hành Lộ Nan (行路難) của Cố Huống (顧況, 725-814) có câu: “Khởi tri quán đảnh hữu Đề Hồ, năng sử thanh lương đầu bất nhiệt (豈知灌頂有醍醐、能使清涼頭不熱, sao biết quán đảnh có Đề Hồ, thể khiến mát trong không nóng).” Hay trong bài Ta Lạc Phát (嗟落髮) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) cũng có câu: “Hữu như Đề Hồ quán, tọa thọ thanh lương lạc (有如醍醐灌、坐受清涼樂, lại như rưới Đề Hồ, ngồi thọ vui mát mẻ).” Lại như trong bài Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh Tự (大乘本生心地觀經序) của vua Hiến Tông (憲宗, tại vị 805-820) nhà Đường có đoạn: “Tỉ phi duyệt chi giả Cam Lồ sái ư tâm điền, hiểu ngộ chi giả Đề Hồ lưu ư tánh cảnh (俾披閱之者甘露灑於心田、曉悟之者醍醐流於性境, người đọc kỹ nó như Cam Lồ rưới nơi ruộng tâm, người hiểu ngộ được nó như Đề Hồ chảy vào cảnh giới tánh).” Bên cạnh đó, trong bài Thật Tế Tự Cố Tự Chủ Hoài Uẩn Phụng Sắc Tặng Long Xiển Đại Pháp Sư Bi Minh (實際寺故寺主懷惲奉敕贈隆闡大法師碑銘) của Đổng Hạo (董浩) nhà Thanh cũng có đoạn: “Tri dữ bất tri, ngưỡng Đề Hồ ư cú kệ, thức dữ bất thức, tuân pháp nhũ ư ba lan (知與不知、仰醍醐於句偈、識與不識、詢法乳於波瀾, biết và không biết, kính Đề Hồ từng câu kệ, hiểu và không hiểu, tin sữa pháp nơi sóng cả).” Ngay như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 31 có câu: “Na Sa Tăng nhất văn Tôn Ngộ Không tam cá tự, tiện hảo tợ Đề Hồ quán đảnh, Cam Lồ tư tâm (那沙僧一聞孫悟空三個字、便好似醒醐灌頂、甘露滋心, Sa Tăng một khi nghe được ba chữ Tôn Ngộ Không, tức thì giống như nước Đề Hồ rưới đầu, Cam Lồ rửa tâm).” Trong bài tán Kinh Pháp Hoa cũng có đề cập đến Đề Hồ như: “Hầu trung Cam Lồ quyên quyên nhuận, khẩu nội đề hồ đích đích lương (喉中甘露涓涓潤、口內醍醐滴滴涼, dưới cổ Cam Lồ rả rích nhỏ, trong miệng Đề Hồ giọt giọt tươi).”
(虎丘紹隆, Kukyū Shōryū, 1077-1136): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, người Huyện Hàm Sơn, Hòa Châu (和州, Tỉnh An Huy). Ban đầu ông xuất gia ở Phật Từ Viện (佛慈院) trong huyện, rồi đến tham học với Tịnh Từ Sùng Tín (淨慈崇信) ở Trường Lô (長蘆) cũng như một số Thiền tượng khác như Trạm Đường Văn Chuẩn (湛堂文準) ở Bảo Phong (寳峰), Tử Tâm Ngộ Tân (死心悟新) ở Hoàng Long (黃龍) và cuối cùng kế thừa dòng pháp của Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤). Ông theo hầu thầy suốt 20 năm trường, sau đó trở về cố hương, rồi bắt đầu khai đường thuyết pháp ở Khai Thánh Thiền Viện (開聖禪院) vùng Hòa Châu. Về sau, ông chuyển đến sống một số nơi khác như Chương Giáo Thiền Viện (彰敎禪院) ở Tuyên Châu (宣州, Tỉnh An Huy), Linh Nham Thiền Tự (靈巖禪師寺) ở Hổ Kheo Sơn (虎丘山) thuộc Phủ Bình Giang (平江府, Tỉnh Giang Tô). Chính trong khoảng thời gian này, ông đã cùng với Nhược Bình (若平) biên tập các ngữ lục của Khắc Cần. Vào ngày mồng 8 tháng 5 năm thứ 6 (1136) niên hiệu Thiệu Hưng (紹興), ông thị tịch, hưởng thọ 60 tuổi đời và 45 hạ lạp. Môn nhân Từ Thoại (嗣瑞) biên tập cuốn Hổ Kheo Long Hòa Thượng Ngữ Lục (虎丘隆和尚語錄) 1 quyển.
(黃龍悟新, Ōryū Goshin, 1043-1114): vị tăng của Phái Hoàng Long thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Tử Tâm (死心), họ là Hoàng (黃), người Khúc Giang (曲江), Tỉnh Quảng Đông (廣東省). Ông theo Đức Tu (德修) ở Phật Đà Viện (佛陀院) xuống tóc xuất gia và thọ giới. Sau ông du hành các nơi, đến năm thứ 8 (1075) niên hiệu Hy Ninh (熙寧), ông đến Hoàng Long Tự (黃龍寺), tham yết Hối Đường Tổ Tâm (晦堂祖心), được ấn khả và cuối cùng kế thừa dòng pháp của vị này. Sau ông tiếp tục vân du đây đó, đến năm thứ 7 (1092) niên hiệu Nguyên Hựu (元祐), ông bắt đầu ra mặt hoạt động ở Vân Nham (雲巖), và mãi cho đến đầu niên hiệu Chính Hòa (政和, 1111-1118), ông về sống tại Hoàng Long. Vào ngày 14 tháng 12 năm thứ 4 (1114) cùng niên hiệu trên, ông thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi đời và 46 hạ lạp.
(黃龍派, Ōryū-ha): một phái trong Ngũ Gia Thất Tông của Thiền Trung Quốc. Đến giữa thời Bắc Tống, trong Lâm Tế Tông của Trung Quốc có xuất hiện hai nhân vật kiệt xuất thuộc môn hạ của Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓) là Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南) và Dương Kì Phương Hội (楊岐方會) từ đó làm cho Tông này hưng thạnh lên. Vào năm thứ 3 (1036) niên hiệu Cảnh Hựu (景祐), Huệ Nam đến trú tại Hoàng Long Sơn (黃龍山) thuộc Phủ Long Hưng (隆興府, Tỉnh Giang Tây ngày nay), nỗ lực làm cho Thiền phong hưng hiển, rồi dần dần môn hạ của ông có những nhân vật nổi danh ra đời như Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文), Đông Lâm Thường Thông (東林常聰), Hối Đường Tổ Tâm (晦堂祖心), v.v.; ông mở rộng giao tiếp với tầng lớp văn nhân sĩ phu đương thời, lập thành một phái riêng biệt lấy Tỉnh Triết Giang làm trung tâm hoạt động truyền bá, và dần dần được gọi là Hoàng Long Phái. Chính những người trong Hoàng Long Phái này đã cống hiến rất lớn trong việc thành lập Đại Tạng Kinh bản đời Tống. Sau đó, môn hạ của Chơn Tịnh Khắc Văn còn có Đâu Suất Tùng Duyệt (兜率從悅), Lặc Đàm Văn Chuẩn (泐潭文準), Huệ Nhật Văn Nhã (慧日文雅), v.v. Còn đệ tử của Hối Đường Tổ Tâm thì có Tử Tâm Ngộ Tân (死心悟新), Linh Nguyên Duy Thanh (靈源惟清), Lặc Đàm Thiện Thanh (泐潭善清), v.v. Vinh Tây của Nhật Bản sang Tống cầu pháp, đến tham yết Hư Am Hoài Sưởng (虛庵懷敞), kế thừa dòng pháp của vị này, và lần đầu tiên truyền thừa dòng Thiền của Hoàng Long Phái sang Nhật Bản. Tông Lâm Tế thì hưng thạnh một cách áp đảo ở vùng Nam Tống, còn Hoàng Long Phái thì dần dần đi đến suy thối.
(麟趾呈祥): Lân chỉ (麟趾) là chân của con lân. Kỳ Lân là một linh vật; như trong Lễ Ký (禮記) có câu: “Lân, Phụng, Quy, Long vị chi Tứ Linh (麟、鳳、龜、龍謂之四靈, Lân, Phụng, Rùa, Rồng được gọi là bốn linh vật).” Như vậy, Kỳ Lân là linh vật đứng đầu trong Tứ Linh. Trong Mao Thi Thảo Mộc Điểu Thú Trùng Ngư Sớ (毛詩草木鳥獸蟲魚疏) của Lục Cơ (陸機) có giải thích rằng: “Lân, quân thân, ngưu vĩ, mã túc, hoàng sắc, viên đề, nhất giác, giác đoan hữu nhục, âm trung chung lữ, hành trung quy củ, du tất trạch địa, bất lí sanh trùng, bất tiễn sanh thảo, bất quần cư, bất lữ hành, bất nhập hãm tịnh, bất duy la võng (麟、麕身、牛尾、馬足、黃色、圓蹄、一角、角端有肉、音中鐘呂、行中規矩、遊必擇地、不履生蟲、不踐生草、不群居、不侶行、不入陷阱、不罹羅網, Lân có thân con hươu, đuôi trâu, chân ngựa, màu vàng, gót chân tròn, một sừng, đầu sừng có thịt, tiếng vang như chuông, khi đi có quy củ, đi chơi có chốn, không đạp côn trùng sống, chẳng dẫm lên cỏ sống, không sống thành đàn, chẳng sánh bạn cùng đi, không vào hầm nguy hiểm, chẳng sa lưới giăng).” Bên cạnh đó, trong Thi Tập (詩輯) của Nghiêm Xán (嚴粲) có giải thích thêm như sau: “Hữu túc giả nghi đệ, duy lân chi túc, khả dĩ đệ nhi bất đệ; hữu ngạch giả nghi để, duy lân chi ngạch, khả dĩ để nhi bất để; hữu giác giả nghi xúc, duy lân chi giác, khả dĩ xúc nhi bất xúc; nhân giả chí nhân tắc xuất (有足者宜踶、唯麟之足、可以踶而不踶、有額者宜抵、唯麟之額、可以抵而不抵、有角者宜觸、唯麟之角、可以觸而不觸、王者至仁則出, Loài có chân thì đi được, chỉ có chân của lân có thể đi mà không đi; loài có trán thì chống cự được, chỉ có trán của lân có thể chống cự mà không chống cự; loài có sừng thì húc được, chỉ có sừng của lân có thể húc mà không húc; bậc vương giả có đức nhân lớn tất xuất hiện.” Như vậy, Lân là một linh vật được cấu thành bởi 4 loại động vật là hươu, trâu, ngựa và cá. Loại động vật này vốn không tồn tại mà chỉ do người xưa tưởng tượng và sáng tạo thành. Cuộc sống của nó rất thanh cao, Từ tâm rộng lớn, không hề làm tổn thương muôn vật; cho nên, đó cũng là điềm lành xuất hiện đấng minh quân. “Lân chi chỉ (麟之趾)” hay “Lân chỉ” là ví dụ để tán tụng điều chí cao chí mỹ; được tìm thấy trong Thi Kinh (詩經), phần Chu Nam (周南): “Nhiên tắc quan thư lân chỉ chi hóa, vương giả chi phong, cố hệ chi Chu Công (然則關雎麟趾之化、王者之風、故系之周公, vì vậy Quan Thư hóa thành chân lân, phong cách của vương giả, cho nên có liên quan đến Chu Công)”. Câu “Lân chỉ trình tường” có nghĩa là chân của con kỳ lân báo hiệu điềm lành. Câu này vốn xuất xứ từ trong Ấu Học Quỳnh Lâm (幼學瓊林) quyển 2, phần Tổ Tôn Phụ Tử (祖孫父子): “Xưng nhân hữu lịnh tử viết lân chỉ trình tường (稱人有令子曰麟趾呈祥, Ca tụng người có con quý gọi là lân chỉ trình tường)”; được dùng trong dịp hôn lễ để chúc tụng sanh được quý tử nhân hậu, hay ví dụ cho con cháu hưng thạnh, đông đúc. Bên cạnh đó, còn có một số câu chúc tụng khác liên quan đến con lân như: “Lân tử phụng sồ (麟子鳳雛, Lân con phụng con)” để ví dụ cho con cháu quý tộc, “Lân can phụng tủy (麟肝鳳髓, gan lân tủy phụng)” để ví cho loại thực phẩm vô cùng hy hữu, “Phụng mao lân giác (鳳毛麟角, lông phụng sừng lân)” để xưng tán loại vật phẩm trân quý, v.v. Câu “thừa gia lân chỉ trình tường (承家麟趾呈祥)” trong lòng văn sớ trên có nghĩa là kế thừa gia đình có con cháu hiền lương, đông đúc.
(良空, Ryōkū, ?-1297): vị Tăng của Tịnh Độ Tông, sống vào khoảng giữa thời Liêm Thương, vị Tổ của Dòng Mộc Phan (木幡流), húy là Lương Không (良空), hiệu là Từ tâm (慈心). Vào năm 1272, ông cùng với Nhiên Không (然空, Tổ của Dòng Nhất Điều [一條流]) xuống vùng Liêm Thương, rồi theo tu học với Lương Trung (良忠) trong vòng ba năm. Sau khi trở về Kinh Đô Kyoto, ông có ý đồ thống nhất Tông nghĩa của Nguyên Không, nhưng gặp quá nhiều trắc trở, nên năm 1276, ông khẩn thỉnh Nhiên Không và Lương Trung lên kinh đô, để bàn kế hoạch thống nhất tư tưởng theo Phái Trấn Sơn. Sau khi Lương Trung qua đời, ông lãnh đạo môn đệ, ông cùng với Nhiên Không biên tập bộ Đông Tông Yếu (東宗要) gồm 5 quyển từ bộ Tịnh Độ Tông Tập Yếu (淨土宗要集) của Lương Trung. Hơn nữa, ông còn sai Đạo Quang (道光) soạn bộ Vô Lượng Thọ Kinh Sao (無量壽經鈔) gồm 7 quyển. Vì ông lấy Tôn Thắng Tự (尊勝寺) ở vùng Mộc Phan (木幡), Vũ Trị (宇治), nên đời sau gọi là dòng phái của ông là Dòng Mộc Phan.
(冥途、冥塗): chỉ cho thế giới mê ám, tối tăm của người chết; còn gọi là Minh Thổ (冥土), Minh Phủ (冥府), Minh Giới (冥界), U Đồ (幽塗), Huỳnh Tuyền (黃泉), Minh Lộ (冥路). Theo Tịnh Độ Tam Muội Kinh (淨土三昧經), Thập Vương Kinh (十王經), v.v., nơi cõi Minh Đồ có vua Diêm Ma (閻魔), rất nhiều minh quan, Thập Vương như Tần Quảng Vương (秦廣王), v.v., chuyên trừng phạt tội lỗi của phạm nhân. Tại Trung Quốc, tín ngưỡng Minh Phủ của Thái Sơn Phủ Quân (太山府君) thời cổ đại cũng có cùng tư tưởng như vậy. Đối với Nhật Bản, từ thời Trung Đại trở về sau, rất thịnh hành tín ngưỡng cho rằng giữa đường đi qua Minh Phủ có Tam Đồ Xuyên (三途川, sanzugawa) và Tái Hà Nguyên (賽の河原, sai-no-kawara, nơi người con bất hiếu chịu những cực hình, hằng ngày chất đá làm tháp cúng dường song thân đã quá vãng). Về phía Phật Giáo, Minh Đồ chỉ cho chốn Địa Ngục, Ngạ Quỷ. Như trong Tú Nhu Ký (繡襦記), phần Dịch Mục Khuyến Học (剔目勸學) của Từ Lâm (徐霖, 1462-1538) nhà Minh có câu: “Ngã tại Minh Đồ hồi chuyển, thượng ngột tự tâm đầu hỏa nhiên (我在冥途回轉、尚兀自心頭火燃, tôi ở cõi Minh Đồ xoay quanh, lại ngớ ngẩn tự trong tâm bốc lửa).” Hay trong Quy Sơn Cảnh Sách Chú (溈山警策註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1294) lại có câu: “Tiền lộ vị Minh Đồ, Ngũ Thú mang mang, sở trú vô định (前路謂冥途、五趣茫茫、所往無定, đường phía trước là Minh Đồ, năm cõi mờ mịt, chỗ ở vô định).”
(s: pañca-sīla, p: pañca-śīla, 五戒): chỉ cho 5 loại giới điều do tầng lớp nam nữ tại gia thọ trì, trừ khi chúng ta không tin Phật, nhưng một khi đã tin Phật, học Phật thì nhất định phải thọ trì 5 giới điều này, gồm:
(1) Không sát sanh (p: pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不殺生, I undertake the training rule to abstain from taking life);
(2) Không trộm cắp (p: adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不偷盜, I undertake the training rule to abstain from taking what is not given);
(3) Không dâm dục (p: musāvāda veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不淫欲, I undertake the training rule to abstain from sexual misconduct);
(4) Không nói dối (p: musāvāda veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不妄語, I undertake the training rule to abstain from false speech); và
(5) Không uống rượu (p: surā-meraya-majja-pamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不飲酒, I undertake the training rule to abstain from drinks and drugs that cause heedlessness).
Năm Giới này còn gọi là Ưu Bà Tắc Ngũ Giới (優婆塞五戒), Ưu Bà Tắc Giới (優婆塞戒). Trong Phật Thuyết Diễn Đạo Tục Nghiệp Kinh (佛說演道俗業經, Taishō No. 820) có đoạn rằng: “Cư sĩ phục vấn: 'Sơ học đạo giả, thỉ dĩ hà chí ?' Phật ngôn: 'Tiên tập Ngũ Giới Tự Quy ư tam, hà vị Ngũ Giới ? Nhất viết Từ tâm tư nhân bất sát, nhị viết thanh liêm tiết dụng bất đạo, tam giả trinh lương tiên khiết bất nhiễm, tứ viết đốc tín tánh hòa bất khi, ngũ viết yếu đạt chí minh bất loạn; hà vị Tam Tự Quy, nhất viết quy Phật vô thượng chánh chơn, nhị viết quy Pháp dĩ tự ngự tâm, tam viết quy chúng thánh chúng chi trung, sở thọ quảng đại, do như đại hải, mĩ sở bất bao' (居士復問、初學道者、始以何志、佛言、先習五戒自皈於三、何謂五戒、一曰慈心思仁不殺、二曰清廉節用不盜、三曰貞良鮮潔不染、四曰篤信性和不欺、五曰要達志明不亂、何謂三自皈、一曰皈佛無上正眞、二曰皈法以自御心、三曰皈眾聖眾之中、所受廣大、猶如大海、靡所不包, Cư sĩ lại hỏi: 'Người mới học đạo, trước hết lấy gì làm chí ?' Phật dạy: 'Trước tu tập Năm Giới và Ba Tự Quy Y, thế nào là Năm Giới ? Thứ nhất là Từ tâm, thương người mà không giết hại; thứ hai là thanh liêm, tiết kiệm mà không trộm cắp; thứ ba là trinh tiết, trong sạch mà không ô nhiễm [không tà dâm]; thứ tư là một lòng tin, hòa thuận mà không xem thường [không nói dối]; thứ năm là cần đạt chí sáng suốt mà không rối loạn [không uống rượu]; thế nào là Ba Quy Y; một là Quy Y Phật, đấng vô thượng chánh chơn; hai là Quy Y Pháp, để tự chế ngự tâm; ba là Quy Y Tăng, trong các bậc Thánh; thọ trì rộng lớn, giống như biển lớn, không nơi nào không dung chứa').” Theo Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部) của Tiểu Thừa, người thọ Tam Quy thì đã trở thành Ưu Bà Tắc (s, p: upāsaka, 優婆塞); nhưng Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, 說一切有部) lại quy định rằng trước thọ Tam Quy, sau thọ Năm Giới mới được gọi là Ưu Bà Tắc. Ba giới đầu để phòng thân, giới thứ tư phòng về miệng, giới thứ năm phòng cả thân và miệng, bảo vệ cho cả 4 giới trên. Từ xưa, ở Trung Quốc đã phối hợp Ngũ Giới với Ngũ Thường (五常, Nhân [仁], Nghĩa [義], Lễ [禮], Trí [智], Tín [信]); rồi đặt giới Không Sát Sanh ở phương Đông, Không Trộm Cắp ở phương Bắc, Không Tà Dâm ở phương Tây, Không Uống Rượu ở phương Nam, và Không Nói Dối ở Trung Ương. Năm Giới đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc thoát ly sanh tử, chứng thành Phật đạo; cho nên trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh (優婆塞戒經, Taishō No. 1488) có dạy rằng: “Nhược hữu thuyết ngôn, ly Ngũ Giới độ sanh tử giả, vô hữu thử xứ. Thiện nam tử ! Nhược nhân dục độ sanh tử đại hải, ưng đương chí tâm thọ trì Ngũ Giới (若有說言、離五戒已度生死者、無有是處、善男子、若人欲度生死大海、應當至心受持五戒, nếu có người bảo rằng lìa Năm giới mà vượt qua sanh tử thì không có việc ấy. Này thiện nam tử ! Nếu có người muốn qua biển sanh tử lớn, hãy nên chí tâm thọ trì Năm Giới).” Hay Tứ Thập Nhị Chương Kinh (四十二章經, Taishō No. 784) cũng khẳng định rằng: “Phạn thiện nhân thiên, bất như phạn trì Ngũ Giới giả nhất nhân (飯善人千、不如飯持五戒者一人, cúng dường cơm cho ngàn người thiện không bằng cúng dường cơm cho một người giữ Năm Giới).” Một số lời dạy trong các kinh điển về việc hành trì Năm Giới như Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō No. 945) quyển 6 có câu: “Nhược bất đoạn sát, tu Thiền định giả, thí như hữu nhân, tự tắc kỳ nhĩ, cao thanh đại khiếu, cầu nhân bất văn (若不斷殺、修禪定者、譬如有人、自塞其耳、高聲大叫、求人不聞, người tu Thiền định, nếu không đoạn trừ sát sanh, ví như có người, tự bịt tai mình, la vang lớn tiếng, kêu người chẳng nghe).” Ưu Bà Tắc Giới Kinh quyển 6, Phẩm Ngũ Giới (五戒品) thứ 22 có dạy về giới trộm cắp rằng: “Nhược hữu chúng sanh thâu thiết thường trụ tài vật, cốc mễ, ẩm thực, y phục, nãi chí nhất vật bất dữ thủ giả, đương đọa Vô Gián Địa Ngục, cầu xuất vô kỳ (若有眾生偷竊常住財務、榖米、飲食、衣服、乃至一物不與取者、當墮無間地獄、求出無期, nếu có chúng sanh nào trộm cắp tài vật của thường trụ, thóc gạo, đồ ăn uống, áo quần, cho đến một vật không cho mà lấy, sẽ bị đọa Địa Ngục Vô Gián, không có thời hạn cầu mong thoát ra).” Trong khi đó, Vô Tự Bảo Khiếp Kinh (無字寶篋經, Taishō No. 828) khuyên rằng: “Ái tự mạng giả, tắc bất sát sanh; ái tự tài giả, bất đạo tha tài; ái tự thê giả, bất xâm tha thê (愛自命者、則不殺生、愛自財者、不盜他物、愛自妻者、不侵他妻, thương mạng sống mình, tất không sát sanh; thương tài sản mình, không lấy của người; thương vợ của mình, không phạm vợ người).” Lăng Nghiêm Kinh lại dạy về giới điều Không Nói Dối như sau: “Nhược bất đoạn kỳ đại vọng ngữ giả, như khắc nhân phẩn, vi Chiên Đàn hình, dục cầu hương khí, vô hữu thử xứ (若不斷其大妄語者、如刻人糞、爲旃檀形、欲求香氣、無有是處, nếu không đoạn trừ nói dối, như khắc phân người làm hình Chiên Đàn, muốn cầu hương thơm, không có việc ấy).” Về giới Không Uống Rượu, Ni Càn Tử Thọ Ký Kinh (尼乾子受記經) quyển 5, Phẩm Vấn Tội Quá (問罪過品) thứ 7, dạy rõ rằng: “Ẩm tửu đa phóng dật, hiện thế thường ngu si, vong thất nhất thiết sự, thường bị trí giả ha, lai thế thường ám độn, đa thất chư công đức, thị cố hiệt tuệ nhân, ly chư ẩm tửu thất (飲酒多放逸、現世常愚癡、忘失一切事、常被智者呵、來世常闇鈍、多失諸功德、是故黠慧人、離諸飲酒失, uống rượu nhiều buông túng, đời nay thường ngu si, quên mất tất cả chuyện, thường bị người trí trách, đời sau thường ngu độn, mất hết các công đức, cho nên người thông tuệ, lìa sai lầm uống rượu).” Trong Tử Bá Tôn Giả Toàn Tập (紫柏尊者全集, CBETA No. 1452) quyển 20, phần Trì Giới Kệ (持戒偈) có cảnh tỉnh người hành trì Năm Giới rằng: “Ngũ Giới bất trì, nhân thiên lộ cùng, cử túc hà vãng, ngưu mã thai trung (五戒不持。人天路窮。舉足何徃。牛馬胎中, Năm Giới chẳng giữ, trời người cùng đường, nhấc chân về đâu, vào thai trâu ngựa).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập