Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Từ quang »»
(阿彌陀三十七號, Amidasanjūnanagō): 37 đức hiệu của đức Phật A Di Đà, do Thân Loan (親鸞, Shinran, 1173-1262), tổ khai sáng Tịnh Độ Chơn Tông (淨土眞宗, Jōdōshin-shū) của Nhật Bản lấy từ bài Kệ Tán A Di Đà của Đàm Loan (曇鸞, 476-?) cho vào trong bản Tịnh Độ Hòa Tán (淨土和讚, Jōdōwasan) của ông. Đó là:
(1) Vô Lượng Quang, - (2) Chân Thật Minh,
(3) Vô Biên Quang, - (4) Bình Đẳng Giác,
(5) Vô Ngại Quang - (6) Nan Tư Nghì,
(7) Vô Đối Quang, - (8) Tất Cánh Y,
(9) Quang Viêm Vương, - (10) Đại Ứng Cúng,
(11) Thanh Tịnh Quang, - (12) Hoan Hỷ Quang,
(13) Đại An Úy, - (14) Trí Huệ Quang,
(15) Bất Đoạn Quang, - (16) Nan Tư Quang
(17) Vô Xưng Quang, - (18) Siêu Nhật Nguyệt Quang,
(19) Vô Đẳng Đẳng, - (20) Quảng Đại Hội,
(21) Đại Tâm Hải, - (22) Vô Thượng Tôn,
(23) Bình Đẳng Lực, - (24) Đại Tâm Lực,
(25) Vô Xưng Phật, - (26) Bà Già Bà,
(27) Giảng Đường, - (28) Thanh Tịnh Đại Nhiếp Thọ,
(29) Bất Khả Tư Nghì Tôn, - (30) Đạo Tràng Thọ,
(31) Chơn Vô Lượng, - (32) Thanh Tịnh Lạc,
(33) Bản Nguyện Công Đức Tụ, - (34) Thanh Tịnh Huân,
(35) Công Đức Tạng, - (36) Vô Cực Tôn, và
(37) Nam Mô Bất Khả Tư Nghì Quang.
(隱元隆琦, Ingen Ryūki, 1592-1673): vị tổ khai sáng Hoàng Bá Tông Nhật Bản, người vùng Phúc Thanh (福清), Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Lâm (林), hiệu là Ẩn Nguyên (隱元), sinh ngày mồng 4 tháng 11 năm thứ 20 niên hiệu Vạn Lịch (萬曆) nhà Minh. Năm lên 9 tuổi, ông có chí ham học, nhưng năm sau thì bỏ học, theo nghiệp trồng tiêu. Có đêm nọ ông ngồi nằm dưới gốc cây tùng, mới ngộ được rằng muốn hiểu rõ diệu lý của trời đất, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, v.v., thì không còn con đường nào hơn là quy y vào cửa Phật. Cuối cùng với lòng quyết tâm, năm 23 tuổi ông lên Phổ Đà Sơn (普陀山) ở Nam Hải, thuộc Ninh Ba (寧波, Tỉnh Triết Giang), tham bái Triều Âm Động Chủ (潮音洞主). Năm lên 29 tuổi, ông đến viếng thăm Hoàng Bá Sơn (黃檗山), theo Giám Nguyên Hưng Thọ (鑑源興壽) xuống tóc xuất gia, và sau đó đi tham bái khắp các nơi. Trong thời gian này, ông có học Kinh Pháp Hoa ở Hưng Thiện Tự (興善寺) vùng Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang), rồi Kinh Lăng Nghiêm ở Bích Vân Tự (碧雲寺). Bên cạnh đó ông còn đến gõ cửa Mật Vân Viên Ngộ (密雲圓悟) và thọ nhận tâm ấn của vị này. Vào năm thứ 6 (1633) niên hiệu Sùng Trinh (崇貞), khi Phí Ẩn Thông Dung (費隱通容) đang sống tại Hoàng Bá Sơn, ông được cử làm chức Tây Đường, sau thể theo lời thỉnh cầu, ông lên quản lý cả Hoàng Bá Tông và đã làm cho tông phong rạng rỡ tột đỉnh; bên cạnh đó ông còn tận lực cho xây dựng các ngôi đường vũ khang trang hơn, và trở thành pháp từ của Phí Ẩn. Ông đã từng sống qua một số chùa như Phước Nghiêm Tự (福嚴寺) ở Sùng Đức (崇德, Tỉnh Triết Giang), Long Tuyền Tự (龍泉寺) ở Trường Lạc (長樂, Tỉnh Phúc Kiến). Đến năm thứ 11 (1654) niên hiệu Thuận Trị (順治), nhận lời cung thỉnh của mấy vị tăng nhóm Dật Nhiên Tánh Dung (逸然性融) ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) vùng Trường Khi (長崎, Nagasaki), ông cùng với Đại Mi Tánh Thiện (大眉性善), Độc Trạm Tánh Oanh (獨湛性瑩), Độc Ngôn Tánh Văn (獨言性聞), Nam Nguyên Tánh Phái (南源性派), v.v., hơn 30 người đệ tử lên thuyền sang Nhật, đến Hưng Phước Tự. Khi ấy ông đã 63 tuổi. Năm sau, ông chuyển đến Sùng Phước Tự (崇福寺, Sūfuku-ji), rồi thể theo lời mời của Long Khê Tánh Tiềm (龍溪性潜) ở Phổ Môn Tự (普門寺, Fumon-ji) vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu), ông đến làm trú trì chùa này. Sau đó, vào tháng 9 năm đầu (1651) niên hiệu Vạn Trị (萬治), ông đi lên phía đông, đến trú ngụ tại Lân Tường Viện (麟祥院) ở Thang Đảo (湯島, Yushima) vùng Giang Hộ (江戸, Edo, thuộc Tokyo), đến yết kiến Tướng Quân Đức Xuyên Gia Cương (德川家綱, Tokugawa Ietsuna), và vì hàng sĩ thứ mà thuyết pháp lợi sanh. Vào tháng 5 năm đầu (1661) niên hiệu Khoan Văn (寬文), ông sáng lập Hoàng Bá Sơn Vạn Phước Tự (黃檗山萬福寺) tại vùng đất Vũ Trị (宇治, Uji), làm căn cứ truyền bá Thiền phong của Hoàng Bá Tông tại Nhật Bản; và đến tháng 9 năm thứ 4 đồng niên hiệu trên, ông nhường ngôi trú trì lại cho Mộc Am Tánh Thao (木菴性瑫), và lui về ẩn cư. Vào tháng 2 năm thứ 13 cùng niên hiệu trên, ông bị bệnh nhẹ; ngày 30 cùng tháng này Hậu Thủy Vĩ Thượng Hoàng (後水尾上皇, Gomizunō Jōkō) sai sứ đến vấn an ông. Đến ngày mồng 2 tháng 4, ông được ban cho hiệu là Đại Quang Phổ Chiếu Quốc Sư (大光普照國師). Vào ngày mồng 3 tháng 4 năm sau, ông thị tịch, hưởng thọ 82 tuổi đời, 54 hạ lạp, và được ban tặng thêm cho thụy hiệu là Phật Từ Quảng Giám Thiền Sư (佛慈廣鑑禪師). Ngoài ra ông còn có một số hiệu khác như Kính Sơn Thủ Xuất Thiền Sư (徑山首出禪師), Giác Tánh Viên Minh Thiền Sư (覺性圓明禪師). Trước tác của ông để lại có Hoàng Bá Ngữ Lục (黃檗語錄) 2 quyển, Long Tuyền Ngữ Lục (龍泉語錄) 1 quyển, Hoàng Bá Sơn Chí (黃檗山誌) 8 quyển, Hoằng Giới Pháp Nghi (弘戒法儀) 2 quyển, Dĩ Thượng Trung Quốc Soạn Thuật (以上中國撰術), Phù Tang Hội Lục (扶桑會錄) 2 quyển, Phổ Chiếu Quốc Sư Quảng Ngữ Lục (普照國師廣語錄) 20 quyển, Hoàng Bá Hòa Thượng Thái Hòa Tập (黃檗和上太和集) 2 quyển, Đồng Kết Tập (同結集) 2 quyển, Sùng Phước Tự Lục (崇福寺錄), Phật Tổ Đồ Tán (佛祖圖賛), Phật Xá Lợi Ký (佛舎利記), Ẩn Nguyên Pháp Ngữ (隱元法語), Phổ Môn Thảo Lục (普門艸錄), Tùng Ẩn Tập (松隱集), Vân Đào Tập (雲濤集), Hoàng Bá Thanh Quy (黃檗清規), v.v.
(眞淨克文, Shinjō Kokubun, 1025-1102): vị tăng của Phái Hoàng Long (黃龍派) thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, xuất thân Văn Hương (閿郷), Thiểm Phủ (陜府, Tỉnh Hồ Nam), họ là Trịnh (鄭), hiệu là Vân Am (雲庵), và tùy theo chỗ ở của ông cũng như Thiền sư hiệu mà có các tên gọi khác nhau như Lặc Đàm Khắc Văn (泐潭克文), Bảo Phong Khắc Văn (寳峰克文) và Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文). Ngay từ nhỏ ông đã kiệt xuất, nên cha ông có ý cho ông đi du học. Nhân nghe lời thuyết pháp của Bắc Tháp Tư Quảng (北塔思廣) ở Phục Châu (復州, Tỉnh Hồ Bắc), ông phát tâm theo hầu hạ vị này, và được đặt cho tên là Khắc Văn. Năm lên 25 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới. Ban đầu ông học các kinh luận, nhưng khi biết có Thiền thì ông ngao du lên phương Nam, và vào năm thứ 2 (1065) niên hiệu Trị Bình (治平), ông nhập hạ an cư trên Đại Quy Sơn (大潙山). Tại đây nhân nghe một vị tăng tụng câu kệ của Vân Môn Văn Yển (雲門文偃), ông hoát nhiên đại ngộ, rồi đến tham vấn Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南) ở Tích Thúy (積翠) và kế thừa dòng pháp của vị này. Trong số môn hạ của Hoàng Long, ông là người có cơ phong mẫn nhuệ nên thông xưng là Văn Quan Tây (文關西). Vào năm thứ 5 (1072) niên hiệu Hy Ninh (熙寧), ông đến Cao An (高安), thể theo lời thỉnh cầu của vị Thái Thú Tiền Công (錢公), ông đến trú trì hai ngôi chùa Động Sơn Tự (洞山寺) và Thánh Thọ Tự (聖壽寺) trong vòng 12 năm. Sau đó, ông lại lên Kim Lăng (金陵), được Thư Vương (舒王) quy y theo và khai sơn Báo Ninh Tự (報寧寺). Ông còn được ban cho hiệu là Chơn Tịnh Đại Sư (眞淨禪師). Không bao lâu sau, ông lại quay trở về Cao An, lập ra Đầu Lão Am (投老庵) và sống nhàn cư tại đây. Sau 6 năm, ông đến trú tại Quy Tông Tự (歸宗寺) trên Lô Sơn (廬山). Tiếp theo, thể theo lời thỉnh cầu của Tể Tướng Trương Thương Anh (張商英), ông lại chuyển đến sống ở Lặc Đàm (泐潭). Cuối cùng ông trở về sơn am ẩn cư và vào ngày 16 tháng 10 năm đầu (1102) niên hiệu Sùng Ninh (崇寧), ông thị tịch, hưởng thọ 78 tuổi đời và 52 hạ lạp. Cùng với Hối Đường Tổ Tâm (晦堂祖心) và Đông Lâm Thường Thông (東林常聰), ông đã tạo dựng nên cơ sở phát triển cho Phái Hoàng Long (黃龍派) thuộc Lâm Tế Tông. Đệ tử của ông có những nhân vật kiệt xuất như Đâu Suất Tùng Duyệt (兜率從悅), Thọ Ninh Thiện Tư (壽寧善資), Động Sơn Trí Càn (洞山致乾), Pháp Vân Cảo (法雲杲), Báo Từ Tấn Anh (報慈進英), Thạch Đầu Hoài Chí (石頭懷志), Lặc Đàm Văn Chuẩn (泐潭文準), Văn Thù Tuyên Năng (文殊宣能), Huệ Nhật Văn Nhã (慧日文雅), Động Sơn Phạn Ngôn (洞山梵言), Thượng Phong Huệ Hòa (上封慧和), Cửu Phong Hy Quảng (九峰希廣), v.v. Trước tác của ông để lại có Vân Am Chơn Tịnh Thiền Sư Ngữ Lục (雲庵眞淨禪師語錄) 6 quyển, còn đệ tử Giác Phạm Huệ Hồng (覺範慧洪) thì soạn ra cuốn Vân Am Chơn Tịnh Hòa Thượng Hành Trạng (雲庵眞淨和尚行狀).
(大德寺, Daitoku-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đại Đức Tự (大德寺派) thuộc Lâm Tế Tông, hiệu núi là Long Bảo Sơn (龍寶山), hiện tọa lạc tại số 53 Daitokuji-cho (大德寺町), Murasakino (紫野), Kita-ku (北區), Kyoto-shi (京都市), Kyoto-fu (京都府). Người đời thường gọi là Tử Dã Đại ĐứcTự (紫野大德寺, Murasakunodaitoku-ji), tên gọi chính thức là Long Bảo Sơn Đại Đức Thiền Tự (龍寶山大德禪寺). Chùa được sáng lập vào năm đầu (1319) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), và vị Tổ khai sơn chùa là Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超). Diệu Siêu là người vùng Bá Ma (播磨, Harima, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]), ban đầu ông làm đệ tử của vị Luật Sư Giới Tín (戒信), nhưng sau đó thì lại theo học đạo với Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), rồi được vị này thọ ký cho. Đến năm 1308, khi Nam Phố Thiệu Minh qua đời, thì ông đến sống ở Vân Cư Am (雲居庵). Khi ấy vị trấn thủ vùng Bá Ma là Hộ Tắc Thôn (護則村) nghe như vậy, bèn kiến lập một tòa Pháp Đường ở vùng Tử Dã (紫野, Murasakino), rồi cung thỉnh Diệu Siêu đến ở đó. Sau Hậu Đế Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) nghe được uy đức của ông, bèn thỉnh vào cung cấm mà tham vấn yếu chỉ của Thiền, rồi ban cho đất đai mà xây dựng ngôi già lam, lấy tên gọi là Long Bảo Sơn Đại Đức Tự (龍寶山大德寺). Kế đến Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇) lại sắc phong cho chùa là Đạo Tràng Kỳ Nguyện, và xếp vào một trong năm ngôi chùa nổi tiếng vùng Kyoto. Vào năm thứ 2 (1453) niên hiệu Hưởng Đức (享德), do bị hỏa hoạn lớn nên hơn phân nữa chùa bị cháy tan, rồi sau đó gặp phải binh hỏa của vụ Loạn Ứng Nhân (應仁). Về sau, vào năm thứ 6 (1474) niên hiệu Văn Minh (文明), Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純) mới nỗ lực tái hưng lại ngôi chùa này. Đến trong khoảng niên hiệu Khoan Văn (寛文) thì ngôi già lam hầu như đã được phục hồi lại y như cũ. Trong khuôn viên chùa hiện có 24 ngôi tháp, gồm những ngôi mộ của những bậc danh tướng đương thời, ngoài ra còn có rất nhiều bia tháp, mộ phần khác nữa. Quần thể kiến trúc chùa gồm Sắc Sứ Môn (勅使門), Tam Môn (三門), Phật Điện (佛殿), Pháp Đường (法堂) và khá nhiều ngôi viện nhỏ như Dưỡng Đức Viện (養德院), Long Nguyên Viện (龍源院), Hoàng Mai Viện (黃梅院), Đại Từ Viện (大慈院), Thoại Phong Viện (瑞峰院), Hưng Lâm Viện (興臨院), Chánh Thọ Viện (正受院), Tam Huyền Viện (三玄院), Chân Châu Viện (眞珠院), Đại Tiên Viện (大仙院), Phương Xuân Viện (芳春院), Tụ Quang Viện (聚光院), Tổng Kiến Viện (總見院), Cao Đồng Viện (高桐院), Ngọc Lâm Viện (玉林院), Long Quang Viện (龍光院), Tùng Nguyên Viện (松源院), v.v. Hiện chùa còn lưu giữ khá nhiều bảo vật thuộc hạng quốc bảo cũng như tài sản văn hóa quan trọng như Đường Môn, Phương Trượng, đồ hình Quan Âm Vượn Hạc vẽ trên lụa với ngòi bút tài tình của họa sĩ Mục Khê (牧谿), tượng Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師) màu trên lụa, v.v.
(妙力): sức mạnh thần diệu. Như trong bài thơ Kinh Sư (京師) của Thẩm Ước (沉約, 441-513) nhà Lương thời Nam Triều có đoạn: “Ngưỡng kỳ chơn thánh chi ân, sát kỳ thành tâm, bị dĩ diệu lực, linh thần sở chí hoạch toại (仰祈眞聖之恩、察其誠心、被以妙力、令臣所志獲遂, ngưỡng mong chơn thánh ơn cao, xét tâm thành ấy, lấy năng lực thần diệu, khiến chí nguyện của thần được thỏa mãn).” Hay trong bài thơ Lễ Võ Đài Tọa Hóa Tăng (禮武臺坐化僧) của Trần Sư Đạo (陳師道, 1053-1101) nhà Tống có cũng có câu: “Thỉ độc bích gian bi, diệu lực ẩn bất truyền (始讀壁間碑、妙力隱不傳, mới đọc bia trong đá, diệu lực ẩn không truyền).” Hoặc trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 3 có câu: “Duy nguyện Phật từ quảng đại, diệu lực nan tư, giáng lâm đạo tràng, chứng minh công đức (唯願佛慈廣大、妙力難思、降臨道塲、證明功德, cúi mong lòng từ Phật rộng lớn, năng lực mầu nhiệm khó nghĩ bàn, giáng xuống đạo tràng, chứng minh công đức).”
(德大寺, Tokudai-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, tọa lạc tại 4-6-2 Ueno (上野), Daito-ku (台東區), Tokyo-to (東京都), rất nổi tiếng với danh hiệu là ngôi Ma Lợi Chi Thiên (摩利支天) ở vùng Thượng Dã (上野, Ueno); sơn hiệu là Diệu Tuyên Sơn (妙宣山). Tổ khai sơn của chùa là Từ quang Viện Nhật Di (慈光院日遺), và chùa được suy định là xây dựng vào khoảng đầu hay giữa thế kỷ thứ 17. Tượng thờ chính của chùa là Khai Vận Đại Ma Lợi Chi Thiên (開運大摩利支天), nhằm để cầu nguyện trừ tai ách, làm ăn mua bán phát đạt; và đặc biệt tượng này được xem như là rất linh nghiệm đối với việc khai vận; cho nên, từ ngày xưa các tín đồ từ xa đã tập trung về đây để khấn nguyện cầu xin. Dưới thời đại Giang Hộ, trong ba ngày đầu của tháng Giêng được quy định là ngày Chúc Hạ của dòng họ Tướng Quân; nên đến ngày mồng 4 thì các tín đồ mới được đến chùa lễ bái. Nguyên ngữ của Ma Lợi Chi (s: Marici, 摩利支) có nghĩa là Dương Viêm (陽炎), hay Uy Quang (威光), và thường phát xuất từ mặt trời ra, nên được xem như là vị Thần hiển hiện để thủ hộ Phật pháp. Bản thân Nhật Liên cũng “trì Kinh Ma Lợi Chi Thiên Pháp Hoa để cứu độ tất cả chúng sanh.” Tương truyền tôn tượng Ma Lợi Chi Thiên này do Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) tạo nên. Vào thánh Giêng, tháng 5, tháng 9, tháng 11 thì có lễ hội lớn ở đây; khi ấy chùa mới phân phát cho các tín đồ một loại cơm màu vàng giống y vàng ròng có trộn với hai loại đậu đen để trừ tai ách. Đây chính là lễ hội kéo dài liên tục từ ngày xưa khi chùa mới thành lập cho đến nay của Đức Đại Tự. Người ta cho rằng khi ăn loại cơm này thì không những chỉ trừ được tai ách hoạn nạn, mà còn được bệnh tật tiêu trừ, và vận nhà sáng sủa, thăng tiến phát đạt nữa.
(s: Bhaiṣajyasamudgata, 藥上): tên của một vị Bồ Tát trong số 25 vị của đức Phật Di Đà; cùng với Dược Vương (s: Bhaiṣajya-rāja, 藥王), là hai Bồ Tát thường hầu cận bên phật Dược Sư. Theo Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát Kinh (觀藥王藥上二菩薩經) cho biết rằng, cả hai từng là anh em ruột thịt, đều là trưởng giả giàu có, Dược Vương là Tinh Tú Quang (星宿光); Dược Thượng là Điện Quang Minh (電光明). Vào đời tương lai họ sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Nhãn (s: Vimala-netra, 淨眼) và Tịnh Tạng (s: Vimala-garbha, 淨藏). Về toàn thể, hình tượng của Dược Thượng Bồ Tát cũng giống như Dược Vương Bồ Tát, nhưng chỉ khác nhau là trên tay phải chỉ cầm bình thuốc mà thôi.
(s: Bhaiṣajya-rāja, 藥王): dịch âm là Bế Thệ Xả La Nhạ (鞞逝捨羅惹), là vị Bồ Tát thường ban các loại thuốc tốt để trị các bịnh khổ về thân lẫn tâm của chúng sanh. Đây là 1 trong 25 vị Bồ Tát của đức Phật A Di Đà. Theo Kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát (觀藥王藥上二菩薩經) cho biết rằng, trong đời quá khứ vô lượng vô biên A Tăng Kỳ kiếp có đức Phật hiệu là Lưu Ly Quang Chiếu Như Lai (琉璃光照如來), quốc độ của Ngài tên là Huyền Thắng Phan (懸勝幡). Sau khi vị Phật này nhập Niết Bàn, vào đời tượng pháp có vị Tỳ Kheo tên Nhật Tạng (日藏) thông minh, nhiều trí tuệ, vì đại chúng mà diễn thuyết trí tuệ lớn bình đẳng thanh tịnh vô thượng của Đại Thừa. Khi ấy trong hội chúng có trưởng giả tên là Tinh Tú Quang (星宿光) nhân nghe được trí tuệ này tâm liền sanh hoan hỷ, bèn lấy thuốc tốt trên núi Tuyết Sơn đem dâng cúng dường cho Tỳ Kheo Nhật Tạng và chúng tăng, còn phát nguyện đem công đức này hồi hướng để được giác ngộ vô thượng. nếu chúng sanh nào nghe được tên của mình nguyện cho người ấy được diệt trừ 3 loại bịnh khổ. Lúc bấy giờ người em của trưởng giả là Điện Quang Minh (電光明) cũng theo người anh mình mang các loại thuốc tốt đến dâng cúng Tỳ Kheo Nhật Tạng và chúng tăng, cũng phát bồ đề tâm lớn, nguyện được thành Phật. Lúc đó toàn thể đại chúng đều tán thán trưởng giả Tinh Tú Quang là Dược Vương (vua của các loại thuốc), còn Điện Quang Minh là Dược Thượng. Về sau hai vị này đã chứng đắc ngôi vị Bồ Tát với tên gọi như vậy. Cũng kinh này cho biết rằng, hai vị Bồ Tát đã từng tu phạm hạnh trong khoảng thời gian lâu dài, các nguyện đã được tròn đầy, Dược Vương Bồ Tát sẽ thành Phật trong đời tương lai, hiệu là Tịnh Nhãn Như Lai (s: Vimala-netra, 淨眼如來) và Dược Thượng Bồ Tát cũng thành Phật hiệu là Tịnh Tạng Như Lai (s: Vimala-garbha, 淨藏如來). Lại nữa, trong phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự (藥王菩薩本事) của kinh Pháp Hoa cũng nói rằng, trong thời quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp có đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai (日月淨明德如來), tuổi thọ của vị Phật này là 42.000 kiếp. Lúc bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát (一切眾生喜見菩薩) tu tập khổ hạnh, tinh tấn kinh hành, nhất tâm cầu Phật. Trải qua 12.000 tuổi, chứng được Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân Tam Muội (現一切色身三昧). Vị này phủ lên mình các loại hương, dầu rồi đốt cháy thân mình cúng dường Phật trong vòng 1200 năm. Sau khi mạng chung, lại hóa sanh vào gia đình của vua Tịnh Đức, được Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai phó chúc cho. Sau khi vị Phật này qua đời, Bồ Tát đã tạo dựng 84.000 ngôi tháp. Chính bản thân của Ngài trong vòng 72.000 năm đã từng đốt cánh tay cúng dường các tháp ấy. Ngài còn có tên gọi là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, tức là Dược Vương Bồ Tát bây giờ. Riêng phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự, cuốn 7, Kinh Pháp Hoa cho biết rằng vào thời quá khứ vô số kiếp có ngài Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật (雲雷音宿王華智佛) thuyết Kinh Pháp Hoa. Lúc bấy giờ có vị quốc vương tên là Diệu Trang Nghiêm (s: Śubha-vyūha, 妙莊嚴), phu nhân tên là Tịnh Đức (s: Vimala-datta, 淨德) và hai người con tên là Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn. Vị vua này tin vào tà kiến tu theo pháp của ngoại đạo nên phu nhân cùng với hai người con đã dùng nhiều loại phương tiện khác nhau khiến cho nhà vua đến chỗ của Tú Vương Hoa Trí Phật để nghe kinh Pháp Hoa và đã được lợi ích. Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn hiện tại là Dược Vương và Dược Thượng. Hình tượng của Dược Vương Bồ Tát thông thường trên đầu có đội mũ báu, tay trái nắm chặt lại đặt ngang hông, tay phải đặt trước ngực, ngón tay cái, ngón áp út và ngón tay giữa cầm cây dược thảo hình Tam Muội Da hình Hoa Sen.
(蓮眼): mắt hoa sen, chỉ con mắt của chư Phật, Bồ Tát, một trong 32 tướng tốt của đức Phật, tức là mắt trong xanh (s: abhinīla-netta, 眞青眼) như hoa sen xanh (s: utpala, p: uppala, 青蓮, âm dịch là Ưu Bát La [優鉢羅], thanh liên). Các ngài thường có tâm từ bi, nhu hòa, lắng trong, thanh tịnh, nên con mắt của các ngài như hoa sen xanh. Vì vậy từ này thường dùng để chỉ cho Phật nhãn hay bản thân đức Phật. Trong Phẩm Phật Quốc (佛國品) của Duy Ma Kinh (s: Vimalakīrti-nideśa, 維摩經) có diễn tả về con mắt của chư Phật, Bồ Tát như sau: “Mục tịnh tu quảng như thanh liên, tâm tịnh dĩ độ chư Thiền định, cửu tích tịnh nghiệp xưng vô lượng, đạo chúng dĩ tịch cố khể thủ, kí kiến Đại Thánh dĩ thần biến, phổ hiện thập phương vô lượng độ (目淨脩廣如青蓮、心淨已度諸禪定、久積淨業稱無量、導眾以寂故稽首、旣見大聖以神變、普現十方無量國度, mắt sạch dài rộng như hoa sen xanh, tâm sạch chứng khắp các Thiền định, tích tập lâu vô lượng các tịnh nghiệp, dẫn dắt mọi loài giải thoát nên con cúi lạy, đã thấy Đại Thánh dùng thần biến, hiện khắp mười phương vô lượng cõi nước).” Trong Tánh Linh Tập (性靈集) quyển 8, Chiều Đề Tự Đát Sấn Văn (招提寺噠嚫文) có câu: “Nhĩ nãi vạn đức khai từ bi chi liên nhãn, nhất xa huy trí tuệ chi đao nhận (爾乃萬德開慈悲之蓮眼、一車揮智慧之刀刃, Người lấy vạn đức mở mắt sen từ bi, một xe rung lưỡi đao trí tuệ).” Trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 大方廣佛華嚴經, Taishō No. 293) quyển 25 lại có câu: “Phật khai quảng đại thanh liên nhãn, diệu tướng trang nghiêm công đức thân, nhân thiên cọng tán bất năng lường, thí nhược vạn lưu quy đại hải (佛開廣大青蓮眼、妙相莊嚴功德身、人天共讚不能量、譬若萬流歸大海, Phật mở mắt sen xanh rộng lớn, tướng mầu trang nghiêm công đức thân, trời người xưng tán không thể lường, giống như muôn dòng về biển cả).” Hay trong Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh (大乘入楞伽經, Taishō No. 672) quyển 7 cũng có câu: “Thế gian đọa nhị biên, chư kiến sở mê hoặc, duy nguyện thanh liên nhãn, thuyết chư địa thứ đệ (世間墮二邊、諸見所迷惑、惟願青蓮眼、說諸地次第, thế gian rơi hai bên, chỗ thấy bị mê hoặc, xin nguyện đấng mắt sen, nói cảnh giới giải thoát).”
(南源性派, Nangen Shōha, 1631-1692): vị tăng của Hoàng Bá Tông Trung Quốc, hiệu là Nam Nguyên (南源), biệt hiệu là Phi Tuyền (非泉), Tùng Tuyền (松泉), xuất thân Huyện Phúc Thanh (福清縣), Phủ Phúc Châu (福州府, Tỉnh Phúc Kiến), sanh ngày 23 tháng 8 năm thứ 4 (1631) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎), họ là Lâm (林). Năm 15 tuổi, ông xuất gia với Vô Tịnh Chương (無淨璋) ở Hoàng Bá Sơn (黃檗山), sau theo hầu Ẩn Nguyên (隱元) và cùng đi theo vị này sang Nhật. Vào năm thứ 8 (1668) niên hiệu Khoan Văn (寛文), ông khai sáng Hoa Nghiêm Viện (華嚴院) và Từ quang Đường (慈光堂). Đến năm đầu (1673) niên hiệu Diên Bảo (延寶), ông biên tập bộ Quảng Lục (廣錄) của Ẩn Nguyên, đi tham cứu khắp các nơi, dừng chân tại Quốc Phận Tự (國分寺, Kokubun-ji). Vào năm thứ 5 (1692), ông chuyển đến trú trì Chánh Hưng Tự (正興寺) và trở thành vị tổ thời Trung Hưng của chùa này. Không bao lâu sau, ông chuyển sang Cao Thọ Hiên (高壽軒) và vào ngày 25 tháng 6 năm thứ 5 niên hiệu Nguyên Lộc (元祿) thì thị tịch, hưởng thọ 62 tuổi đời và 48 hạ lạp. Trước tác của ông có Giám Cổ Lục (鑑古錄) 30 quyển, Chi Lâm Tập (芝林集) 24 quyển, Tàng Lâm Tập (藏林集) 1 quyển, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập