Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tồn Như »»
(平野國臣, Hirano Kuniomi, 1828-1864): một trong những nhân vật thuộc Phái Tôn Nhương (尊攘派) quá khích, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; thông xưng là Thứ Lang (次郎); sinh ra trong gia đình của Bình Dã Túc Kinh (平野足經) thuộc Phiên Phước Cương (福岡藩, Fukuoka-han). Ông là người thông hiểu quốc sử. Năm 1858 (An Chính [安政] 5), gia đình ông rời khỏi Phiên và lên kinh đô. Trong vụ Đại Ngục An Chính (安政の大獄), ông tạm thời lưu lạc ở các địa phương Tát Ma (薩摩, Satsuma), Phì Hậu (肥後, Higo), Hạ Quan (下關); rồi đến năm 1862 (Văn Cửu [文久] 2), ông định tạo chuyện ở vùng Bắc Cửu Châu (北九州, Kitakyūshū) thì bị bắt tống vào ngục thất, và năm sau thì ra khỏi ngục. Vào tháng 10 năm này, ông tham gia vào vụ biến loạn Sanh Dã (生屋, Ikuno), nhưng thất bại và bị bắt lần nữa; đến năm 1864, trong vụ biến loạn Cấm Môn (禁門), ông bị xử tử hình ở kinh đô.
(藤田東湖, Fujita Tōko, 1806-1855): học giả Thủy Hộ Học sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; sĩ phu của Phiên Thủy Hộ (水戸藩, Mito-han); tên là Bưu (彪); thông xưng Hổ Chi Trợ (虎之助); con của Đằng Điền U Cốc (藤田幽谷). Năm 1827 (Văn Chính [文政] 10), ông tu sửa Chương Khảo Quán (彰考館), sau đó là Tổng Tài Đại Lý (總裁代理). Nhân vấn đề của Phiên chủ kế thừa nảy sinh, ông thành công trong việc ủng lập Đức Xuyên Tề Chiêu (德川齊昭, Tokugawa Nariaki). Từ đó, ông được suy cử làm người hầu cận phụ tá bên cạnh Tướng Quân và đưa ra phương pháp cải cách nền chính trị của Phiên qua cuộc Cải Tân Thiên Bảo (天保の改新). Tuy nhiên, vào năm 1844 (Hoằng Hóa [弘化] nguyên niên), Tề Chiêu được chính quyền Mạc Phủ hạ lệnh cần phải thận trọng, nên Đông Hồ bị phạt cấm túc, không được ra ngoài. Ông là một trong những nhân vật trung tâm xác lập nền Thủy Hộ Học hậu kỳ. Ông từng kết giao với nhóm Kiều Bổn Tả Nội (橋本左內), Hoành Tỉnh Tiểu Nam (橫井小楠); và chiếm vị trí chỉ đạo cho Phái Tôn Nhương (尊攘派). Thế nhưng, trong cuộc động đất lớn xảy ra vào niên hiệu An Chính (安政), ông xả thân cứu mẹ và bị đè chết. Trước tác của ông có Chánh Khí Ca (正氣歌), Hồi Thiên Thi Sử (回天詩史), Hoằng Đạo Quán Ký Thuật Nghĩa (弘道館記述義), v.v.
(s: śirasā'bhivandate, 頂禮): tức hai đầu gối, hai cùi chỏ và đầu chạm đất, lấy đỉnh đầu lạy xuống, tiếp xúc với hai chân của đối tượng mình đảnh lễ. Khi hướng tượng Phật hành lễ thì nâng hai tay quá đầu, để khoảng trống, biểu hiện tiếp xúc với bàn chân đức Phật. Hình thức đảnh lễ này còn gọi là Đầu Đảnh Kính Lễ (頭頂禮敬, đỉnh đầu kính lạy), Đầu Diện Lễ Túc (頭面禮足, đầu mặt lạy dưới chân), Đầu Diện Lễ (頭面禮, đầu mặt lạy); đồng nghĩa với Ngũ Thể Đầu Địa (五體投地, năm vóc gieo xuống đất), Tiếp Túc Lễ (接足禮, lạy chạm chân). Hình thức này thể hiện sự sùng kính tối cao của Ấn Độ, lấy cái cao nhất của mình là đỉnh đầu, kính trọng cái thấp nhất của người khác là chân. Như trong Tán A Di Đà Phật Kệ (讚阿彌陀佛偈, Taishō Vol. 47, No. 1978) có đoạn: “Phật quang chiếu diệu tối đệ nhất, cố Phật hựu hiệu Quang Viêm Vương, Tam Đồ hắc ám mông quang khải, thị cố đảnh lễ Đại Ứng Cúng (佛光照耀最第一、故佛又號光炎王、三塗黑闇蒙光啟、是故頂禮大應供, hào quang Phật tỏa sáng bậc nhất, nên Phật có hiệu Quang Viêm Vương, Ba Đường tăm tối mong soi tỏ, cho nên kính lễ Đại Ứng Cúng).” Hay trong bài Thơ Thu Nhật Du Đông Sơn Tự Tầm Thù Đàm Nhị Pháp Sư (秋日游東山寺尋殊曇二法師) của Huệ Tuyên (慧宣, ?-?) nhà Đường lại có câu: “Tâm hoan tức đảnh lễ, đạo Tồn Nhưng mục kích (心歡卽頂禮、道存仍目擊, tâm vui tức kính lễ, đạo còn như mắt thấy).” Hoặc trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 42 có đoạn: “Tống Giang tại mã thượng dĩ thủ gia ngạch, vọng không đảnh lễ, xưng tạ thần minh tỉ hựu chi lực (宋江在馬上以手加額、望空頂禮、稱謝神明庇祐之力, Tống Giang ở trên ngựa lấy tay đưa lên trán, hướng giữa trời vái lạy, cảm tạ sức trợ giúp của thần minh).” Ngoài ra, đảnh lễ cũng thể hiện sự sùng bái, kính phục. Như trong bộ tiểu thuyết Khách Song Nhàn Thoại (客窗閒話) của Ngô Xí Xương (吳熾昌, ?-?) nhà Thanh có câu: “Sĩ đại phu thiên đảnh lễ bội phục, đại chúng vô bất thế khấp tán hoan (士大夫僉頂禮佩服、大眾無不涕泣贊歎, hàng sĩ đại phu đều sùng bái bội phục, đại chúng chẳng ai mà không rơi lệ khen ngợi vui mừng).”
(敎授): tức Giáo Thọ A Xà Lê (敎授阿闍梨), là tên gọi của một trong Tam Sư (三師), gồm Giới Sư (戒師, tức Đàn Đầu Hòa Thượng [壇頭和尚]), Yết Ma A Xà Lê (羯摩阿闍梨) và Giáo Thọ A Xà Lê. Hay là một trong 5 loại A Xà Lê, như trong Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 39 có nêu rõ là: “Hữu ngũ chủng A Xà Lê, hữu Xuất Gia A Xà Lê, Thọ Giới A Xà Lê, Giáo Thọ A Xà Lê, Thọ Kinh A Xà Lê, Y Chỉ A Xà Lê (有五種阿闍梨、有出家阿闍梨、受戒阿闍梨、敎授阿闍梨、受經阿闍梨、依止阿闍梨, có năm loại A Xà Lê, có Xuất Gia A Xà Lê, Thọ Giới A Xà Lê, Giáo Thọ A Xà Lê, Thọ Kinh A Xà Lê, Y Chỉ A Xà Lê).” Giáo Thọ A Xà Lê còn gọi là Giáo Thọ Sư (敎授師), là vị A Xà Lê (s: ācārya, p: ācariya, 阿闍梨) dạy dỗ, truyền trao cho Giới Tử oai nghi tác pháp, v.v., trong Giới Đàn. Tiểu Thừa Giới thì lấy vị thầy hiện tiền làm Giáo Thọ A Xà Lê; cùng với vị Yết Ma A Xà Lê có giới lạp phải từ 5 tuổi trở lên. Đối với Đại Thừa Viên Đốn Giới (大乘圓頓戒) thì cung thỉnh đức Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) làm vị Giáo Thọ A Xà Lê. Trong Mật Giáo, tại đàn tràng Quán Đảnh, vị hướng dẫn người thọ lễ Quán Đảnh vào trong đàn tràng, chỉ cho các nghi thức tấn thối, v.v., được gọi là Giáo Thọ A Xà Lê. Trong Thọ Bồ Tát Giới Nghi (受菩薩戒儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1085) có chỉ rõ cách cung thỉnh chư tôn như sau: “Phụng thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật tác Hòa Thượng, phụng thỉnh Văn Thù Sư Lợi Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật tác Yết Ma A Xà Lê, phụng thỉnh Đương Lai Di Lặc Tôn Phật tác Giáo Thọ A Xà Lê, phụng thỉnh Thập Phương Hiện Tại Chư Phật tác Chứng Giới Sư (奉請釋迦牟尼佛作和尚、奉請文殊師利龍種上尊王佛作羯磨阿闍梨、奉請當來彌勒尊佛作敎授阿闍梨、奉請十方現在諸佛作證戒師, cung thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật làm Hòa Thượng, cung thỉnh Văn Thù Sư Lợi Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật làm Yết Ma A Xà Lê, cung thỉnh Đương Lai Di Lặc Tôn Phật làm Giáo Thọ A Xà Lê, cung thỉnh Mười Phương Hiện Tại Chư Phật làm Chứng Giới Sư).” Trong phần Thỉnh Giáo Thọ Sư Pháp (請敎授師法) của Tăng Yết Ma (僧羯磨, Taishō Vol. 40, No. 1809) quyển Thượng có đoạn rằng: “Đại Đức nhất tâm niệm, ngã mỗ giáp, kim thỉnh Đại Đức vi Giáo Thọ A Xà Lê, nguyện Đại Đức vị ngã tác Giáo Thọ A Xà Lê, ngã y Đại Đức cố, đắc thọ Cụ Túc Giới (大德一心念、我某甲、今請大德爲敎授阿闍梨、願大德爲我作敎授阿闍梨、我依大德故、得受具足戒, Đại Đức một lòng ghi nhớ, con tên là …, nay cung thỉnh Đại Đức làm Giáo Thọ A Xà Lê, cúi mong Đại Đức vì con làm Giáo Thọ A Xà Lê, vì con nương vào Đại Đức, được thọ Cụ Túc Giới).”
(蓮如, Rennyo, 1415-1499): con đầu của Tồn Như (存如, Zonnyo) đời thứ 7 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), húy là Kiêm Thọ (兼壽), hiệu là Tín Chứng Viện (信証院). Sống trong khoảng thời kỳ Bổn Nguyện Tự đang bị suy vi và trưởng thành lên trong khổ nạn, ông đã theo cha tận lực giáo hóa ở các địa phương phía Nam vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Đến năm 1457, ông kế thừa cha mình và trở thành vị tổ đời thứ 8 của Bổn Nguyện Tự. Do vì đứng trên truyền thống của Tịnh Độ Chơn Tông mà tiến hành cải cách, nên vào năm 1471 ông bị đồ chúng của Tỷ Duệ Sơn phá tan Đại Cốc Bổn Nguyện Tự ở vùng Đại Cốc (大谷, Ōtani); khiến ông phải lánh nạn đến biệt sở phía Nam của Tam Tỉnh Tự (三井寺) vùng Đại Tân (大津), rồi xây dựng nhà riêng ở Cát Khi (吉崎, Yoshizaki) thuộc vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]) và chuyển đến đó ở. Ông đã tác thành rất nhiều văn bản, cho xuất bản các bài Hòa Tán cũng như Chánh Tín Kệ (正信偈) của Thân Loan, và tiến hành những hoạt động giáo hóa khắp nơi từ vùng Bắc Lục (北陸, Hokuriku) cho đến Đông Hải (東海, Tōkai), Đông Quốc (東國, Tōgoku) và Áo Châu (奥州, Ōshu). Tuy nhiên, do vì sự đối lập trong mối quan hệ lợi hại phát sanh giữa các môn đồ thọ nhận sự giáo hóa của ông với những lãnh chúa địa phương, nên ông lại phải rời khỏi địa phương Cát Khi và đến bố giáo ở các vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu), Hà Nội (河內, Kawauchi), Hòa Tuyền (和泉, Izumi) thuộc Osaka (大阪) ngày nay. Vào năm 1480, ông bắt đầu tái kiến Bổn Nguyện Tự ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina), mở rộng giáo hóa, cho nên người ta quy y theo phái ông nhiều hơn các phái khác. Vào độ tuổi 75, ông nhường lại mọi hậu sự cho người con trai thứ 5 là Thật Như (實如, Jitsunyo) và sống ẩn cư; nhưng sau đó ông vẫn tiếp tục bố giáo. Đến năm 1496, ông lại xây dựng nhà riêng ở vùng Thạch Sơn (石山, Ishiyama), Osaka và tiếp tục hoạt động truyền giáo cho đến 85 tuổi thì qua đời.
(日祐, Nichiyū, 1298-1374): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Hựu (日祐); hiệu Tịnh Hành Viện (淨行院), thông xưng là Đại Phụ Công (大輔公); xuất thân vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa), thuộc dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba). Ông là con nuôi của Thiên Diệp Dận Trinh (千葉胤貞), đến nhập môn xuất gia với Nhật Cao (日高) của Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) ở Trung Sơn (中山), Hạ Tổng. Vào năm 1314, sau khi Nhật Cao qua đời, ông làm trú trì đời thứ 3 của chùa này. Ông xây dựng cơ sở làm cho giáo đoàn phát triển nhờ sự hỗ trợ về mặt kinh tế của dòng họ Thiên Diệp, và mở rộng những hoạt động tôn giáo như chú thích cũng như sao chép Kinh Pháp Hoa, kiến lập các ngôi đường vũ, tham bái Thân Diên Sơn, v.v. Thêm vào đó, ông còn có công lao rất lớn trong việc thâu tập và bảo tồn những di văn của Nhật Liên. Trước tác của ông có Bổn Tôn Thánh Giáo Lục (本尊聖敎錄), Nhất Kỳ Sở Tu Thiện Căn Lý Lục (一期所修善根記錄), Vấn Đáp Can Yếu Sao (問答肝要抄), An Quốc Luận Kiến Văn (安國論見聞), Tông Thể Quyết Nghi Sao (宗体決疑抄).
(疏): còn gọi là Sớ Văn (疏文), Văn Sớ (文疏), hay Tấu Sớ (奏疏), có hai nghĩa: (1) Là văn thư của quần thần điều trần dâng lên bậc trên như đức vua, như trong Văn Thể Minh Biện (文體明辯) của Từ Sư Tằng (徐師曾, 1546-1610) nhà Minh có giải thích rằng: “Án Tấu Sớ giả, quần thần luận gián chi tổng danh dã (按奏疏者、群臣論諫之總名也, xét Sớ Tâu là tên gọi chung của các văn thư do quần thần can gián, luận nghị).” Hay như trong Tống Sử (宋史) quyển 32, Truyện Chu Trác (朱倬傳) có đề cập rằng: “Mỗi thượng sớ, triếp túc hưng lộ cáo; nhược Thượng Đế giám lâm, Tấu Sớ phàm số thập (每上疏、輒夙興露告、若上帝鑒臨、奏疏凡數十, mỗi lần dâng sớ, thường kính cẩn thưa rõ ràng; nếu Thượng Đế giáng xuống, sớ tâu thường mười phong).” Hoặc như trong bài Khiển Hứng Thi (遣興詩) của thi hào Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường cũng có câu: “Thượng sớ khất hài cốt, hoàng quan quy cố hương (上疏乞骸骨、黃冠歸故鄉, dâng sớ xin hài cốt, mũ vàng về cố hương).” Tấu Sớ còn gọi là Tấu Chương (奏章), Tấu Nghị (奏議). (2) Trong khoa nghi của Đạo Giáo cũng như Phật Giáo, Sớ Văn được dùng rất rộng rãi và phổ biến, với tư cách là văn thư thành kính dâng lên đấng tối cao, đấng chí tôn như Thần, Thánh, Phật; là chiếc cầu tiếp nối giữa cõi hữu hình với thế giới vô hình. Như trong Đạo Giáo có các bộ Linh Bảo Văn Kiểm (靈寶文檢), Tâm Hương Diệu Ngữ (心香妙語), v.v., là những thư tịch chuyên dùng cho khoa nghi Công Văn. Về phía Phật Giáo có bộ Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, CBETA No. 1252), 4 quyển, do Thạch Cổ Chủ Nhân Thích Nguyên Hiền (石鼓主人釋元賢) nhà Minh (1368-1662) biên soạn. Một số văn sớ thường dùng trong Đạo Giáo như: Nguyên Đán Khánh Hạ Văn Sớ (元旦慶賀文疏), Ngọc Hoàng Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玉皇上帝慶賀文疏), Thượng Nguyên Thiên Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (上元天官大帝慶賀文疏), Thái Thượng Lão Quân Khánh Hạ Văn Sớ (太上老君慶賀文疏), Huyền Thiên Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玄天上帝慶賀文疏), Thiên Thượng Thánh Mẫu Khánh Hạ Văn Sớ (天上聖母慶賀文疏), Trương Thiên Sư Khánh Hạ Văn Sớ (張天師慶賀文疏), Trung Nguyên Địa Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (中元地官大帝慶賀文疏), Hạ Nguyên Thủy Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (下元水官大帝慶賀文疏), Bắc Đẩu Giải Ách Văn Sớ (北斗解厄文疏), An Phụng Thần Vị Văn Sớ (安奉神位文疏), An Phụng Trị Niên Thái Tuế Văn Sớ (安奉值年太歲文疏), v.v. Linh Bảo Văn Kiểm nhấn mạnh vai trò của Sớ Văn là: “tuyên diễn đạo pháp, lợi thế chi tân lương dã (宣演道法、利世之津梁也, bờ bến để tuyên bày đạo pháp và làm lợi ích cho cuộc đời).” Từ ý nghĩa đó, Sớ được dùng rộng rãi trong Phật Giáo như là phương tiện độ sanh cần phải có đối với mọi trường hợp, như trong tác phẩm này có giới thiệu. Đặc biệt, có một loại Sớ Văn gọi là Pháp Đường Sớ (法堂疏) được dùng trong Thiền môn, là văn từ của vị Trưởng Lão Trú Trì của một tự viện nào đó, dùng để khải thỉnh khai đường thuyết pháp.
(巧如, Gyōnyo, 1376 -1440): vị Tăng của Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng thời đại Thất Đinh, vị Tổ thứ 6 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), húy là Huyền Khang (玄康), tên hồi nhỏ là Quang Đa Hạ Lữ (光多賀麿), thông xưng là Đại Nạp Ngôn (大納言), hiệu Chứng Định Các (証定閣), Xảo Như (巧如); xuất thân vùng Kyoto, con trai thứ 2 của Xước Như (綽如), vị Tổ đời thứ 5 của Bổn Nguyện Tự. Năm 1394, ông kế thế trú trì Bổn Nguyện Tự. Đến năm 1411, ông lo tổ chức lễ kỵ 150 lần của Thân Loan, rồi năm 1436 thì nhường chức lại cho người con trai đầu của ông là Tồn Như (存如, Zonnyo).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập