Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tu chí »»

(眞詮): thuyên nghĩa là làm sáng tỏ, giải thích tường tận; làm sáng tỏ từng câu văn cú của chân lý được gọi là chân thuyên; còn viết là chân thuyên (眞筌), giống như chơn đế (眞諦). Như trong Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 26 có đoạn: “Thả kim thị ngoại thân chi phù tài, khởi tề chí giáo; mạng thị nhất kỳ chi nghiệp báo, hạt đẳng chơn thuyên (且金是身外之浮財、豈齊至教、命是一期之業報、曷等眞詮, vả lại vàng là tài sản tạm bợ ngoài thân, sao sánh với lời dạy rốt ráo; mạng là nghiệp báo của một kỳ, làm gì bằng sáng tỏ chân lý).” Trong Thiền Tông Vĩnh Gia Tập (禪宗永嘉集, Taishō Vol. 48, No. 2013) lại có câu: “Năng Nhân thị hiện, ứng hóa vô phương, khai diệu điển ư Tam Thừa, sướng chân thuyên ư Bát Bộ (能仁示現、應化無方、開妙典於三乘、暢眞詮於八部, đấng Năng Nhân thị hiện, ứng hóa khắp nơi, bày điển tịch nơi Ba Thừa, diễn chân lý nơi Tám Bộ).” Hay trong Ngu Am Trí Cập Thiền Sư Ngữ Lục (愚菴智及禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1421) quyển 10, phần Trương Cư Sĩ Huyết Thư Pháp Hoa (張居士血書法華), cũng có đoạn: “Thanh Hà Trương cư sĩ, trung niên cát khí trần lụy, đốc chí Phật thừa, lịch nương sanh thập chỉ chi tiên huyết, thư Pháp Hoa thất tụ chi chơn thuyên, thị chơn tinh tấn, thị danh chơn pháp cúng dường Như Lai (清河張居士、中年割棄塵累、篤志佛乘、瀝娘生十指之鮮血、書法華七軸之眞詮、是眞精進、是名眞法供養如來, cư sĩ họ Trương ở Thanh Hà, tuổi trung niên đã dứt bỏ mọi ràng buộc cuộc đời, dốc lòng tu Phật, lấy máu tươi mười ngón tay của bà, viết chân lý của bảy cuốn kinh Pháp Hoa, đó là tinh tấn thật sự, ấy mới gọi là đúng pháp cúng dường Như Lai).” Trong bài Đại Đường Tào Khê Đệ Lục Tổ Đại Giám Thiền Sư Đệ Nhị Bi Minh (大唐曹溪第六祖大鑒禪師第二碑銘) của Lưu Vũ Tích (劉禹錫, 772-842) nhà Đường có câu: “Ngã lập chơn thuyên, yết khởi nam quốc, vô tu nhi tu, vô đắc nhi đắc (我立眞筌、揭起南國、無修而修、無得而得, ta lập chân lý, truyền bá nước nam, không tu mà tu, không đắc mà đắc).”
(九天): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho trung ương và tám phương khác của trời. Như trong Sở Từ (楚辭), thiên Ly Tao (離騷), có câu: “Chỉ cửu thiên dĩ vi chánh hề, phù duy linh tu chi cố dã (指九天以爲正兮、夫唯靈脩之故也, chỉ cửu thiên lấy làm chính chừ, cho nên phàm thần minh thấy xa được vậy).” Trong Thái Huyền (太玄), Thái Huyền Số (太玄數), của Dương Hùng (揚雄, 53 ttl.-18) nhà Hán, lại cho rằng: “Cửu thiên, nhất vi Trung Thiên, nhị vi Tiện Thiên, tam vi Tùng Thiên, tứ vi Canh Thiên, ngũ vi Túy Thiên, lục vi Quách Thiên, thất vi Giảm Thiên, bát vi Trầm Thiên, cửu vi Thành Thiên (九天、一爲中天、二爲羡天、三爲從天、四爲更天、五爲睟天、六爲廓天、七爲減天、八爲沉天、九爲成天, cửu thiên, một là Trung Thiên, hai là Tiện Thiên, ba là Tùng Thiên, bốn là Canh Thiên, năm là Túy Thiên, sáu là Quách Thiên, bảy là Giảm Thiên, tám là Trầm Thiên, chín là Thành Thiên).” Hay trong Lã Thị Xuân Thu (呂氏春秋), Phần Hữu Thỉ (有始), lại đưa ra giải thích khác về cửu thiên là phương trung ương có Quân Thiên (鈞天), phương Đông có Thương Thiên (蒼天), Đông Bắc là Biến Thiên (變天), Bắc là Huyền Thiên (玄天), Tây Bắc là U Thiên (幽天), Tây là Hạo Thiên (顥天), Tây Nam là Chu Thiên (朱天), Nam là Viêm Thiên (炎天), Đông Nam là Dương Thiên (陽天). (2) Chỉ cho nơi cao nhất trên bầu trời. Như trong Tôn Tử (孫子), Hình Thiên (形篇), có câu: “Thiện công giả, động ư cửu thiên chi thượng (善攻者、動於九天之上, người khéo đánh, có thể làm động đến tận trời cao).” Hay trong bài thơ Vọng Lô Sơn Bộc Bố (望廬山瀑布) của Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường cũng có câu: “Phi lưu trực hạ tam thiên xích, nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên (飛流直下三千尺、疑是銀河落九天, bay vù thẳng xuống ba ngàn thước, ngờ ấy Ngân Hà rụng trời cao).” (3) Chỉ cấm cung. Như trong bài thơ Hòa Cổ Xá Nhân Tảo Triều Đại Minh Cung Chi Tác (和賈舍人早朝大明宮之作) của Vương Duy (王維, 701-761) nhà Đường có câu: “Cửu thiên xương hạp khai cung điện, vạn quốc y quan bái miện lưu (九天閶闔開宮殿、萬國衣冠拜冕旒, cấm cung cửa trời bày cung điện, muôn nước áo quan vái Thượng Hoàng).”
(岱宗心泰, Daisū Shintai, 1327-1415): vị tăng của phái Dương Kì và Đại Huệ thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Đại Tông (岱宗) hay Phật Huyễn (佛幻), xuất thân vùng Thượng Ngu (上虞, Tỉnh Triết Giang), họ Tôn (孫). Năm 15 tuổi, ông theo xuất gia với Ốc Châu Đạt (沃洲達) ở Đẳng Từ Tự (等慈寺) cũng như Đồ Văn Tẩu Ái (徒聞叟愛). Sau ông đến thọ Cụ Túc giới tại Khai Nguyên Tự (開原寺) ở Quận Thành (郡城). Từ đó, ông bắt đầu đi du phương học đạo, đến an cư tại Tây Thiên Trúc Tự (西天竺寺) ở Hàng Châu (杭州), gặp được Cổ Đỉnh Tổ Minh (古鼎祖銘) ở Kính Sơn (徑山) nên theo hầu vị này suốt 10 năm. Nhân hay tin Mộng Đường Đàm Ngạc (夢堂曇噩) hiện đang ở tại Quốc Thanh Tự (國清寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山), ông bèn đến bái yết và cuối cùng được đắc pháp. Vào năm đầu (khoảng 1368) niên hiệu Hồng Võ (洪武), ông quản lý Long Tuyền Tự (龍泉寺) ở Diêu Giang (姚江), rồi đến trú trì Đông Sơn Quốc Khánh Tự (東山國慶寺) ở Thượng Ngu, cũng như Trung Thiên Trúc Tự (中天竺寺) và Kính Sơn vào năm đầu (1403) niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂). Đến năm thứ 4 (1406) cùng niên hiệu trên, ông nhận chiếu chỉ tu chỉnh bộ Vĩnh Lạc Đại Điển (永樂大典), năm sau thì trở về núi và lui về ẩn cư ở Tịch Chiếu Am (寂照庵). Vào năm thứ 9 cùng niên hiệu trên, theo lời thỉnh cầu ông lại trở về Vĩnh Lạc. Đến ngày 14 tháng 11 năm thứ 13 (1415), ông thị tịch, hưởng thọ 89 tuổi. Ông có viết bộ Phật Pháp Kim Thang Thiên (佛法金湯篇) 16 quyển vào năm thứ 24 (1391) niên hiệu Hồng Võ.
(興善惟寛, Kōzen Ikan, 755-817): xuất thân vùng Tín An (信安), Cù Châu (衢州, Tỉnh Triết Giang), họ Chúc (祝). Năm 13 tuổi, ông xuất gia rồi thọ giới Cụ Túc với Tăng Sùng (僧崇). Bên cạnh đó, ông theo học Luật và tu Chỉ Quán với Tăng Như (僧如), nhưng cuối cùng lại ngộ đạo với Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一). Vào năm thứ 6 (790) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông đến hành hóa vùng Mân Việt (閩越, Tỉnh Phúc Kiến), sau đó mở Đằng Nguyên Đạo Tràng (藤原道塲) ở Cối Kê (會稽, Tỉnh Triết Giang) và Hồi Hướng Đạo Tràng (回向道塲) ở Bà Dương (鄱陽, Tỉnh Giang Tây). Ông đã từng sống qua các chùa như Thiếu Lâm Tự (少林寺), Vệ Quốc Tự (衛國寺), Thiên Cung Tự (天宮寺), rồi đến năm thứ 4 (809) niên hiệu Nguyên Hòa (元和), ông nhận sắc chỉ trú trì Đại An Quốc Tự (大安國寺) ở Trường An (長安) và năm sau vào cung nội. Ông cũng từng lưu trú tại Hưng Thiện Tự (興善寺) ở Trường An. Môn đệ của ông có hơn ngàn người, trong đó có thi hào nổi danh Bạch Cư Dị (白居易) và đệ tử đắc pháp có 39 vị. Vào tháng chạp năm thứ 12 (817) niên hiệu Nguyên Hòa, ông thị tịch, hưởng thọ 63 tuổi đời và 39 hạ lạp, được ban cho thụy hiệu là Đại Triệt Thiền Sư (大徹禪師). Bạch Cư Dị soạn văn bia cho ông.
(摩訶止觀, Makashikan): 10 quyển, một trong 3 bộ luận lớn của Thiên Thai Tông, do Thiên Thai Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-597) giảng thuật trong mùa an cư năm 594 tại Ngọc Tuyền Tự (玉泉寺), Kinh Châu (荆州); sau đó, Chương An Quán Đảnh (章安灌頂) hiệu đính và chấp bút cho bộ này. Nội dung của nó gồm 10 chương: Đại Ý của Chỉ Quán, Thích Danh (釋名), Hiển Thể (顯体), Nhiếp Pháp (攝法), Thiên Viên (偏圓), Phương Tiện (方便), Chánh Tu (正修), Quả Báo (果報), Khởi Giáo (起敎) và Chỉ Quy (止歸). Trong chương Chánh Tu chia đối tượng của phép quán ra làm 10 loại, dùng Thập Thừa Quán Pháp và lấy việc tu tập Tam Quán Không Giả Trung làm hệ thống tư tưởng để luận bàn.
(毛際可, 1633-1708): tự là Hội Hầu (會侯), hiệu Hạc Phang (鶴舫); cuối đời lấy hiệu là Tùng Cao Lão Nhân (松皋老人); xuất thân vùng Toại An (遂安, nay thuộc Triết Giang [浙江]), đỗ Tiến Sĩ vào năm thứ 15 (1659) niên hiệu Thuận Trị (順治). Ông đã từng quan ở Phủ Chương Đức (彰德府, nay là Phố An Dương [安陽市]), Hà Nam (河南); có công trạng hiển hách, nên sau đổi làm Huyện Lịnh của Thiểm Tây (陝西). Đến năm thứ 18 (1679) đời Khang Hy, ông trúng cử Khoa Bác Học Hồng Từ (博學鴻詞科); đến năm thứ 23 (1682) thì tu chỉnh bộ Triết Giang Thông Chí (浙江通志). Ông cùng với Mao Kỳ Linh (毛奇齡), Mao Nhã Hoàng (毛稚黃) xưng là Tam Mao (三毛); và người đương thời gọi họ là Triết Trung Tam Mao (浙中三毛), Văn Trung Tam Hào (文中三豪). Vào năm thứ 47 (1707) đời Khang Hy, ông nhuốm bệnh và qua đời tại tư gia. Trước tác của ông có rất nhiều như Xuân Thu Tam Truyện Khảo Dị (春秋三傳考異) 12 quyển, Tùng Cao Văn Tập (松皋文集) 10 quyển, An Tự Đường Văn Sao (安序堂文鈔) 30 quyển, Thập Dư Thi Cảo (拾余詩稿) 4 quyển, Kiềm Du Nhật Ký (黔游日記) 1 quyển, Hội Hầu Văn Sao (會侯文鈔) 20 quyển, v.v.
(愚管抄, Gukanshō): bộ Sử Luận đầu tiên của Nhật được viết vào đầu thời đại Liêm Thương, do vị tăng của Thiên Thai Tông là Từ Viên (慈圓, Jien) trước tác, gồm 7 quyển, được thành lập vào khoảng năm 1220 (Thừa Cửu [承久] thứ 2), thời kỳ triều đình và chính quyền Mạc Phủ đang khẩn trương cao độ; ngay trước khi xảy ra vụ Loạn Thừa Cửu; và sau vụ loạn thì được tu chỉnh thêm. Đây là thư tịch giải thích về lịch sử kể từ thời Thần Võ Thiên Hoàng (神武天皇, Jimmu Tennō) cho đến Thuận Đức Thiên Hoàng (順德天皇, Juntoku Tennō, 1197-1242) qua thế giới quan Phật Giáo, và thuyết minh về sự biến thiên của chính trị Nhật Bản với tính cách triển khai về mặt đạo lý.
(五篇): 5 thiên giới luật; còn gọi là Ngũ Phạm (五犯), Ngũ Phạm Tụ (五犯聚), Ngũ Chúng Tội (五眾罪), Ngũ Chủng Chế (五種制); tức Ba La Di (s: pārājika, 波羅夷), Tăng Tàn (s: saṃghāvaśeṣa, 僧殘), Ba Dật Đề (s: pāyattika, 波逸提), Ba La Đề Đề Xá Ni (s: pratideśanīya, 波羅提提舍尼), Đột Cát La (s: duṣkṛta, 突吉羅); tổng quát 250 giới của Tỳ Kheo và 348 giới của Tỳ Kheo Ni. (1) Ba La Di, ý dịch là đoạn đầu (斷頭), là tội nặng nhất trong giới luật; người phạm tội giống như bị đứt đầu, vĩnh viễn bị đuổi ra khỏi tăng đoàn, tức 4 tội Ba La Di của Tỳ Kheo, và 8 tội Ba La Di của Tỳ Kheo Ni. (2) Tăng Tàn là tội nặng sau Ba La Di; người phạm tội giống như bị người làm cho tàn hại, chỉ còn lại cổ họng mà thôi; người phạm tội phải nhờ tăng chúng vì người ấy mà tiến hành pháp sám hối để hóa giải tội lỗi. Đó là 13 tội Tăng Tàn của Tỳ Kheo, 17 tội Tăng Tàn của Tỳ Kheo Ni. (3) Ba Dật Đề, ý dịch là đọa; nghĩa là người phạm tội này thì sẽ bị đọa vào Địa Ngục Nóng Lạnh; tức là 30 tội Xả Đọa (捨墮) và 90 tội Đơn Đọa (單墮) của Tỳ Kheo, 30 tội Xả Đọa và 178 tội Đơn Đọa của Tỳ Kheo Ni. (4) La Đề Đề Xá Ni, ý dịch là tác hướng bỉ hối (作向彼悔), nghĩa là người phạm tội này thì nên hướng vị Tỳ Kheo khác mà chí thành sám hối thì sẽ được hóa giải tội lỗi; tức là 4 tội Đề Xá Ni của Tỳ Kheo, 8 tội Đề Xá Ni của Tỳ Kheo Ni. (5) Đột Cát La, ý dịch là ác tác (惡作), nghĩa là những sai phạm do hai nghiệp thân và miệng tạo ra. Giới này khó giữ mà dễ phạm, nên thường phải thận trọng, ghi nhớ; tức là 2 pháp Bất Định, 100 Chúng Học, 7 tội Diệt Tránh của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Năm Thiên này cọng thêm tội Thâu Lan Giá (s: sthūlātyaya, 偷蘭遮), gọi là Lục Tụ (六聚). Như trong Sa Di Luật Nghi Yếu Lược Thuật Nghĩa (沙彌律儀要略述義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1119) có đoạn: “Sa Di thập chi giới tướng, thị Ngũ Thiên Tam Tụ chi cơ, nhị thập tứ môn uy nghi (沙彌十支戒相、是五篇三聚之基、二十四門威儀, mười chi giới tướng của Sa Di là cơ sở của năm thiên ba tụ, là hai mươi bốn cửa oai nghi).” Hay trong Tăng Yết Ma (僧羯磨, Taishō Vol. 40, No. 1809) lại có đoạn: “Thử Yết Ma giả, tắc thiệu long chi chánh thuật, khuông hộ chi hoằng quy, tông tự quy ư Ngũ Thiên, lạm tràng khởi ư Tứ Phần (此羯磨者、則紹隆之正術、匡護之宏規、宗緒歸於五篇、濫觴起於四分, pháp Yết Ma này, là phương thuật để phát triển, là quy tắc để hộ trì, nối dõi quy về năm thiên, đầu nguồn phát xuất nơi Tứ Phần).”
(雅範): chỉ phong độ thoát tục, phẩm cách cao thượng. Như trong bài Thù Đức Phú (酬德賦) của Tạ Thiếu (謝朓, 464-499) nhà Tề thời Nam Triều có câu: “Viên nhã phạm dĩ tự tuy, ý tiền tu chi sở úc (援雅範以自綏、懿前修之所勖, nương phong độ để tự yên, đức tu trước nên cố gắng).” Hay trong tác phẩm Quế Lâm Sương (桂林霜), phần Hoàn Trung (完忠), của Tưởng Sĩ Thuyên (蔣士銓, 1725-1784) nhà Thanh lại có câu: “Cửu ngưỡng hồng danh, hạnh chiêm nhã phạm (久仰鴻名、幸瞻雅範, lâu ngưỡng tiếng thơm, may nhìn phong cách).”
(心地): có ba nghĩa chính:
(1) Chỉ cho Giới (s: śīla, p: sīla, 戒). Giới lấy tâm làm gốc, giống như thế gian lấy đại địa làm cơ sở; nên mới gọi Giới là Tâm Địa (đất tâm). Vì vậy có Pháp Môn Tâm Địa, tức là pháp môn chuyên hình trì Giới Luật tinh nghiêm.
(2) Chỉ cho tâm của 50 vị của Bồ Tát, gồm Thập Tín (十信), Thập Trụ (十住), Thập Hạnh (十行), Thập Hồi Hướng (十回向), Thập Địa (十地). Vị Bồ Tát căn cứ vào tâm mà tu hành, nên thí dụ tâm như đất, mới có tên là Tâm Địa.
(3) Trong Thiền Tông, Bồ Đề do Tổ Sư Đạt Ma (達摩) truyền cũng được gọi là Tâm Địa. Trong Phạm Võng Bồ Tát Giới Kinh Nghĩa Sớ Phát Ẩn (梵網菩薩戒經義疏發隱, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 38, No. 679) có đoạn: “Thử Tâm Địa giới, phi thiện phi ác, nhi thật dĩ hành thiện chỉ ác vi dụng, y trì thử giới, nhiên hậu hành thiện hữu phương, chỉ ác hữu đạo (此心地戒、非善非惡、而實以行善止惡爲用、依持此戒、然後行善有方、止惡有道, giới Tâm Địa này, chẳng thiện chẳng ác, mà thật ra lấy công dụng của việc làm điều thiện dừng việc ác, nương vào việc giữ giới này, sau đó làm điều thiện mới có hướng, dừng việc ác mới có đường).” Hay trong Nguyên Tẩu Hành Đoan Thiền Sư Ngữ Lục (元叟行端禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1419) có câu: “Tham Thiền chỉ yếu liễu Tâm Địa, Tâm Địa liễu thời chư pháp không (參禪只要了心地、心地了時諸法空, Tham Thiền chỉ cần rõ Tâm Địa, Tâm Địa rõ rồi các pháp không).” Hoặc trong Cẩm Giang Thiền Đăng (錦江禪燈, q.1, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1590) có đoạn rằng: “Nguyên giả thị chúng sanh bản giác chơn tánh, diệc danh Phật tánh, diệc danh Tâm Địa; ngộ chi danh Tuệ, tu chi danh Định, Định Tuệ thông danh vi Thiền, cố vân Thiền nguyên, diệc danh Thiền Na (源者是一切眾生本覺眞性、亦名佛性、亦名心地、悟之名慧、修之名定、定慧通名爲禪、此性是禪之本源、故云禪源、亦名禪那, đầu nguồn là chơn tánh bản giác của chúng sanh, cũng gọi là Phật pháp, cũng gọi là Tâm Địa; ngộ thì gọi là Tuệ, tu tập thì gọi là Định, tên chung của Định Tuệ là Thiền, tánh này là nguồn gốc của Thiền, nên gọi là nguồn Thiền, cũng gọi là Thiền Na).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập