Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tứ Châu »»
(安廩[凜], Anhin, 507-583): vị tăng sống dưới thời Nam Triều, xuất thân vùng Lợi Thành (利成), Giang Âm (江陰, thuộc Giang Tô [江蘇]), họ Tần (秦), lúc còn nhỏ đã thông minh hiếu học, có hiếu với song thân. Năm 25 tuổi, ông xuất gia, theo Dung Công (容公) ở Quang Dung Tự (光融寺) vùng Tư Châu (司州) học tập kinh luận và thường nghe Huệ Quang (慧光) ở Thiếu Lâm Tự (少林寺) thuyết giảng về Thập Địa Kinh Luận (十地經論), thọ lãnh yếu chỉ Thiền pháp và ngộ được huyền chỉ. Trong thời gian sống ở đất Ngụy 12 năm, ông chuyên tâm tuyên giảng Tứ Phần Luật (四分律) cùng các kinh luận Đại Thừa khác số lượng người đến tham học ngày càng đông. Vào năm đầu (547) niên hiệu Thái Thanh (太清) nhà Lương, ông cùng với môn nhân đến Dương Đô (楊都), vua Võ Đế cung tiếp hậu hỷ, ban sắc chỉ trú trì Thiên An Tự (天安寺); nhân đó ông tuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm tại đây. Vào năm đầu (557) niên hiệu Vĩnh Định (永定), ông vâng sắc chỉ vào trong nội điện thuyết giảng giới luật, khai pháp tại Kỳ Xà Tự (耆闍寺), giảng diễn không hề mệt mỏi. Sau đó, ông vâng mệnh vua Văn Đế khai giảng Đại Tập Kinh (大集經) tại Chiêu Đức Điện (昭德殿). Đến thời vua Tuyên Đế, ông cũng từng thuyết giảng tại Hoa Lâm Viên (華林園). Vào năm đầu niên hiệu Chí Đức (至德) nhà Trần, ông thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi.
(大隨法眞, Daizui Hōshin, 834-919): xuất thân Huyện Diêm Đình (塩亭), Tử Châu (梓州, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Vương (王). Ông xuất gia ở Huệ Nghĩa Tự (慧義寺, tức Trúc Lâm Viện [竹林院], Hộ Thánh Tự [護聖寺]), rồi đi vân du lên phương Nam, đến Dược Sơn (藥山) và tham yết một số Thiền tượng như Đạo Ngô Viên Trí (道吾圓智), Vân Nham Đàm Thịnh (雲巖曇晟), Động Sơn Lương Giới (洞山良价), Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐). Đặc biệt, ông theo hầu hạ Quy Sơn, tu hành khắc khổ, cuối cùng ngộ đạo. Sau ông lại kế thừa dòng pháp của Trường Khánh Đại An (長慶大安), và trở về nước Thục, rồi đến trú tại Đại Tùy Sơn trong vòng hơn 10 năm, thân thiết chỉ đạo cho học giả đến tham Thiền. Trước năm ông qua đời, ông được Hoàng Đế nước Thục ban tặng cho Tử Y và hiệu là Thần Chiếu Đại Sư (神照大師). Vào ngày 15 tháng 7 năm đầu (919) niên hiệu Càn Đức (乾德) nhà Thục, ông ngồi ngay ngắn thị tịch, hưởng thọ 86 tuổi đời và 66 hạ lạp. Cuốn Đại Tùy Khai Sơn Thần Chiếu Thiền Sư Ngữ Lục (大隨開山神照禪師語錄) 1 quyển, vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay.
(s: naraka, niraya, p: niraya, 地獄): âm dịch là Nại Lạc Ca (捺落迦), Na Lạc Ca (那落迦), Nại Lạc (奈落), Nê Lê Da (泥犁耶), Nê Lê (泥犁); ý dịch là Bất Lạc (不樂), Khả Yếm (可厭), Khổ Cụ (苦具), Khổ Khí (苦器), Vô Hữu (無有); là một trong Ngũ Thú (五趣), Lục Thú (六趣), Ngũ Đạo (五道), Lục Đạo (六道), Thất Hữu (七有), Thập Giới (十界); cho nên có tên gọi là Địa Ngục Đạo (地獄道), Địa Ngục Thú (地獄趣), Địa Ngục Hữu (地獄有), Địa Ngục Giới (地獄界). Địa Ngục hay Âm Gian (陰間) được con người xem như là địa phương nơi linh hồn người chết sẽ trở về sau khi từ giã cõi đời này. Quan niệm về Địa Ngục phân bố thế giới rộng hay hẹp tùy theo quan niệm tín ngưỡng của mỗi tôn giác khác nhau. Theo Phật Giáo, Địa Ngục được chia thành như sau: (1) Tám Địa Ngục Lớn, còn gọi là Tám Địa Ngục Nóng (八熱地獄, Bát Nhiệt Địa Ngục), gồm: Đẳng Hoạt (s: sañjīva, 等活), Hắc Thằng (s: kālasūtra, 黒繩), Chúng Hợp (s: saṅghāta, 眾合), Khiếu Hoán (s: raurava, 叫喚, hay Hiệu Khiếu [號叫]), Địa Khiếu Hoán (s: mahāraurava, 大叫喚, hay Đại Khiếu [大叫]), Tiêu Nhiệt (s: tapana, 焦熱, hay Viêm Nhiệt [炎熱]), Đại Tiêu Nhiệt (s: pratapana, 大焦熱), A Tỳ (s: avīci, 阿鼻, hay Vô Gián [無間], A Tỳ Chỉ [阿鼻旨], Bát Vạn [八萬]). (2) Tám Địa Ngục Lạnh (八寒地獄, Bát Hàn Địa Ngục), gồm: Át Bộ Đà (s: arbuda, 頞部陀), Ni Lạt Bộ Đà (s: nirarbuda, 尼剌部陀), Át Chiết Tra (s: aṭaṭa, 頞哳吒, hay A Tra Tra [阿吒吒]), Hoắc Hoắc Bà (s: hahava, 臛臛婆, hay A Ba Ba [阿波波]), Hổ Hổ Bà (s: huhuva, 虎虎婆), Miệt Bát La (s: utpala, 嗢鉢羅), Bát Đặc Ma (s: padma, 鉢特摩), Ma Ha Bát Đặc Ma (s: mahāpadma, 摩訶鉢特摩). Ngoài ra, trong Tám Địa Ngục Lớn ấy, mỗi Địa Ngục đều có 16 Địa Ngục quyến thuộc (tức 16 Địa Ngục nhỏ), hợp cả Địa Ngục lớn và nhỏ lại, tổng cọng có 136 Địa Ngục. Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (觀佛三昧海經) quyển 5 có nêu rõ 18 loại Địa Ngục nhỏ như 18 Địa Ngục Lạnh (十八寒地獄, Thập Bát Hàn Địa Ngục), 18 Địa Ngục Tối Tăm (十八黑闇地獄, Thập Bát Hắc Ám Địa Ngục), 18 Địa Ngục Nóng Ít (十八小熱地獄, Thập Bát Tiểu Nhiệt Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vòng Tròn Đao (十八刀輪地獄, Thập Bát Đao Luân Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vòng Tròn Kiếm (十八劍輪地獄, Thập Bát Kiếm Luân Địa Ngục), 18 Địa Ngục Xe Lửa (十八火車地獄, Thập Bát Hỏa Xa Địa Ngục), 18 Địa Ngục Phân Sôi (十八沸屎地獄, Thập Bát Phí Thỉ Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vạc Nước Sôi (十八鑊湯地獄, Thập Bát Hoạch Thang Địa Ngục), 18 Địa Ngục Sông Tro (十八灰河地獄, Thập Bát Hôi Hà Địa Ngục), 18 Địa Ngục Đá Nhọn (十八尖石地獄, Thập Bát Tiêm Thạch Địa Ngục), 18 Địa Ngục Hang Thép (十八鐵窟地獄, Thập Bát Thiết Quật Địa Ngục), 18 Địa Ngục Uống Nước Đồng (十八飲銅地獄, Thập Bát Ẩm Đồng Địa Ngục), v.v. Có 5 ý nghĩa về từ Vô Gián: (1) Thú Quả Vô Gián (趣果無間, chiêu thọ nghiệp quả không qua đời khác, tức báo ứng ngay đời này); (2) Thọ Khổ Vô Gián (受苦無間, chịu khổ không gián đoạn); (3) Thời Vô Gián (時無間, trong một kiếp, chịu khổ báo không gián đoạn); (4) Mạng Vô Gián (命無間, thọ mạng chịu khổ liên tục, không gián đoạn); (5) Hình Vô Gián (形無間, thân hình của chúng sanh và sự lớn nhỏ của Địa Ngục tương đồng mà không có kẻ hở). Do chúng sanh tạo các loại nghiệp nhân bất đồng, mỗi loại Địa Ngục chiêu cảm quả báo bất đồng. Về vị trí của Địa Ngục, có 3 thuyết khác nhau: (1) Theo Trường A Hàm Kinh (長阿含經) quyển 19, Đại Lâu Thán Kinh (大樓炭經) quyển 2, Phẩm Nê Lê (泥犁品), Địa Ngục nằm chung quanh biển lớn, trong khoảng giữa của Đại Kim Cang Sơn và Đại Kim Cang Sơn thứ hai. (2) Theo Lập Thế A Tỳ Đàm Luận (立世阿毘曇論) quyển 1, Địa Động Phẩm (地動品), Địa Ngục nằm ngoài Thiết Vi Sơn (s: Cakravāḍa-parvata, p: Cakkavāḷa-pabbata, 鐵圍山), chỗ hẹp nhất là 80.000 do tuần; chỗ rộng nhất là 160.000 do tuần. (3) Theo Đại Tỳ Bà Sa Luận (大毘婆沙論) quyển 172, Câu Xá Luận (具舍論) quyển 11, v.v., Vô Gián Địa Ngục nằm cách khoảng 20.000 do tuần dưới Nam Thiệm Bộ Châu (s: Jampudīpa, 南贍部洲); các Địa Ngục khác nằm chồng chất lên nhau theo thứ tự, hay nằm một bên. Hơn nữa, còn có Cô Địa Ngục (孤地獄), Biên Địa Ngục (邊地獄), không lệ thuộc vào các Địa Ngục lớn nhỏ bên trên, hoặc nằm trong Tứ Châu (s: catvāro dvīpāḥ, p: cattāro dīpā, 四洲), bên sông núi, hay dưới lòng đất, trên không, v.v. Trong Di Sơn Nhiên Thiền Sư Phát Nguyện Văn (怡山然禪師發願文) của Truy Môn Cảnh Huấn (緇門警訓, Taishō No. 2023) quyển 6 có đoạn rằng: “Nê Lê khổ thú, Ngạ Quỷ đạo trung; hoặc phóng đại quang minh, hoặc kiến chư thần biến, kỳ hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã danh, giai phát Bồ Đề tâm, vĩnh xuất luân hồi khổ (泥犁苦趣餓鬼道中、或放大光明、或見諸神變、其有見我相、乃至聞我名、皆發菩提心、永出輪迴苦, Địa Ngục nẻo khổ, Quỷ Đói đường trong; hoặc phóng ánh quang minh, hoặc thấy các thần biến, nếu có thấy tướng ta, cho đến nghe tên ta, đều phát Bồ Đề tâm, mãi ra luân hồi khổ).” Hay trong Thiện Huệ Đại Sĩ Lục (善慧大士錄, CBETA No. 1335) quyển 3, phần Đệ Tứ Chương Minh Tướng Hư Dung (第四章明無相虛融) lại có câu: “Như Lai Pháp Thân vô biệt xứ, phổ thông Tam Giới khổ Nê Lê, Tam Giới Nê Lê bổn phi hữu, vi diệu thùy phục đắc tri hề (如來法身無別處。普通三界苦泥犁。三界泥犁本非有。微玅誰復得知蹊, Như Lai Pháp Thân đâu chốn khác, thông cùng Ba Cõi khổ Nê Lê, Ba Cõi Nê Lê vốn không có, vi diệu ai lại biết nẻo về).” Hoặc như trong Vĩnh Bình Điển Tòa Giáo Huấn (永平典座敎訓) có đoạn: “Ngã nhược sanh Địa Ngục Ngạ Quỷ Súc Sanh Tu La đẳng chi thú, hựu sanh tự dư chi Bát Nạn thú, tuy hữu cầu tăng lực chi phú thân, thủ tự bất khả tác cúng dường Tam Bảo chi tịnh thực (我若生地獄餓鬼畜生修羅等之趣、又生自餘之八難趣、雖有求僧力之覆身、手自不可作供養三寶之淨食, ta nếu sanh vào các đường Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Tu La, hay sanh vào các đường Tám Nạn khác, tuy có cầu năng lực chư tăng che chở thân, nhưng tay không thể tự mình lấy thức ăn thanh tịnh cúng dường Tam Bảo).”
(華亭德誠, Katei Tokusei, ?-?): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, môn hạ dòng Thanh Nguyên, không rõ xuất xứ ở đâu. Ông theo hầu Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼) trong vòng 30 năm rồi kế thừa dòng pháp của vị này. Sau đó, ông đến vùng Hoa Đình (華亭), Tú Châu (秀州, Tỉnh Triết Giang), sống bằng một chiếc thuyền con, hằng ngày đưa người qua sông và tùy duyên thuyết pháp hóa độ. Người đương thời gọi ông là Thuyền Tử Hòa Thượng (船子和尚). Ông truyền pháp lại cho Giáp Sơn Thiện Hội (夾山善會) rồi tự mình phiêu lãng với con thuyền và biến mất trong sương khói.
(環溪惟一, Kankei Iichi, 1202-1281): vị tăng của Phái Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Hoàn Khê (環溪), xuất thân vùng Ngu Trì (愚池), Tư Châu (資州, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Cổ (賈). Lúc nhỏ ông theo tham học với Giác Khai (覺開) ở Phạn Nghiệp Tự (梵業寺) trong làng. Năm lên 12 tuổi, ông vấn đáp với Trương Hưởng Tuyền (張享泉), rồi sau đó xuống tóc xuất gia. Năm 22 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới ở Cam Lồ Tự (甘露寺) trên Thành Đô (城都, Tỉnh Tứ Xuyên). Sau đó, ông đi tham vấn khắp nơi, cuối cùng đến học với Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範) ở Dục Vương Sơn (育王山); khi Sư Phạm chuyển đến Kính Sơn (徑山) thì ông theo hầu thầy. Ngoài ra, ông còn tham học với Si Tuyệt Đạo Xung (癡絕道沖) ở Kim Lăng (金陵, Tỉnh Giang Tô), nhưng 2 năm sau thì trở về lại Kính Sơn và kế thừa dòng pháp của Sư Phạm. Vào năm thứ 6 (1246) niên hiệu Thuần Hựu (淳祐), ông bắt đầu khai mở đạo tràng tuyên dương giáo pháp tại Thoại Nham Tự (瑞巖寺) thuộc Phủ Kiến Ninh (建寧府, Tỉnh Phúc Kiến). Về sau, ông còn sống qua một số nơi khác như Huệ Lực Tự (慧力寺) ở Lâm Giang Quân (臨江軍, Tỉnh Giang Tây), Bảo Phong Tự (寳峰寺) và Hoàng Long Sơn Sùng Ân Tự (黃龍山崇恩寺) ở Lặc Đàm (泐潭) thuộc Phủ Giáng Hưng (降興府, Tỉnh Giang Tây), Tư Thánh Tự (資聖寺) ở Kiến Xương Quân (建昌軍, Tỉnh Giang Tây), Báo Ân Quang Hiếu Tự (報恩光孝寺) ở Hoàng Bá Sơn (黃檗山) thuộc Thoại Châu (瑞州, Tỉnh Giang Tây), Thái Bình Hưng Quốc Tự (太平興國寺) ở Ngưỡng Sơn (仰山) thuộc Viên Châu (袁州, Tỉnh Giang Tây), Tuyết Phong Sơn Tư Thánh Tự (雪峰山資聖寺) ở Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), và Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức Tự (天童山景德寺) ở Phủ Khánh Nguyên (慶元府, Tỉnh Triết Giang). Vào ngày mồng 4 tháng 9 năm thứ 18 niên hiệu Chí Nguyên (至元), ông thị tịch, hưởng thọ 80 tuổi đời và 60 hạ lạp. Trước tác của ông có Hoàn Khê Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (環溪惟一禪師語錄) 2 quyển.
(宏智正覺, Wanshi Shōgaku, 1091-1157): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, xuất thân vùng Thấp Châu (隰州, Tỉnh Sơn Tây), họ là Lý (李). Năm lên 12 tuổi, ông theo xuất gia với Bổn Tông (本宗) ở Tịnh Minh Tự (淨明寺), đến năm 14 tuổi thì thọ Cụ Túc giới với Trí Quỳnh (智瓊) ở Từ Vân Tự (慈雲寺) vùng Tấn Châu (晋州, Lâm Phần, Tỉnh Sơn Tây). Vào năm 18 tuổi, ông có chí muốn đi tham vấn chư tôn túc khắp nơi, nên trước tiên ông lên Hương Sơn Tự (香山寺) ở Nhữ Châu (汝州, Huyện Lâm An, Tỉnh Hà Nam), viếng thăm Khô Mộc Pháp Thành (枯木法成), sau đó ông đến tham học với Tử Thuần (子淳) ở Đơn Hà Sơn (丹霞山, Tỉnh Hà Nam). Ông theo hầu Tử Thuần khi vị này lui về ẩn cư ở Đại Thừa Sơn (大乘山) thuộc Đường Châu (唐州, Bí Dương, Tỉnh Hà Nam), cũng như khi theo thầy ông đến Đại Hồng Sơn (大洪山) ở Tùy Châu (隨州, Tỉnh Hồ Bắc). Đến năm 31 tuổi, vào năm thứ 3 (1121) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), ông được cử làm chức Thủ Tòa (首座), rồi năm sau thì đến trú trì Phổ Chiếu Tự (普照寺) ở Tứ Châu (泗州, Tỉnh An Huy) và kế thừa dòng pháp của Tử Thuần. Vào năm đầu (1127) niên hiệu Kiến Viêm (建炎), ông chuyển đến sống tại Thái Bình Tự (太平寺) thuộc vùng Thư Châu (舒州, Tỉnh An Huy), rồi Vân Cư Sơn (雲居山, Tỉnh Giang Tây), và thỉnh thoảng ông có khai mở đạo tràng thuyết giảng tại Trường Lô Sơn (長蘆山, Tỉnh Giang Tô). Sau đó, ông được cung thỉnh đến trú trì Thiên Đồng Sơn (天童山, Tỉnh Triết Giang). Lúc bấy giờ trên Thiên Đồng Sơn rất nghèo túng, nhà cửa chật hẹp, nhưng kể từ khi ông lên trú trì về sau thì thóc lúa đầy kho, ngôi già lam cũng được hoàn chỉnh trang nghiêm, đặc biệt ngôi Đại Pháp Đường được chỉnh trang đúng với thanh quy Thiền môn. Ông đã sống nơi đây trong vòng 30 năm, chuyên tâm nhiếp hóa đồ chúng, được xem như là vị tổ thời Trung Hưng của Thiên Đồng Sơn. Tông phong đương thời bị hủ bại do vì gặp thời loạn lạc cuối nhà Tống, nên ông đả kích điều này và cử xướng tông phong chánh truyền. Chính hoạt động của ông đã được mọi người công nhận và hình thức tọa Thiền cũng như mặc chiếu là chỉ tiêu Thiền phong của ông, cho nên người ta thường gọi đó là Mặc Chiếu Thiền (黙照禪) hay Hoằng Trí Thiền (宏智禪). Bên cạnh đó, văn từ của ông rất xảo diệu, sánh ngang hàng với Tuyết Đậu (雪竇); ông cùng với Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) của Lâm Tế Tông được gọi là Nhị Đại Cam Lồ Môn. Vào ngày mồng 7 tháng 10 năm thứ 27 (1157) niên hiệu Thiệu Hưng (紹興), ông thị tịch, hưởng thọ 67 tuổi đời và 56 hạ lạp. Vua Cao Tông ban tặng cho ông thụy hiệu Hoằng Trí Thiền Sư (宏智禪師). Một số trước tác ông để lại như Hoằng Trí Giác Hòa Thượng Ngữ Yếu (宏智覺和尚語要) 1 quyển, Hoằng Trí Giác Thiền Sư Ngữ Lục (宏智覺禪師語錄) 4 quyển, Hoằng Trí Quảng Lục (宏智廣錄) 9 quyển; ngoài ra còn có Thiên Đồng Bách Tắc Tụng Cổ (天童百則頌古) rất nổi tiếng.
(繼起弘儲, Keiki Kōcho, 1605-1672): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, tự là Kế Khởi (繼起), hiệu Thối Ông (退翁), xuất thân Thông Châu (通州), Giang Nam (江南, Tỉnh Giang Tô), họ Lý (李). Năm 25 tuổi, ông xuống tóc xuất gia với Hán Nguyệt Pháp Tạng (漢月法藏). Khi Pháp Tạng khai đường giáo hóa ở An Ổn Tự (安穏寺), Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), ông triệt để khai ngộ được vấn đề muôn kiếp lâu xa vẫn chưa sáng tỏ, nên ở lại hầu thầy được 3 năm và cuối cùng được phó chúc đại pháp. Từ đó trở đi, ông bắt đầu hoạt động giáo hóa tại Tường Phủ Tự (祥府寺), Phu Tiêu (夫椒), Thường Châu (常州, Tỉnh Giang Tô), rồi đến trú trì Thiên Thai Sơn Quốc Thanh Tự (天台山國清寺). Sau đó, ông cũng từng sống qua một số ngôi danh sát khác như Linh Nham Sơn Sùng Báo Tự (靈巖山崇報寺), Nghiêu Phong Bảo Vân Tự (堯封寳雲寺), Hổ Kheo Sơn Vân Nham Tự (虎丘山雲巖寺) ở Tô Châu (蘇州, Tỉnh Giang Tô), Kim Túc Quảng Huệ Tự (金粟廣慧寺) ở Tú Châu (秀州, Tỉnh Triết Giang), Phước Nghiêm Tự (福嚴寺) ở Nam Nhạc (南岳), Hành Châu (衡州, Tỉnh Hồ Nam), Hoa Dược Tự (花藥寺), Cao Phong Lý Sơn Tự (高峰理山寺), Đông Nham Tự (東巖寺) ở Võ Xương (武昌, Tỉnh Hồ Bắc), Đại Biệt Sơn Hưng Quốc Tự (大別山興國寺) ở Hán Dương (漢陽, Tỉnh Hồ Bắc), v.v. Đến ngày 27 tháng 9 năm thứ 11 (1672) niên hiệu Khang Hy (康熙), ông thị tịch, hưởng thọ 68 tuổi. Tháp của ông được an trí tại Nghiêu Phong Sơn (堯峰山) với tên gọi là Đại Quang Minh Tàng (大光明藏). Pháp từ của ông có hơn 70 người và trước tác cũng khá nhiều, đuợc lưu hành trên đời như Thối Ông Hoằng Trữ Thiền Sư Quảng Lục (退翁弘儲禪師廣錄) 60 quyển, Thối Ông Hoằng Trữ Thiền Sư Dư Lục (退翁弘儲禪師餘錄) 30 quyển, Giáp Thìn Lục (甲辰錄), Thọ Tuyền Tập (樹泉集), Báo Từ Lục (報慈錄), mỗi thứ 10 quyển. Hiện tồn có Nam Nhạc Kế Khởi Hòa Thượng Ngữ Lục (南嶽繼起和尚語錄) 10 quyển, Nam Nhạc Đơn Truyền Ký (南嶽單傳記) 5 quyển, Nam Nhạc Lặc Cổ (南嶽勒古) 1 quyển, Linh Nham Ký Lược (靈巖記略) 1 quyển.
(馬祖道一, Baso Dōitsu, 709-788): vị Thiền tăng thuộc môn hạ của Nam Nhạc, họ Mã (馬), người vùng Thập Phương (什邡), Hán Châu (漢州, Tỉnh Tứ Xuyên). Khi vừa mới sanh ra ông đã có những dị tánh khác người, lưỡi kéo dài lên đến mũi. Mới lên 9 tuổi mà ông đã thông làu kinh luận, nên được đưa vào La Hán Tự (羅漢寺) trong làng để tu, sau xuất gia với Xử Tịch (處寂) ở Tư Châu (資州, thuộc Tỉnh Tứ Xuyên ngày nay), và thọ cụ túc giới với Viên Luật Sư (圓律師) ở Du Châu (渝州, thuộc Tỉnh Tứ Xuyên ngày nay). Sau đó ông trãi qua cuộc sống sơn cư tu hành tại Trường Tùng Sơn (長松山) vùng Ích Châu (益州, Tỉnh Tứ Xuyên) cũng như Minh Nguyệt Sơn (明月山) vùng Kinh Nam (荆南, Tỉnh Hồ Bắc). Ông nghe có Hoài Nhượng (懷讓), môn hạ của Lục Tổ Huệ Năng (慧能), đang tu hành tại Nam Nhạc (南岳, Tỉnh Hồ Nam), nên ông đến bái kiến, nghe được câu chuyện “Nam Nhạc Ma Chuyên (南嶽磨磚, Nam Nhạc Mài Ngói)” thì hoát nhiên đại ngộ, đạt được tâm ấn. Vào khoảng niên hiệu Thiên Bảo (天寶) nguyên niên (742), ông bắt đầu khai mở đạo tràng giáo hóa tại Phật Tích Nham (佛跡巖) vùng Kiến Dương (建陽, thuộc Tỉnh Phúc Kiến ngày nay); rồi ông đến sống qua các nơi như Tân Khai Tự (新開寺) bên bờ bắc Hồ Bà Dương (鄱陽湖) vùng Nam Khang (南康, thuộc Tỉnh Giang Tây ngày nay), Tây Lí Sơn (西裏山) vùng Phủ Châu (撫州, thuộc Tỉnh Giang Tây ngày nay), Cung Công Sơn (龔公山) vùng Kiền Châu (虔州, thuộc Tỉnh Giang Tây ngày nay). Vào năm thứ 4 (769) niên hiệu Đại Lịch (大曆), ông trú tại Khai Nguyên Tự (開元寺, có thuyết cho là Hựu Thanh Tự [佑清寺]) vùng Chung Lăng (鍾陵, thuộc Tỉnh Giang Tây ngày nay), và nổ lực cử xướng Thiền phong của mình tại đây. Đến cuối đời, ông đến trú tại Bảo Phong Tự (寳峰寺) thuộc Thạch Môn Sơn (石門山) vùng Lặc Đàm (泐潭), và xem như đó là nơi cuối cùng của đời mình. Vào ngày mồng 1 tháng 2 năm thứ 4 niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông thị tịch, hưởng thọ 80 tuổi đời. Môn nhân của ông là Quyền Đức Dư (權德輿) soạn ra bài tựa văn bia Đường Cố Hồng Châu Khai Nguyên Tự Thạch Môn Đạo Nhất Thiền Sư Tháp Minh Tinh Tự (唐故洪州開元寺石山道一禪師塔銘幷序), và dựng tháp cho Mã Tổ tại Thạch Môn Sơn. Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806-820), ông được vua Hiến Tông (憲宗) ban cho thụy hiệu là Đại Tịch Thiền Sư (大寂禪師). Trước tác Mã Tổ Thiền Sư Ngữ Lục (馬祖禪師語錄, 1 quyển) hiện còn lưu hành. Vì ông giáo hóa chủ yếu vùng Giang Tây (江西) làm trung tâm, nên ông cùng với Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷) ở Hồ Nam (湖南) được xem như là cặp song bích của Thiền giới đương thời. Thiền phong của ông lấy tư tưởng “bình thường tâm thị đạo”, “tức tâm thị Phật” làm tiêu chỉ, là Thiền của đại cơ đại dụng, không y cứ vào bất cứ kinh điển hay quán tâm nào cả. Hơn 130 nhân vật kiệt xuất ra đời từ môn phong của ông như Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海), Tây Đường Trí Tàng (西堂智藏), Nam Đường Phổ Nguyện (南堂普願), Diêm Quan Tề An (塩官齊安), Đại Mai Pháp Thường (大梅法常), Quy Tông Trí Thường (歸宗智常), Phần Châu Vô Nghiệp (汾州無業), v.v., và chính họ đã làm cho môn phong Nam Nhạc độc bá thiên hạ.
(二十五有): tức 25 cảnh giới trong đó chúng sanh tồn tại, gồm Tứ Thú (四趣) là Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄), Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼), Súc Sanh (s: tiryagyoni, p: tiracchānayoni, 畜生), A Tu La (s: asura, 阿修羅); Tứ Châu (s: catvāro dvīpāḥ, p: cattāro dīpā, 四洲) là Đông Thắng Thân Châu (s: Pūrva-videha, 東勝身洲, tức Đông Phất Bà Đề [東弗婆提]), Nam Thiệm Bộ Châu (s: Jampudīpa, 南贍部洲, tức Nam Diêm Phù Đề [南閻浮提]), Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲, tức Tây Cù Da Ni [西瞿耶尼]), Bắc Cu Lô Châu (s: Uttara-kuru, 北倶盧洲, tức Bắc Uất Đơn Việt [北鬱單越]); Tứ Thiên Vương Thiên (s: Cāturṁahārājakāyika, 四天王天), Tam Thập Tam Thiên (s: Trayastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 三十三天), Diệm Ma Thiên (s: Yāma, 焰摩天), Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Paranirmita-vaśa-vartin, 他化自在天), Sơ Thiền Thiên (初禪天), Đại Phạm Thiên (s: Mahābrahmā, 大梵天), Nhị Thiền Thiên (二禪天), Tam Thiền Thiên (三禪天), Tứ Thiền Thiên (四禪天), Vô Tưởng Thiên (s: Avṛha, 無想天), A Na Hàm Thiên (阿那含天), và 4 cõi Không Xứ Thiên (空處天).
(焚香): đốt hương, xông hương, đốt nhang. Tại Trung Quốc, từ xưa đến nay, từ trong cung đình cho đến ngoài dân gian, đều có tập tục đốt hương để làm cho không khí thanh tịnh, đốt hương đàn cầm, hay đốt hương ngâm thơ, tĩnh tọa, v.v. Hai bên phải trái của bệ trước Thái Hòa Điện (太和殿) nhà Thanh có đặt 4 cái ghế cao gọi là Hương Kỷ (香幾), mỗi ghế an trí Lò Hương 3 chân. Khi Hoàng Đế lên điện, thường đốt Đàn Hương (檀香) ở trong lò, đem đặt trong Kim Loan Điện (金鑾殿); khói hương nghi ngút bay vờn chung quanh, khí thơm tỏa ngát bốn phương, khiến cho tinh thần con người phấn chấn lên. Thời xưa, khi chơi đàn cầm, Gia Cát Khổng Minh (諸葛孔明, 181-234) không chỉ có đồng tử hầu hạ hai bên, mà còn thường đặt hương án, đốt hương để tạo thêm cảm hứng. Các văn sĩ, thục nữ thời cổ đại, khi chơi đàn cũng có thói quen đốt hương, tạo thêm không khí u tĩnh, thanh thoát, phong nhã. Lục Du (陸游, 1125-1210), thi nhân ái quốc thời Nam Triều, mỗi khi đọc sách thường có xông hương. Như trong bài Hà Trung Nhàn Hộ Chung Nhật Ngẫu Đắc Tuyệt Cú (假中閒戶終日偶得絕句), ông có diễn tả cảm hứng rằng: “Thặng hỷ kim triêu tịch vô sự, phần hương nhàn khán ngọc khê thi (剩喜今朝寂無事、焚香閒看玉溪詩, vui quá sáng nay lặng vô sự, đốt hương nhàn ngắm khe ngọc thơ).” Cũng vậy, Tô Đông Pha (蘇東坡, 1037-1101), đại văn hào nhà Bắc Tống, lại thường đốt hương tĩnh tọa và tu tâm dưỡng tánh. Trên đường đến nhậm chức ở Đam Châu (儋州), Hải Nam (海南), ông có mua hơn 10 cân Đàn Hương, sau đó lập nên xe gọi là Tức Hiên (息軒), và tương truyền rằng ông thường xông hương tĩnh tọa trong xe đó. Cho nên, ông bảo rằng: “Vô sự thử tĩnh tọa, nhất nhật thị lưỡng nhật, nhược hoạt thất thập niên, tiện thị bách tứ thập (無事此靜坐、一日是兩日、若活七十年、便是百四十, vô sự ngồi yên lắng, một ngày là hai ngày, nếu sống bảy mươi năm, tức trăm bốn mươi tuổi).” Ngay như Tề Bạch Thạch (齊白石, 1864-1957), họa sĩ trứ danh hiện đại của Trung Quốc, cũng rất tôn kính tác dụng thần kỳ của việc xông hương vẽ tranh. Trong bài thơ Đông Đáo Kim Hoa Sơn Quán (冬到金華山觀) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường có câu rằng: “Phần hương ngọc nữ quỳ, vụ lí tiên nhân lai (焚香玉女跪、霧裏仙人來, đốt hương ngọc nữ quỳ, sương mù tiên nhân đến).” Sách Hiền Kỷ Tập (賢己集) của Lý Tướng (李相) cho rằng khởi đầu của việc đốt hương là từ Phật Đồ Trừng (佛圖澄, 232-348). Như trong Cao Tăng Truyện (高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2059) quyển 9, phần Trúc Phật Đồ Trừng (竺佛圖澄), có đoạn: “Tức thủ ứng khí thạnh thủy thiêu hương chú chi, tu du sanh thanh liên hoa (卽取應器盛水燒香咒之、須臾生青蓮花, tức lấy bình bát đỗ đầy nước rồi chú nguyện, trong chốc lát thì hoa sen xanh sanh ra).” Trong khi đó, tác phẩm Năng Cải Trai Mạn Lục (能改齋漫錄) của Ngô Tằng (吳曾, ?-?) nhà Nam Tống thì cho là khởi đầu từ thời nhà Hán. Tập tục đốt hương đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân châu Á nói chung và của người Việt Nam nói riêng. Đốt hương để làm thanh tịnh đàn tràng, môi trường, thân tâm, để mặc khải với chư Phật, Bồ Tát, thần linh. Như trong Thiện Nữ Nhân Truyện (善女人傳, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1657) quyển Hạ, phần Minh Nhân Hiếu Từ Hoàng Hậu (明仁孝徐皇后), có đoạn rằng: “Hồng Võ tam thập nhất niên, Xuân chánh nguyệt sóc đán, ngô phần hương tĩnh tọa các trung, duyệt cổ kinh điển, tâm thần ngưng định, hốt hữu tử kim quang tụ, di mãn Tứ Châu, hoảng hốt nhược thùy, mộng kiến Quán Thế Âm Bồ Tát (洪武三十一年、春正月朔旦、吾焚香靜坐閣中、閱古經典、心神凝定、忽有紫金光聚、彌滿四周、恍惚若睡、夢見觀世音菩薩, vào sáng sớm ngày mồng một tháng Giêng mùa Xuân năm Hồng Võ thứ 31 [1398], ta đốt hương tĩnh tọa trong gác, đọc kinh điển xưa, tâm thần ngưng định, chợt có hào quang vàng tía tụ lại, đầy khắp bốn phía, mơ hồ như trong giấc ngủ, mơ thấy Bồ Tát Quán Thế Âm).” Đặc biệt, đối với Phật Giáo, truyền thống tắm rửa sạch sẽ, xông hương, ngồi tĩnh tọa và xả báo thân ra đi, được tìm thấy khá nhiều trong các thư tịch. Như trong Cư Sĩ Truyện (居士傳, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1646) quyển 42, phần Ân Trần Cố Châu Chu Thái Ngu Hoàng Trang Bào Truyện (殷陳顧朱周蔡虞黃莊鮑傳), có đoạn: “Niên lục thập hữu nhị, tự tri thệ kỳ, phần hương tọa thoát (年六十有二、自知逝期、焚香坐脫, vào năm 62 tuổi, ông tự biết lúc ra đi, bèn xông hương ngồi yên mà thoát hóa).” Hay trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục (淨土聖賢錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1549) quyển 9, phần Kim Thích (金奭), lại có đoạn: “Phần hương an tọa, dĩ thủ kết ấn nhi hóa, thiên nhạc dị hương, chung nhật bất tán (焚香安坐、以手結印而化、天樂異香、終日不散, đốt hương ngồi yên, lấy tay bắt ấn mà ra đi, nhạc trời hương thơm lạ, suốt ngày vẫn không hết).” Hoặc trong Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1565) quyển 6, phần Thụy Châu Cửu Phong Đạo Kiền Thiền Sư (瑞州九峰道虔禪師), cũng có đoạn: “Toại phần hương, hương yên vị đoạn, tọa dĩ thoát khứ (遂焚香、香煙未斷、座已脫去, bèn đốt hương, khói hương chưa dứt, sư đã ngồi yên mà ra đi).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập