Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trương Thuyết »»
(倶舍宗, Gusha-shū): tên gọi của một tông phái lớn trong 8 tông phái ở Trung Quốc và trong 6 tông lớn của Phật Giáo vùng Nam Đô, Nhật Bản. Tại Ấn Độ, người ta chia thành 18 bộ phái của Phật Giáo Thượng Tọa Bộ (xưa gọi là Tiểu Thừa). Lần đầu tiên sau khi đức Phật diệt độ được 400 năm, thể theo lời thỉnh cầu của vua Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦王) của vương quốc Kiện Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄羅), 500 vị A La Hán đã tiến hành kết tập bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận (s: Abhidharma-mahāvibhāṣa-śāstra, 大毘婆沙論), 200 quyển; cho nên trong số 18 bộ phái ấy, tông nghĩa của Tát Bà Đa Bộ (薩婆多部, tức Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ [s: Sarvāstivādin, p: Sabbatthivādin, 說一切有部]) được thành lập. Bộ luận này theo nghĩa của Lục Túc Luận (s: Śaḍpadaśāstra, 六足論) để giải thích về Phát Trí Luận (s: Abhidharma-jñāna-prasthāna, 發智論), vì vậy giáo nghĩa của Tát Bà Đa Bộ đều tập trung vào bộ luận này. Trải qua 500 năm sau, Bồ Tát Thế Thân (s, p: Vasubandhu, 世親) xuất hiện, đầu tiên xuất gia tu tập theo Tát Bà Đa Bộ (薩婆多部), học tông nghĩa của bộ phái này, rồi sau đó học giáo lý của Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部), nhưng có điều không hài lòng về tông này, nên ông đã y cứ vào bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận mà trước tác ra bộ Câu Xá Luận (s: Abhidharmakośa-bhāṣya, 倶舍論). Trong mỗi phần ông đều lấy ý của Kinh Lượng Bộ để đả phá giáo thuyết của Tát Bà Đa Bộ. Vì vậy, từ đó ông đã tách riêng ra khỏi 18 bộ phái trên. Tại Ấn Độ, bộ luận này được gọi là Thông Minh Luận (聰明論), tất cả mọi người trong và ngoài tông phái đều học cả. Kể từ khi Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nhà Tùy bên Trung Quốc dịch bộ này sang Hán ngữ vào năm thứ 4 (563) niên hiệu Thiên Gia (天嘉), người ta bắt đầu nghiên cứu về nó. Kế đến, Huyền Trang (玄奘, 602-664) nhà Đường lại dịch Câu Xá Luận lần thứ hai vào năm thứ 5 (654) niên hiệu Vĩnh Huy, rồi các môn nhân của ông như Thần Thái (神泰), Phổ Quang (普光), Pháp Bảo (法寳) đã chú sớ cho bộ này. Từ đó Câu Xá Tông bắt đầu hưng thạnh ở Trung Quốc. Tại Nhật Bản, tông này được Đạo Chiêu (道昭, Dōshō, 629-700) truyền vào cùng với Pháp Tướng Tông. Vị này sang nhà Đường cầu pháp vào năm thứ 4 (653) niên hiệu Bạch Trỉ (白雉), theo hầu Huyền Trang và trở về nước vào năm thứ 7 (661) đời Tề Minh Thiên Hoàng (齊明天皇, Saimei Tennō, tại vị 655-661). Ông được xem như là người đầu tiên truyền bá Câu Xá Tông vào Nhật. Tiếp theo, có Trí Thông (智通, Chitsū, ?-?), Trí Đạt (智達, Chitatsu, ?-?), hai người sang nhà Đường vào năm thứ 4 (658) đời Tề Minh Thiên Hoàng, cũng như Huyền Phưởng (玄昉, Gembō, ?-746), vị tăng sang cầu pháp vào năm đầu (717) niên hiệu Dưỡng Lão (養老), đều có truyền tông này vào Nhật. Trong bản Tả Kinh Sở Khải (冩經所啓) ghi ngày mồng 8 tháng 7 năm thứ 12 (740) niên hiệu Thiên Bình (天平) còn lưu lại trong Chánh Thương Viện Văn Khố (正倉院文庫), ta thấy có ghi “Câu Xá Tông 30 quyển”; như vậy sách mà Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch ra đã được bắt đầu nghiên cứu từ khoảng thời gian này. Tên gọi Câu Xá Tông cũng được tìm thấy lần đầu tiên trong bản Tăng Trí Cảnh Chương Sớ Phụng Thỉnh Khải (僧智憬章疏奉請啓). Vì Câu Xá Tông được xem giống như Tát Bà Đa Tông vốn được tìm thấy trong bản Lục Tông Trù Tử Trương (六宗厨子張) ghi ngày 18 tháng 3 nhuận năm thứ 3 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寳), có thể sự thành lập của học phái này là trong khoảng thời gian năm thứ 3 hay 4 của niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo. Kế đến, trong phần quy định về số người được xuất gia và tu học mỗi năm của các tông phái như trong bức công văn của quan Thái Chính ghi ngày 26 tháng giêng năm thứ 25 (806) niên hiệu Diên Lịch (延曆), ta thấy có quy định Pháp Tướng Tông là 3 người, 2 người đọc Duy Thức Luận (s: Vijñānamātrasiddhi-śāstra, 唯識論) và 1 người đọc về Câu Xá Luận (s: Abhidharmakośa-bhāṣya, 倶舍論); như vậy ta biết được rằng lúc bấy giờ Câu Xá Tông vẫn là tông phái phụ thuộc vào Pháp Tướng Tông. Giáo nghĩa của tông này phân tích các pháp thành 5 vị và 75 pháp, công nhận tính thực tại của các pháp ấy, chủ trương rằng thế giới được thành lập dựa trên các pháp đó và con người tồn tại trong vòng luân hồi đau khổ, vì vậy cần phải đoạn diệt phiền não căn bản và chứng đạt Vô Dư Y Niết Bàn. Cũng giống như Pháp Tướng Tông, tông này cũng chia thành 2 phái là Bắc Tự Truyền (北寺傳) và Nam Tự Truyền (南寺傳). Phái Nam Tự Truyền thì chủ Trương Thuyết Dụng Diệt (用滅), nghĩa là các pháp hoại diệt nhưng thật thể của chúng vẫn tồn tại và cái tiêu diệt chính là tác dụng. Phái Bắc Tự Truyền đứng trên lập trường của thuyết Thể Diệt (体滅), tức là các pháp sanh khởi nhờ duyên và thật thể của chúng tiêu diệt theo từng Sát Na.
(大瀛, Daiei, 1760-1804): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; húy là Đại Doanh (大瀛), Quách Lượng (廓亮); tên lúc nhỏ là Ki Chi Tấn (幾之進), Thị Đại (示大); tự là Tử Dung (子容); thụy hiệu Chơn Thật Viện (眞實院), hiệu là Nhưng Viên (芿園), Thiên Thành (天城), Kim Cang Am (金剛庵), Thoại Hoa (瑞華), Tịch Nhẫn (寂忍), Bảo Chơn (葆眞), Lãng Nhiên (朗然), Viên Hải (圓海), Bảo Lương (寶梁); xuất thân Trung Đồng Hạ (中筒賀, Nagatsutsuga), An Nghệ (安芸, Aki, thuộc Hiroshima [廣島]); con trai thứ 3 của Lâm Dưỡng Triết (林養哲). Ông theo hầu Tuệ Vân (慧雲) ở Báo Chuyên Phường (報專坊), vùng An Nghệ, tu học giáo thuyết Chơn Tông và kiêm học cả ngoại điển. Sau ông từ bỏ việc thế tục, chuyển đến trú tại Thắng Viên Tự (勝圓寺) ở trong vùng, mở trường Tư Thục ở vùng Quảng Đảo (廣島, Hiroshima) và tận lực giáo dục chúng môn đệ. Vào năm 1797, ông đề xuất thư chất vấn lên trường Học Lâm về việc Năng Hóa Trí Động (能化智洞) chủ Trương Thuyết Dục Sanh Quy Mạng (欲生歸命), rồi viết cuốn Hoành Siêu Trực Đạo Kim Cang Phê (橫超直道金剛錍), Chơn Tông An Tâm Thập Luận (眞宗安心十論) để làm sáng tỏ Tông nghĩa chánh thống. Năm 1804, vâng mệnh chính quyền Mạc Phủ, ông cùng với nhóm Đạo Ẩn (道隱) xuống Giang Hộ, tiến hành đối luận với Trí Động. Trước tác của ông có Chơn Tông An Tâm Thập Luận (眞宗安心十論) 2 quyển, Hoành Siêu Trực Đạo Kim Cang Phê (橫超直道金剛錍) 3 quyển, Luận Hành Thiên (論衡篇) 2 quyển, Vãng Sanh Luận Chú Nguyên Yếu (徃生論註原要) 6 quyển, v.v.
(敎判, kyōhan), Giáo Tướng Phán Thích (敎相判釋, kyōsōhanshaku) hay Giáo Tướng Phán Giáo (敎相判敎, kyōsōhankyō): sự giải thích kinh điển vốn được hệ thống hóa, phân loại chỉnh lý dựa trên các tiêu chuẩn như hình thức, phương pháp, thứ tự của kinh điển được đức Thích Tôn thuyết ra trong thời gian 45 năm từ khi thành đạo lúc 35 tuổi cho đến khi nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi, hay về mặt tu tập thì giáo lý nào là cứu cánh, chân lý căn bản là gì, v.v. Dưới thời Tùy Đường, có khuynh hướng làm sáng tỏ lập trường mang tính giáo nghĩa vốn tín phụng vào tự than và chủ trương tính ưu việt của các kinh điển cũng như nội dung giáo nghĩa làm chỗ nương tựa. Về tự thể của kinh điển, chúng ta có thể thấy trong Pháp Hoa Kinh (法華經) có thuyết về sự khác nhau giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa, trong Lăng Già Kinh (楞伽經) có Đốn Giáo và Tiệm Giáo, trong Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經) có Tam Chiếu, hay trong Giải Thâm Mật Kinh (解深密經) có Tam Thời, v.v.; hoặc trong các luận thư như Đại Trí Độ Luận (大智度論) thì thuyết về Tam Tạng (三藏) và Ma Ha Diên (摩訶衍), trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (十住毘婆娑論) có Nan Hành Đạo (難行道) và Dị Hành Đạo (易行道), v.v.; tất cả đều chỉ phân loại sự sâu cạn của giáo thuyết và đó không phải là Giáo Phán. Tại Trung Quốc, vào thời Trí Khải (智顗) khoảng thế kỷ thứ 6, tương truyền ở Giang Nam có Giáo Phán Tam Thuyết (三說), ở bắc bộ có Thất Thuyết (七說), được gọi là Nam Tam Bắc Thất (南三北七, theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa [法華玄義] 10). Giáo Phán tiêu biểu là Ngũ Thời Bát Giáo (五時八敎) của Trí Khải. Ngũ Thời là thời Hoa Nghiêm (華嚴), Lộc Uyển (鹿苑, tức A Hàm [阿含]), Phương Đẳng (方等), Bát Nhã (般若) và Pháp Hoa Niết Bàn (法華涅槃); Bát Giáo gồm Hóa Nghi Tứ Giáo (化儀四敎) của giáo lý Đốn (頓), Tiệm (漸), Bí Mật (秘密), Bất Định (不定) nếu nhìn từ mặt hình thức thuyết pháp; và Hóa Pháp Tứ Giáo (化法四敎) của Tam Tạng (三藏, Tiểu Thừa), Thông (通, cọng thông cả Tiểu lẫn Đại Thừa), Biệt (別, Đại Thừa), Viên (圓, giáo lý hoàn toàn) nếu nhìn từ mặt nội dung. Tiếp theo, Nhị Tạng Tam Luận (二藏三論) của Cát Tạng (吉藏)—người hình thành giáo học Tam Luận, Tam Giáo Bát Tông (三敎八宗) của Khuy Cơ (窺基) thuộc Pháp Tướng Tông, bắt đầu xuất hiện. Kế thừa những giáo học này, Pháp Tạng (法藏), người hình thành giáo học Hoa Nghiêm, đã thuyết về Giáo Phán gọi là Ngũ Giáo Thập Tông (五敎十宗). Ngoài ra, Đạo Xước (道綽) của Tịnh Độ Giáo có thuyết về Nhị Môn Giáo Phán (二門敎判), gồm Thánh Đạo và Tịnh Độ. Tại Nhật Bản, Không Hải (空海, Kūkai), vị tổ khai sáng Chơn Ngôn Tông có lập ra 2 loại Giáo Phán Hoành Thụ (橫竪). Về phía Thai Mật (台密), An Nhiên (安然, Annen) đề xướng thuyết Ngũ Thời Ngũ Giáo (五時五敎). Ngoài ra, Thân Loan (親鸞, )—người kết hợp tự lực và tha lực, Tiệm Giáo và Đốn Giáo—thì chủ Trương Thuyết Nhị Song Tứ Trùng (二雙四重); Nhật Liên (日蓮, Nichiren) thì có thuyết Ngũ Cương (五綱), v.v.
(熊澤蕃山, Kumazawa Banzan, 1619-1691): Nho gia sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; tên là Bá Kế (伯繼); tự Liễu Giới (了介); hiệu Tức Du Hiên (息游軒); thông xưng là Thứ Lang Bát (次郎八); xuất thân kinh đô Kyoto; tên gọi Phiên Sơn (蕃山) vốn phát xuất từ Thôn Phiên Sơn (蕃山村), Bị Tiền (僃前, Bizen), nơi ông lui về ẩn cư. Năm 1634 (Khoan Vĩnh [寛永] 11), ông phục vụ cho Trì Điền Quang Trí (池田光致), Phiên chủ của Phiên Cương Sơn (岡山藩, Okayama-han), nhưng vì tu học chưa thuần thục, nên lấy lý do đó mà từ chức, rồi theo học với Trung Giang Đằng Thọ (中江藤樹, Nakae Tōju). Vào năm 1645 (Chánh Bảo [正保] 2), ông trở lại phục vụ cho Quang Trí và đã cống hiến những đối sách cứu nạn đói vào năm Minh Lịch (明曆) cũng như trị sơn, trị thủy, v.v. Sau đó, vào năm 1657 (Minh Lịch 3), ông lui về ẩn cư, chuyên tâm giảng dạy và trước tác ở kinh đô và các nơi khác; nhưng đến năm 1687 (Trinh Hưởng [貞享] 4), ông bị chính quyền Mạc Phủ kiêng kỵ vì phê phán chính trị, rồi bị cấm cố ở vùng Cổ Hà (古河, Koga), Hạ Tổng (下總, Shimōsa) và cuối cùng qua đời tại đây. Ông vốn là môn hạ của Đằng Thọ, nhưng Chu Tử Học hay Dương Minh Học, ông chẳng thuộc học phái nào cả; mà chủ Trương Thuyết gọi là Tâm Học (心學), cho rằng tâm là căn nguyên của vạn vật, đồng nhất với Thái Hư, và cần phải thể đắc đạo lý vốn có trong tâm này. Trước tác của ông có Tập Nghĩa Hòa Thư (集義和書), Tập Nghĩa Ngoại Thư (集義外書), Đại Học Hoặc Vấn (大學或問), Tam Luân Vật Ngữ (三輪物語), v.v.
(玄機): có hai nghĩa khác nhau. (1) Ý trời, thiên cơ. Như trong Trần Thư (陳書), chương Cao Tổ Kỷ Hạ (高祖紀下), có câu: “Cao Tổ nãi đạo huyền cơ nhi phủ mạt vận (高祖乃蹈玄機而撫末運, vua Cao Tổ bèn theo ý trời mà an ủi mạt vận).” Hay trong hồi thứ nhất của Hồng Lâu Mộng (紅樓夢) cũng có câu: “Thử nãi huyền cơ, bất khả dự tiết (此乃玄機、不可預泄, thiên cơ thế này, không thể tiết lộ).” (2) Nghĩa lý vi diệu, thâm áo. Như trong bài thứ 3 của Đạo Gia Tứ Thủ Phụng Sắc Soạn (道家四首奉敕撰) do Trương Thuyết (張說, 667-730) nhà Đường sáng tác có câu: “Kim lô thừa đạo quyết, ngọc điệp khải huyền cơ (金爐承道訣、玉牒啟玄機, lò vàng vâng bí quyết, điệp ngọc mở lý mầu).” Hay trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 18, phần Đối Cơ Môn (對機門), Hàng Châu Phật Nhật Sơn Trí Tài Thiền Sư Pháp Từ (杭州佛日山智才禪師法嗣), lại có đoạn: “Bất tu biện vọng cầu chơn, bất dụng tị huyên thủ tĩnh, nhân nhân cảo nhật đương không, xứ xứ huyền cơ độc hồi (不須辨妄求眞、不用避喧取靜、人人杲日當空、處處玄機獨迴, chẳng nên bỏ vọng tìm chân, không cần lánh ồn lấy tĩnh, người người trời sáng trên không, chốn chốn huyền cơ hiện rõ).” Hoặc trong bài tựa của Tiêu Thích Kim Cang Kinh Khoa Nghi Hội Yếu Chú Giải (銷釋金剛經科儀會要註解, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 24, No. 467) quyển 1, cũng có câu: “Toát huyền cơ ư chưởng ác, phát diệu nghĩa ư ngôn tiền (撮玄機於掌握、發妙義於言前, nắm huyền cơ nơi bàn tay, phát diệu nghĩa nơi lời nói).”
(法相宗, Hossō-shū): tên gọi học phái lớn của Phật Giáo Trung Quốc và Nhật Bản, một trong 6 tông phái lớn vùng Nam Đô, lấy các bộ kinh luận như Giải Thâm Mật Kinh (解深蜜經), Thành Duy Thức Luận (成唯識論), v.v., làm điển cứ cho rằng hết thảy tồn tại là không thật, do tâm này tạo ra, cho nên ngoài A Lại Da Thức ra thì không có gì tồn tại cả. Vào năm 653 (năm thứ 4 niên hiệu Bạch Trỉ [白雉]), Đạo Chiêu (道昭, Dōshō) sang nhà Đường cầu pháp và được chân truyền trực tiếp từ Huyền Trang (玄奘, 602-664). Ông được xem như là người chân truyền thứ nhất. Tại Trung Quốc, tông phái này dần dần đi đến suy vong; nhưng lại hưng thịnh ở Triều Tiên và Nhật Bản. Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji) và Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) là những ngôi chùa trung tâm phát triển rực rỡ của tông này tại Nhật. Trong 6 tông phái của vùng Nam Đô, với chủ Trương Thuyết về Tam Thừa, Pháp Tướng Tông thường tiến hành những cuộc luận tranh về tông nghĩa với Tam Luận Tông cũng như Thiên Thai Tông vốn thuyết về Nhất Thừa.
(s, p: buddha, 佛): gọi đủ là Phật Đà (佛陀、佛馱), Hưu Đồ (休屠), Phù Đà (浮陀), Phù Đồ (浮屠、浮圖), Phù Đầu (浮頭), Một Đà (沒馱), Bột Đà (勃陀、馞陀), Bộ Tha (步他); ý dịch là Giác Giả (覺者), Tri Giả (知者), Giác (覺); nghĩa là đấng giác ngộ chân lý; cũng có nghĩa là đầy đủ tự giác (自覺, tự giác ngộ mình), giác tha (覺他, làm cho người khác giác ngộ), giác hành viên mãn (覺行圓滿, giác ngộ và thực hành đều viên mãn), thấy biết như thật hết thảy tánh tướng của các pháp, là bậc Đại Thánh thành tựu Đẳng Chánh Giác. Đây là quả vị tối cao trong tu hành của Phật Giáo. Ba yếu tố tự giác, giác tha và giác hành viên mãn, đối với hạng phàm phu thì không yếu tố nào đầy đủ cả; đối với hàng Nhị Thừa Thanh Văn (s: śrāvaka, p: sāvaka, 聲聞), Duyên Giác (s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺) thì chỉ có tự giác; Bồ Tát (s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩) thì có đủ tự giác và giác tha; chỉ có Phật mới có đủ ba yếu tố này; cho nên đây là tôn xưng cao quý nhất. Về nội dung chứng ngộ của đức Phật, các kinh luận có nhiều thuyết khác nhau. Về thân Phật, cõi nước Phật, v.v., các tông phái cũng có nhiều dị thuyết. Cũng có biết bao danh xưng để tán than đức Phật như 10 danh hiệu của đức Như Lai, Nhất Thiết Tri Giả (一切知者, người biết tất cả), Nhất Thiết Kiến Giả (一切見者, người thấy tất cả), Tri Đạo Giả (知道者, người biết đạo), Khai Đạo Giả (開道者, người khai mở đạo [con đường]), Thuyết Đạo Giả (說道者, người thuyết về đạo), Thế Tôn (世尊, đấng được cuộc đời tôn kính), Thế Hùng (世雄, bậc hùng mạnh có thể đoạn trừ mọi phiền não của thế gian), Thế Nhãn (世眼, người có con mắt dẫn dắt thế gian), Thế Anh (世英, bậc ưu tú nhất thế gian), Thiên Tôn (天尊, Đệ Nhất Nghĩa Thiên tối thắng trong 5 vị trời), Đại Giác Thế Tôn (大覺世尊, hay Đại Giác Tôn), Giác Vương (覺王, vua giác ngộ), Giác Hoàng (覺皇, vua giác ngộ), Pháp Vương (法王, vua của các pháp), Đại Đạo Sư (大導師, vị thầy hướng dẫn vĩ đại), Đại Thánh Nhân (大聖人), Đại Sa Môn (大沙門), Đại Tiên (大仙, đấng tôn kính nhất trong chư tiên), Đại Y Vương (大醫王, như danh y tùy theo bệnh mà cho thuốc hay, đức Phật là người tùy theo tâm bệnh mà thuyết pháp), Phật Thiên (佛天), Phật Nhật (佛日, đức Phật như mặt trời chiếu sang khắp nơi), Lưỡng Túc Tôn (兩足尊, đấng tôn kính nhất trong loài có hai chân, lưỡng túc ở đây còn có nghĩa là đầy đủ hai yếu tố nguyện và hạnh), Nhị Túc Tôn (二足尊), Lưỡng Túc Tiên (兩足仙), Nhị Túc Tiên (二足仙), Thiên Trung Thiên (天中天, bậc tối thắng trong chư thiên), Nhân Trung Ngưu Vương (人中牛王, tỷ dụ đức Phật là vua của loài trâu), Nhân Hùng Sư Tử (人雄師子, tỷ dụ đức Phật là con sư tử hùng mạnh trong loài người), v.v. Đức Phật là người có thể hóa độ, dẫn dắt mình và người khác, nên có tên là Năng Nhân (能人); cho nên Phật A Di Đà cũng được gọi là An Lạc Năng Nhân (安樂能人). Đức Phật có những đức tính đặc thù, như thân Ngài có 32 tướng tốt, 48 vẻ đẹp; ngoài ra còn có 10 Lực, 18 pháp bất cọng, v.v. Định, Trí và Bi của Phật đều tối thắng, nên gọi là Đại Định (大定), Đại Trí (大智), Đại Bi (大悲); phối với Ba Đức là Đoạn Đức (斷德), Trí Đức (智德) và Ân Đức (恩德), gọi chung là Đại Định Trí Bi (大定智悲). Chư Phật xuất hiện trong thời quá khứ được gọi là Quá Khứ Phật (過去佛) hay Cổ Phật (古佛), như 7 vị Phật quá khứ, Phật Nhiên Đăng (s: Dīpaṃkara, 燃燈), v.v. Chư Phật sẽ xuất hiện nơi cõi Ta Bà trong tương lai thì gọi là Hậu Phật (後佛) hay Đương Lai Phật (當來佛), như Phật Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒). Ban đầu, Phật là chỉ cho đức Phật của lịch sử, tức là Phật Thích Ca; về sau sản sinh tư tưởng 7 vị Phật quá khứ, rồi lại có Phật tương lai và đức Phật Di Lặc; nay khoảng cách giữa đức Phật Thích Ca và Phật Di Lặc lại có thời gian không có Phật. Phật Giáo Nguyên Thủy thì cho rằng trong đời hiện tại không thể tồn tại cả hai vị Phật như vậy; đến thời kỳ Phật Giáo Đại Thừa, tùy thế giới quan mở rộng, cho rằng trong nhất thời có nhiều đức Phật tồn tại. Tỷ dụ như, phương Đông có Phật A Súc (s: Akṣhobhya, 阿閦), phương Tây có Phật A Di Đà (s: Amitāyus, Amitābha, 阿彌陀); đồng thời ngay hiện tại, ở thế giới phương khác lại có vô số chư Phật hiện hữu, gọi là thập phương hằng sa chư Phật (十方恒沙諸佛, chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở mười phương). Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部) của Phật Giáo Nguyên Thủy công nhận rằng tam thiên đại thiên thế giới đồng thời có các đức Phật khác tồn tại, nên chủ Trương Thuyết gọi là “nhất Phật nhất giới, đa Phật đa giới (一界一佛、多界多佛, một đức Phật một thế giới, nhiều đức Phật nhiều thế giới).” Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, 有部) thì chủ Trương Thuyết “đa giới nhất Phật (多界一佛, nhiều thế giới một đức Phật).” Chữ “giới (界)” ở đây nghĩa là tam thiên đại thiên thế giới. Ngoài ra, ba đời chư Phật tức chỉ cho ngàn vị Phật của Trang Nghiêm Kiếp (莊嚴劫) trong thời quá khứ, ngàn vị Phật của Hiền Kiếp (賢劫) trong thời hiện tại, và ngàn vị Phật của Tinh Tú Kiếp (星宿劫) trong thời tương lai; hợp lại thành ba ngàn vị Phật. Danh xưng của chư vị Phật này có trong Tam Kiếp Tam Thiên Phật Danh Kinh (三劫三千佛名經).
(神秀, Jinshū, 605-706): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, xuất thân Huyện Úy Dân (尉民縣), Biện Châu (汴州, phía Nam Khai Phong, Hà Nam), họ Lý (李), thân cao 8 thước, mắt rộng mày dài, có đức tướng uy nghiêm. Theo bia văn của Trương Thuyết (張說), lúc nhỏ ông đã đọc các kinh sử (Nho học), học rộng nghe nhiều. Vào năm thứ 8 (625) niên hiệu Võ Đức (武德), ông xuất gia tại Thiên Cung Tự (天宮寺), Lạc Dương (洛陽). Sau đó, ông đi tìm thầy học đạo, đến Song Phong Tự (雙峰寺) ở Huyện Hoàng Mai (黃梅縣), Kì Châu (蘄州) tham yết Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (弘忍), thề nguyện chịu đựng tất cả khổ nhọc chỉ một lòng cầu đạo mà thôi. Lúc đó ông đã 50 tuổi. Nhờ đức nhẫn thụyc ấy, trong chúng ai cũng kính phục và trở thành Thượng Tọa trong chúng môn hạ hơn 700 người của Ngũ Tổ; cho nên ông có tên gọi là Thượng Tọa Thần Tú. Ông cũng có quan hệ thân thiện với Đại Giám Huệ Năng (大鑒慧能). Bài kệ nổi tiếng của ông là “thân thị bồ đề thọ, tâm như minh kính đài, thời thời cần phất thức, mạc sử nhạ trần ai (身是菩提樹、心如明鏡臺、時時勤拂拭、莫使惹塵埃, thân là cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, hằng ngày siêng lau quét, chớ để nhuốm bụi trần)”. Vào tháng 10 năm thứ 2 (675) niên hiệu Thượng Nguyên (上元) đời vua Cao Tông nhà Đường, khi Hoằng Nhẫn viên tịch, ông chuyển đến Đương Dương Sơn (當陽山) ở Giang Lăng (江陵) giáo hóa, chúng đạo tục quy tụ về rất đông, từ đó đạo phong và tiếng tăm của ông càng vang xa. Trong thời gian niên hiệu Cửu Thị (久視, 700), Tắc Thiên Võ Hậu (則天武后) nghe tiếng của ông, cho triệu vào cung nội và cho xây dựng ở Đương Dương Sơn ngôi Độ Môn Tự (度門寺). Đến khi vua Trung Tông lên ngôi, vua lại càng trọng hậu ông và vị quan Trung Thư Lệnh Trương Thuyết (張說) cũng lấy lễ bái ông làm thầy. Vua Duệ Tông (睿宗) thì rất kính mộ ông, cho nên ông được gọi là Tam Đế Quốc Sư (三帝國師), được suy cử làm Pháp Chủ của Trường An và Lạc Dương trong vòng 6 năm. Chính ông đã từng tâu lên Võ Hậu cho triệu thỉnh Huệ Năng, nhưng Huệ Năng cố từ, trả lời rằng ông đã có duyên với Lãnh Nam (嶺南) rồi, nên không đến Đại Dữu Lãnh (大庾嶺) nữa, từ đó trong Thiền môn có câu “Nam Năng Bắc Tú (南能北秀, phía Nam có Huệ Năng, phía Bắc có Thần Tú)”. Ông thị tịch vào tháng 2 năm thứ 2 niên hiệu Thần Long (神龍) tại Thiên Cung Tự ở Lạc Dương (洛陽), hưởng thọ 101 tuổi. Ông được ban cho thụy hiệu là Đại Thông Thiền Sư (大通禪師), là người được nhận thụy hiệu Thiền sư sớm nhất. Thiền phong của ông chủ yếu là tiệm ngộ, thuyết về ly niệm và xem trọng Ngũ Phương Tiện (五方便), trái ngược với chủ trương đốn ngộ của Huệ Năng bên Nam Tông Thiền. Trong khi Nam Tông Thiền được phổ cập ở Hoa Nam (華南) và Giang Tây (江西), Bắc Tông Thiền của Thần Tú thì hưng thạnh ở Hoa Bắc (華北), hai kinh đô Trường An (長安) và Lạc Dương (洛陽) cũng như địa phương Giang Nam (江南). Môn nhân Đạo Tuyền (道璿) của ông là người đến Nhật Bản sớm nhất, cho nên những Thiền tăng thời kỳ đầu của Nhật Bản đều thuộc hệ thống này. Pháp từ của ông có Tung Sơn Huệ Tịch (嵩山慧寂), Kinh Triệu Nghĩa Phước (京兆義福), v.v. Trước tác của ông có Quán Tâm Luận (觀心論) 1 quyển, Đại Thừa Vô Sanh Phương Tiện Môn (大乘無生方便門) 1 quyển, Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏) 30 quyển, Diệu Lý Viên Thành Quán (妙理圓成觀) 3 quyển. Kì Vương Phạm (岐王範), Yến Quốc Công Trương Thuyết (燕國公張說) và Trưng Sĩ Lô Hồng (徴士盧鴻) mỗi người soạn một bài bia minh.
(智洞, Chidō, 1736-1805): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng giữa và cuối thời Giang Hộ; húy là Trí Động (智洞), thụy hiệu là Ứng Hiện Viện (應現院); hiệu Đào Hoa Phường (桃花坊); xuất thân vùng Kyoto; con của Tịnh Khiêm (淨謙) ở Thắng Mãn Tự (勝滿寺), Kyoto. Trong vụ pháp luận Minh Hòa (明和), ông đã từng luận tranh với Trí Xiêm (智暹) của Chơn Tịnh Tự (眞淨寺), vùng Bá Ma (播磨, Harima) và trở nên nổi tiếng. Sau ông đến trú tại Tịnh Giáo Tự (淨敎寺) ở kinh đô Kyoto, và vào năm 1797 thì tựu nhiệm chức Năng Hóa (能化, Nōke) đời thứ 8 ở Học Lâm của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji). Chính ông đã kế thừa tư tưởng Nguyện Sanh Quy Mạng Biện (願生歸命辨) của Công Tồn (功存), chủ Trương Thuyết Dục Sanh Quy Mạng (欲生歸命); bị nhóm của Đại Doanh (大瀛) phản luận, và dẫn đến cuộc luận tranh gọi là Tam Nghiệp Hoặc Loạn (三業惑亂). Ông là người có công lớn trong việc sao chép những điển tịch của các ngôi tự viện lớn, cũng như tạo mục lục lưu trữ thư tịch của Học Lâm. Trước tác của ông có Long Cốc Học Huỳnh Hiện Tồn Thư Tịch Mục Lục (龍谷學黌現存書籍目錄) 5 quyển, Cao Tăng Hòa Tán Giảng Lâm (高僧和讚講林) 6 quyển, Ban Chu Tán Giảng Lâm (般舟讚講林) 10 quyển, Chánh Tín Kệ Giảng Lâm Trợ Lãm (正信偈講林助覽) 4 quyển.
(追遠愼終): hay thận chung truy viễn (愼終追遠), cẩn chung truy viễn (謹終追遠). Chung (終) nghĩa là tang lễ của cha mẹ, viễn (遠) là ý chỉ tổ tiên xa xưa trước kia. Thận chung (愼終) nghĩa là theo lễ nghi mà thận trọng xử lý việc tang lễ của cha mẹ. Truy viễn (追遠) là cung kính, thành tâm lo việc cúng tế ông bà tổ tiên. Đây là việc làm hiếu đạo mà làm người cần phải thực hiện trọn vẹn, chu toàn. Câu này vốn phát xuất từ trong Luận Ngữ (論語), chương Học Nhi (學而): “Thận chung truy viễn, dân đức quy hậu hỉ (愼終追遠、民德歸厚矣, thận trọng lo tang lễ cho cha mẹ, kính thành lo cúng tế tổ tiên, tất phong tục dân tình sẽ quay về thiện lương).” Như trong bài Đường Cố Hạ Châu Đô Đốc Thái Nguyên Vương Công Thần Đạo Bia (唐故夏州都督太原王公神道碑) của Trương Thuyết (張說, 667-730) nhà Đường có câu: “Giai đốc hành thuần hiếu, thận chung truy viễn (皆篤行純孝、愼終追遠, đều dốc lòng làm việc hiếu, lo tang cha mẹ và thờ cúng tổ tiên).” Hay trong tác phẩm Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記), phần Ấn Độ Tổng Thuật (印度總述) của Huyền Trang (玄奘, 602-664) nhà Đường cũng có câu: “Xuất gia tăng chúng, chế vô hiệu khốc, phụ mẫu vong tang, tụng niệm thù ân, truy viễn thận chung, thật tư minh phước (出家僧眾、制無號哭、父母亡喪、誦念酬恩、追遠愼終、寔資冥福, tăng chúng xuất gia, Phật chế không được khóc lóc, khi có tang cha mẹ mất, nên tụng niệm để báo ơn, lo tang cha mẹ và cúng tế tổ tiên, vậy mới thật sự tích lũy phước đức).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập