Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trường Lô Tổ Chiếu »»
(眞竭清了, Shinketsu Seiryō, 1088-1151): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, hiệu là Chơn Hiết (眞竭), xuất thân vùng Tả Tuyến An Xương (左線安昌, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Ung (雍). Năm lên 11 tuổi, ông xuất gia với Thanh Tuấn (清俊) ở Thánh Quả Tự (聖果寺) và học Kinh Pháp Hoa. Đến năm 18 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới, đến sống ở Đại Từ Tự (大慈寺) vùng Thành Đô (成都, Tỉnh Tứ Xuyên), học Kinh Viên Giác và Kinh Kim Cang. Sau đó, ông lên Nga Mi Sơn (峨嵋山), tham bái đức Phổ Hiền (普賢), và cuối cùng kế thừa dòng pháp của Tử Thuần (子淳) ở Đơn Hà Sơn (丹霞山, Tỉnh Hà Nam). Kế đến, ông lên Ngũ Đài Sơn (五台山), tham bái đức Văn Thù (文殊), và làm thị giả cho Trường Lô Tổ Chiếu (長蘆祖照). Vào năm thứ 3 (1121) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), Tổ Chiếu bị bệnh, nên thỉnh ông làm trú trì nơi đây. Vào tháng 6 năm thứ 2 (1128) niên hiệu Kiến Viêm (建炎), ông lui về ẩn cư, đến tháng 8 thì lên Bổ Đát Lạc Già Sơn (補怛洛迦山) lễ bái đức Quan Âm (觀音). Vào tháng 11 năm thứ 4 (1130) cùng niên hiệu trên, ông đến trú trì Tuyết Phong Tự (雪峰寺). Đến năm thứ 5 (1135) niên hiệu Thiệu Hưng (紹興), ông lại lui về ẩn cư, rồi vào tháng 7 năm sau, ông đến trú tại A Dục Vương Sơn Quảng Lợi Tự (阿育王山廣利寺) thuộc vùng Tứ Minh (四明, Tỉnh Triết Giang) và bắt đầu khai đường bố giáo tại đây. Hai năm sau đó (1137), cũng có lời thỉnh cầu ông đến Tương Sơn (蔣山) thuộc Phủ Kiến Khang (建康府, Tỉnh Giang Tô), nhưng ông cáo bệnh từ chối. Vào năm thứ 8 (1138) cùng niên hiệu trên, ông đến trú trì hai ngôi Long Tường Tự (龍翔寺) và Hưng Khánh Tự (興慶寺). Vào tháng 5 năm thứ 15 cũng niên hiệu trên, ông chuyển đến Năng Nhân Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền Tự (能仁興聖萬壽禪寺). Rồi đến năm thứ 21 thì đến trú trì Sùng Tiên Hiển Hiếu Thiền Viện (崇先顯孝禪院) và khai mở đạo tràng thuyết pháp cho Từ Ninh Thái Hậu (慈寧太后). Vào tháng 10 cũng năm này (1151), ông thị tịch, hưởng thọ 64 tuổi đời và 45 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu là Ngộ Không Thiền Sư (悟空禪師). Môn nhân biên tập cuốn Trường Lô Liễu Hòa Thượng Kiếp Ngoại Lục (長蘆了和尚劫外錄) 1 quyển. Trước tác của ông có Tín Tâm Minh Niêm Cổ (信心銘拈古) 1 quyển.
(頂相): trên đỉnh đầu của đức Phật có nhục kế (s: uṣṇīṣa, 肉髻, khối u bằng thịt như búi tóc), hết thảy trời người đều không thể thấy được, nên có tên là vô kiến đảnh tướng (無見頂相); một trong 32 tướng tốt. Như trong Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh (大法炬陀羅尼經, Taishō Vol. 21, No. 1340) quyển 4, Phẩm Tướng Hảo (相好品), giải thích rằng: “Như Lai đảnh tướng, nhục kế viên mãn, nhất thiết nhân thiên sở bất năng kiến (如來頂相、肉髻圓滿、一切人天所不能見, đảnh tướng của Như Lai, nhục kế tròn đầy, tất cả trời người không thể thấy được).” Trong Thủy Kinh Chú (水經注), phần Hà Thủy (河水) 2, có đoạn: “Tháp tích, Phật nha, Ca Sa, đảnh tướng Xá Lợi, tất tại Phất Lâu Sa quốc (塔跡、佛牙、袈裟、頂相舍利、悉在弗樓沙國, di tích tháp, răng Phật, y Ca Sa, Xá Lợi của đảnh tướng, đều ở tại nước Phất Lâu Sa [Purusapura, hiện tại ở phái Tây Bắc Peshawar]).” Hay trong Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa (法華經通義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 31, No. 611) lại có đoạn rằng: “Phật hữu cửu thập thất chủng đại nhân tướng, nhục kế đảnh tướng vi đệ nhất, thị vi vô kiến đảnh tướng, tùng thử phóng quang (佛有九十七種大人相、肉髻頂相爲第一、是爲無見頂相、從此放光, đức Phật có 97 loại tướng của đại nhân, đảnh tướng nhục kế là số một, đó là vô kiến đảnh tướng, từ đây phóng ra ánh sáng).” Ngoài ra, các Thiền gia gọi tiêu tượng bán thân, hay tượng toàn thân của Tổ sư ngồi trên ghế dựa Khúc Lục (曲彔), là đảnh tướng, tôn kính như vô kiến đảnh tướng của đức Như Lai. Sự lưu hành hình vẽ đảnh tướng khởi đầu từ Trung Quốc, nhưng thịnh hành nhất dưới hai thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) và Thất Đinh (室町, Muromachi) của Nhật Bản. Vẽ mặt nhân vật phần nhiều là bút pháp tả thật, ở giữa có bài từ tự nhân vật được vẽ làm ra. Đây được xem như là tín vật phú pháp, truyền cho đệ tử đắc pháp. Như trong Gia Thái Phổ Đăng Lục (嘉泰普燈錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 79, No. 1559) quyển 29 có bài Đề Vĩnh Minh Trí Giác Thọ Thiền Sư Đảnh Tướng (題永明智覺壽禪師頂相) của Trường Lô Tổ Chiếu Hòa Thiền Sư (長蘆祖照和禪師), rằng: “Tuệ nhật phong cao thu sắc lãnh, Tiền Đường giang tĩnh nguyệt hoa minh, hàn quang nhất thước châu sa giới, bút hạ khan lai vị thập thành (慧日峰高秋色冷、錢塘江靜月華明、寒光一爍周沙界、筆下看來未十成, trời tuệ đỉnh cao thu sắc lạnh, Tiền Đường sông lặng trăng sáng trong, hào quang tỏ rực khắp muôn cõi, dưới bút xem ra chữa vẹn toàn).”
(長蘆道和, Chōro Dōwa, 1057-1124): vị tăng của Vân Môn Tông Trung Quốc, còn gọi là Trường Lô Tổ Chiếu (長蘆祖照, Chōro Soshō), được ban tặng hiệu là Tổ Chiếu Thiền Sư (祖照禪師), xuất thân Tiên Du (仙游), Hưng Hóa (興化), Tỉnh Phúc Kiến (福建省), họ Phan (潘). Ông theo hầu Đức Chương (德璋) ở Thích Ca Viện (釋迦院), Thiên Thanh (天清), rồi xuất gia và thọ Cụ Túc giới với vị này. Sau đó, ông đến tham yết Tịnh Nhân Đạo Trăn (淨因道臻) và Viên Thông Pháp Tú (圓通法秀). Sau khi Pháp Tú qua đời, Thiện Bổn (善本) kế thế Pháp Vân Tự (法雲寺); nhân đó ông tham học với vị này và được ấn khả. Từ đó, ông đến trú trì Trường Lô Tự (長蘆寺) ở Chơn Châu (眞州), Tỉnh Giang Tô (江蘇省) và xiển dương Thiền phong của mình. Vào ngày mồng 7 tháng 8 năm thứ 6 (1124) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), ông thị tịch, hưởng thọ 68 tuổi đời và 45 hạ lạp. Tuy nhiên, theo Kiếp Ngoại Lục (刼外錄) thì cho ông tịch và năm thứ 5 (1123) cùng niên hiệu trên.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.119 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập