Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trùng quang »»
(民經記, Minkeiki): còn gọi là Kinh Quang Khanh Ký (經光卿記), Trung Quang Ký (中光記); cuốn nhật ký của Dân Bộ Khanh Quảng Kiều Kinh Quang (民部卿廣橋經光, tức Đằng Nguyên Kinh Quang [藤原經光, 1213-1274]), gồm 46 quyển. Do vì cuối đời, Kinh Quang được bổ nhiệm làm chức Dân Bộ Khanh (民部卿), nên tác phẩm này còn có tên là Dân Bộ Khanh Kinh Quang Nhật Ký (民部卿經光日記). Bộ này gồm những ký sự ghi từ năm 1226 (Gia Lộc [嘉祿] thứ 2) đến 1270 (Văn Vĩnh [文永] thứ 7), tuy có bộ phận bị thiếu mất; nhưng bản tự bút 46 quyển hiện được bảo tồn tại Viện Bảo Tàng Dân Tục Lịch Sử Quốc Gia (國立歷史民俗博物館). Đây được xem như là ký lục công gia rất quan trọng và quý giá dưới thời Liêm Thương Trung Kỳ.
(金經): kinh điển vàng ngọc. Kinh (s: sūtra, p: sutta, 經), âm dịch là Tu Đa La (修多羅), ý dịch là Khế Kinh (契經), Chánh Kinh (正經), Quán Kinh (貫經); là từ gọi chung cho tất cả Phật pháp, hay chỉ cho một loại trong 9 hoặc 12 phần giáo. Từ này còn dùng để chỉ cho các kinh điển của Đạo Giáo. Như trong bài thơ Thù Điền Dật Nhân Du Nham Kiến Tầm Bất Ngộ (酬田逸人遊岩見尋不遇) của thi nhân Trần Tử Ngang (陳子昂, 661-702) nhà Đường có câu: “Thạch tủy không doanh ác, kim kinh bí bất văn (石髓空盈握、金經祕不聞, nhũ đá rỗng nắm trọn, kinh vàng linh chẳng nghe).” Hay trong Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư Quảng Lục (永覺元賢禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1437) quyển 26, bài thơ Đề Sư Tử Am (題獅子菴), có đoạn: “Sát can cao thụ thạch khê đông, bán yểm tùng vân thúy sắc nồng, nhật ngọ kim kinh phương bãi độc, nhất thanh sư hống bạch vân trung (剎竿高豎石溪東、半掩松雲翠色濃、日午金經方讀罷、一聲獅吼白雲中, đầu sào cao vút khe đá đông, xanh biếc sắc màu che mây tùng, quá trưa kinh vàng vừa đọc hết, tiếng gầm sư tử mây trắng trong).” Hoặc trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) lại có câu: “Quá khứ hiện tại cập vị lai, nhất thiết hữu tình Tam Giới biến, ngã kim thích huyết tả kim kinh, cúng phụng từ vương khất thùy giám, phù đồ thất cấp tánh trung quang, Di Đà nhất cú tâm đầu niệm, đồng sanh Cực Lạc ly khổ luân (過去現在及未來、一切有情三界遍、我今刺血寫金經、供奉慈王乞垂鑒、浮圖七級性中光、彌陀一句心頭念、同生極樂離苦輪, quá khứ hiện tại và tương lai, hết thảy hữu tình Ba Cõi khắp, con nay chích máu viết kinh vàng, dâng cúng đức từ xin chứng giám, bảy tầng tháp báu hiện hào quang, Di Đà mọtt câu trong tâm niệm, cùng sanh Cực Lạc thoát luân hồi).”
có tên gọi khác như Trọng Thu (仲秋), Trung Thu (中秋), Thu Bán (秋半), Thu Cao (秋高), Quất Xuân (橘春), Thanh Thu (清秋), Chánh Thu (正秋), Quế Thu (桂秋), Hoạch Nguyệt (獲月), Tráng Nguyệt (壯月), Quế Nguyệt (桂月), Diệp Nguyệt (葉月), Thu Phong Nguyệt (秋風月), Dậu Nguyệt (酉月), Nguyệt Kiến Nguyệt (月見月), Hồng Nhiễm Nguyệt (紅染月), Nam Lữ (南呂), Trọng Thương (仲商), Chá Nguyệt (柘月), Nhạn Lai Nguyệt (雁來月), Trung Luật (中律), Tứ Âm Nguyệt (四陰月), Sảng Nguyệt (爽月), Đại Thanh Nguyệt (大清月), Trúc Tiểu Xuân (竹小春), Quán Nguyệt (觀月), Kết Xuân (桔春), Cử Nguyệt (舉月). Một số câu hay cho tháng Tám như châu lộ ngưng bạch (珠露凝白, sương châu đọng thành màu trắng), quế nhụy sanh hương (桂蕊生香, nhụy hoa quế ngát hương), lộ doanh tiên chưởng (露盈仙掌, sương đọng đầy bàn tay tiên), quế trán thiềm cung (桂綻蟾宮, quế khắp cung trăng), lộ châu trích lãnh (露珠滴冷, giọt sương ngọc lạnh băng), quế nguyệt phù hàn (桂月浮寒, trăng quế trôi nỗi lạnh ngắt), thiềm quang chánh mãn (蟾光正滿, ánh sáng trăng tròn đầy), nhạn hoành độ ảnh (雁橫度影, nhạn bay ngang qua còn lưu bóng), thiềm thố trừng quang (蟾兔澄光, ánh trăng sáng tỏ). Một số từ dùng cho truy điệu vào tháng này như thiền hiệu cổ mộc (蟬號古木, ve khóc cây cổ), yến biệt điêu lương (燕別雕梁, yến giã biệt xà nhà chạm trỗ).
(祖印): Pháp ấn của Tổ sư, tức là những ấn tượng đáng nhớ, hành trạng, giáo thuyết cũng như Tông phong của chư vị Tổ sư lúc sinh tiền lưu lại cho hậu thế noi theo. Vì thế, trong Thiền môn thường dùng câu Tổ ấn Trùng quang (祖印重光, pháp ấn của chư Tổ vẫn sáng tỏ mãi). Câu này thường được treo ở Nhà Tổ. Như trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 4 có câu: “Phục nguyện, Luật phong vĩnh chấn, Tổ ấn Trùng quang, giới hương phân phức ư Cửu Châu, pháp vũ triêm nhu ư Thất Chúng (伏願、律風永振、祖印重光、戒香芬馥於九州、法雨沾濡於七眾, cúi mong Luật phong mãi chấn chỉnh, Tổ ấn luôn sáng ngời, hương giới thơm phức khắp Chín Châu, mưa pháp rưới nhuần nơi Bảy Chúng).” Hay trong Vô Chuẩn Hòa Thượng Tấu Đối Ngữ Lục (無準和尚奏對語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1383) có đoạn: “Phục nguyện, Phật chủng bất đoạn, thế thế kiến quang minh tràng, Tổ ấn thân truyền, nhân nhân khai vô tận tạng (伏願、佛種不斷、世世建光明幢、祖印親傳、人人開無盡藏, cúi mong giống Phật chẳng dứt, đời đời dựng cờ sáng tỏ, Tổ ấn truyền thừa, người người mở kho vô tận).”
(祖印): Pháp ấn của Tổ sư, tức là những ấn tượng đáng nhớ, hành trạng, giáo thuyết cũng như Tông phong của chư vị Tổ sư lúc sinh tiền lưu lại cho hậu thế noi theo. Vì thế, trong Thiền môn thường dùng câu Tổ ấn Trùng quang (祖印重光, pháp ấn của chư Tổ vẫn sáng tỏ mãi). Câu này thường được treo ở Nhà Tổ. Như trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 4 có câu: “Phục nguyện, Luật phong vĩnh chấn, Tổ ấn Trùng quang, giới hương phân phức ư Cửu Châu, pháp vũ triêm nhu ư Thất Chúng (伏願、律風永振、祖印重光、戒香芬馥於九州、法雨沾濡於七眾, cúi mong Luật phong mãi chấn chỉnh, Tổ ấn luôn sáng ngời, hương giới thơm phức khắp Chín Châu, mưa pháp rưới nhuần nơi Bảy Chúng).” Hay trong Vô Chuẩn Hòa Thượng Tấu Đối Ngữ Lục (無準和尚奏對語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1383) có đoạn: “Phục nguyện, Phật chủng bất đoạn, thế thế kiến quang minh tràng, Tổ ấn thân truyền, nhân nhân khai vô tận tạng (伏願、佛種不斷、世世建光明幢、祖印親傳、人人開無盡藏, cúi mong giống Phật chẳng dứt, đời đời dựng cờ sáng tỏ, Tổ ấn truyền thừa, người người mở kho vô tận).”
(湛然圓澄, Tannen Enchō, 1561-1626): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, tự là Trạm Nhiên (湛然), biệt hiệu Tán Mộc Đạo Nhân (散木道人), xuất thân Cối Kê (會稽, Tỉnh Triết Giang), sinh ngày mồng 5 tháng 8 năm thứ 40 niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖), họ Hạ (夏). Ban đầu, ông làm người đưa thư, sau đến tham học với Ngọc Phong (玉峰), làm người quét nhà xí. Đến năm 24 tuổi, ông theo xuất gia với Diệu Phong (妙峰) ở Tuế Thiên Hoang Sơn (歳天荒山). Sau ông đến tham vấn Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏) và thọ giới Cụ Túc, rồi lại tham yết Nam Tông (南宗). Sau ông lại đến cầu học với Vân Thê lần nữa, vào năm thứ 19 (1591) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), ông đến tham vấn Từ Chu Phương Niệm (慈舟方念) và kế thừa dòng pháp của vị này. Đầu tiên ông khai đường thuyết giáo tại Thọ Hưng Tự (壽興寺), và sau đó từng sống qua các nơi như Vân Môn Truyền Trung Quảng Hiếu Tự (雲門傳忠廣孝寺), Kính Sơn Vạn Thọ Tự (徑山萬壽寺), Đông Tháp Tự (東塔寺) ở Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang), Vân Môn Hiển Thánh Tự (雲門顯聖寺), Thiên Hoa Tự (天華寺) ở Phủ Thiệu Hưng (紹興府, Tỉnh Triết Giang), Minh Tâm Tự (明心寺), Thọ Thánh Tự (壽聖寺) ở Sơn Âm (山陰, Tỉnh Triết Giang), Mai Dã Di Đà Am (梅野彌陀寺), Bảo Lâm Tự (寳林寺), Thạch Phật Tự (石佛寺) ở Tú Thủy (秀水, Tỉnh Triết Giang), Thiên Ninh Tự (天寧寺) ở Hải Diêm (海塩, Tỉnh Triết Giang), Đại Thiện Tự (大善寺) ở Phủ Thiệu Hưng, Viên Giác Thiền Viện (圓覺禪院) ở Nam Kinh (南京), Diên Thọ Tự (延壽寺), Nhất Túc Am (一宿菴) ở Côn Sơn (崑山, Tỉnh Giang Tô), Đạo Tràng Vạn Thọ Tự (道塲萬壽寺) ở Hồ Châu (湖州, Tỉnh Triết Giang), Hoa Nghiêm Tự (華嚴寺) ở Phủ Thiệu Hưng, v.v. Đến ngày mồng 4 tháng 12 năm thứ 6 niên hiệu Thiên Khải (天啓), ông thị tịch, hưởng thọ 66 tuổi dời và 43 hạ lạp. Ông có để lại bộ Trạm Nhiên Viên Trừng Thiền Sư Ngữ Lục (湛然圓澄禪師語錄) 8 quyển. Đào Thích Linh (陶奭令) soạn bài Cối Kê Vân Môn Trạm Nhiên Trừng Thiền Sư Tháp Minh (會稽雲門湛然澄禪師塔銘).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.41 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập