Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trung Phong Minh Bổn »»
(別源圓旨, Betsugen Enshi, 1294-1364): vị tăng của Phái Hoằng Trí (宏智派) thuộc Tào Động Tông Nhật Bản, xuất thân vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), họ Bình (平). Ông xuất gia lúc còn nhỏ tuổi, theo học với Đông Minh Huệ Nhật (東明慧日) được 11 năm, liễu ngộ đại sự và cuối cùng kế thừa dòng pháp của vị này. Vào năm thứ 2 (1320) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), ông sang nhà Nguyên cầu pháp, đến tham học với Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Trung Phong Minh Bổn (中峰明本), v.v., và vào năm thứ 2 (1330) niên hiệu Nguyên Đức (元德) thì trở về nước. Trong khoảng thời gian này, năm thứ 2 (1325) niên hiệu Chánh Trung (正中), ông được Trung Phong Minh Bổn ban ấn khả cho. Sau khi về nước, vào năm đầu (1342) niên hiệu Khang Vĩnh (康永), thể theo lời mời của Triêu Thương Quảng Cảnh (朝倉廣景, Asakura Hirokage), ông đến làm tổ khai sơn của Hoằng Tường Tự (弘祥寺, Kōshō-ji) ở Túc Vũ (足羽, Asuwa), Việt Tiền, và ông còn khai sáng Thiện Ứng Tự (善應寺) cũng như Cát Tường Tự (吉祥寺). Bên cạnh đó, ông còn sống qua các chùa như Chơn Như Tự (眞如寺) ở kinh đô Kyoto, Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji) theo lời thỉnh cầu của Túc Lợi Nghĩa Thuyên (足利義詮, Ashikaga Yoshiakira) vào năm thứ 3 (1364) niên hiệu Trinh Trị (貞治). Đến ngày mồng 8 tháng 10 cùng năm trên, ông thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi đời và 56 hạ lạp. Trước tác của ông có Nam Du Tập (南遊集), Đông Quy Tập (東歸集), v.v. Trung Nham Viên Nguyệt (中巖圓月) soạn bản Biệt Nguyên Hòa Thượng Tháp Minh Tinh Tự (別源和尚塔銘並序).
(孤峰覺明, Kohō Kakumyō, 1271-1361): vị tăng của Phái Pháp Đăng thuộc Lâm Tế Tông Nhật Bản, hiệu là Cô Phong (孤峰), xuất thân Hội Tân (會津, Aizu, thuộc Fukushima-ken [福島縣]), họ Bình (平), sinh năm thứ 8 niên hiệu Văn Vĩnh (文永). Năm lên 7 tuổi, ông đã để tang mẹ, đến năm 17 tuổi ông theo xuất gia với giảng sư Lương Phạm (良範), thọ giới trên Duệ Sơn (叡山), học giáo lý Thiên Thai được 8 năm, sau đó theo hầu Pháp Đăng Quốc Sư Vô Bổn Giác Tâm (法燈國師無本覺心) ở Hưng Quốc Tự (興國寺) được 3 năm. Tiếp theo, ông đến tham học với Liễu Nhiên Pháp Minh (了然法明) ở Xuất Vũ (出羽, Dewa) và thỉnh giáo nơi Cao Phong Hiển Nhật (高峰顯日), Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), v.v. Đến năm đầu (1311) niên hiệu Ứng Trường (應長), ông sang nhà Nguyên, đến tham yết Trung Phong Minh Bổn (中峰明本) ở Thiên Mục Sơn (天目山). Ngoài ra ông còn tham học với các danh tăng khác như Nguyên Ông Tín (元應信), Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Đoạn Nhai Liễu Nghĩa (斷崖了義), Vân Ngoại Vân Tụ (雲外雲岫), Vô Kiến Tiên Đỗ (無見先覩), v.v. Sau khi trở về nước, ông lại đến tham vấn Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾) ở Vĩnh Quang Tự (永光寺) vùng Năng Đăng (能登, Noto), thọ bồ tát giới và khai sáng Vân Thọ Tự (雲樹寺) tại vùng Xuất Vân (出雲, Izumo). Vào đầu niên hiệu Nguyên Hoằng (元弘), Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇) mời ông đến truyền giới và ban cho hiệu là Quốc Tế Quốc Sư (國濟國師). Đến năm thứ 2 (1346) niên hiệu Trinh Hòa (貞和), ông tiến hành tái kiến Hưng Quốc Tự, rồi đến sống ở Diệu Quang Tự (妙光寺), được Hậu Thôn Thượng Thiên Hoàng (後村上天皇) ban tặng cho hiệu là Tam Quang Quốc Sư (三光國師) và thể theo sắc chỉ của nhà vua ông làm tổ khai sơn Cao Thạch Đại Hùng Tự (高石大雄寺) ở vùng Hòa Tuyền (和泉, Izumi). Chính trong khoảng thời gian này, ông đã dâng sớ thỉnh cầu triều đình ban cho thầy ông là Oánh Sơn Thiệu Cẩn tước hiệu Thiền Sư. Vào ngày 24 tháng 5 năm thứ 16 (1361) niên hiệu Chánh Bình (正平, tức năm đầu niên hiệu Khang An [康安]), ông thị tịch, hưởng thọ 91 tuổi đời và 75 hạ lạp.
(九品): 9 loại đẳng cấp, gồm thượng thượng, thượng trung, thượng hạ; trung thượng, trung trung, trung hạ; hạ thượng, hạ trung và hạ hạ. Thông thường có các dụng ngữ như Cửu Phẩm Vãng Sanh (九品徃生), Cửu Phẩm Tịnh Độ (九品淨土), v.v. Như trong bài thơ Hoài Tịnh Độ (懷淨土) của Quốc Sư Trung Phong Minh Bổn (中峰明本, 1263-1323) nhà Minh có câu: “Yếu tương uế độ tam thiên giới, tận chủng Tây Thiên Cửu Phẩm liên (要將穢土三千界、盡種西天九品蓮, nguyện đem chốn bẩn ba ngàn cõi, trồng hết Tây Thiên Chín Phẩm sen).” Hay trong bài văn phát nguyện được dùng trong thời khóa công phu hằng ngày tại các tự viện Phật Giáo có câu: “Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung, Cửu Phẩm Liên Hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất Thối Bồ Tát vi bạn lữ (願生西方淨土中、九品蓮花爲父母、花開見佛悟無生、不退菩薩爲伴侶, nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trong, chín phẩm hoa sen là cha mẹ, hoa nở thấy Phật biết vô sanh, Bồ Tát Bất Thối là bạn đạo).”
(祇陀大智, Gida Daichi, 1290-1366): vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, xuất thân Trường Khi (長崎, Nagasaki), Vũ Thổ Quận (宇土郡, Udo-gun), Phì Hậu (肥後, Higo), biệt danh là Tổ Kế (祖繼, tuy nhiên cũng có thuyết cho rằng đây là nhân vật khác), sinh vào năm thứ 3 (1290) niên hiệu Chánh Ứng (正應). Năm lên 7 tuổi, ông xuống tóc xuất gia với Hàn Nham Nghĩa Duẫn (寒巖義尹) ở Đại Từ Tự (大慈寺, Daiji-ji), và được thầy đặt cho tên là Tiểu Trí (小智), nhưng ông lại tự đổi thành Đại Trí (大智). Sau khi Hàn Nham qua đời, ông đến tham học với Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), Thích Vận (釋運), v.v. ở Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), rồi lại chuyển đến làm môn hạ của Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾) ở Đại Thừa Tự (大乘寺, Daishō-ji) vùng Gia Hạ (加賀, Kaga, thuộc Ishikawa-ken [石川縣]). Nỗ lực tu tập trong vòng 7 năm, ông lãnh hội được yếu chỉ của thầy. Đến năm thứ 4 (1311) niên hiệu Diên Khánh (延慶), ông lại đến tham yết Đông Minh Huệ Nhật (東明慧日) khi vị này ở tại Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) vùng Tương Mô (相模, Sagami). Sau đó, ông sang Trung Quốc, tham học với một số vị tôn túc khác như Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Vân Ngoại Vân Tụ (雲外雲岫), Trung Phong Minh Bổn (中峰明本), Vô Kiến Tiên Đỗ (無見先覩), v.v. Khi hồi hương, theo chiếu chỉ của vua Anh Tông, ông được đưa về nước bằng thuyền Trung Quốc. Nhân đó, ông làm bài kệ “vạn lý Bắc triều tuyên ngọc chiếu, Tam Sơn Đông Hải tống quy thuyền, hoàng ân chí hậu tương hà báo, nhất chú tâm hương chúc vạn niên (萬里北傳宣玉詔、三山東海送歸船、皇恩至厚將何報、一炷心香祝萬年, ngàn dặm Bắc triều tuyên chiếu ngọc, Tam Sơn Đông Hải tiễn thuyền về, ơn vua quá nặng làm sao đáp, một nén hương lòng chúc vạn năm)” để bái tạ thâm ân của nhà vua. Khi về nước, ông liền đến tham yết Oánh Sơn ngay, và cuối cùng trở thành pháp từ của Trung Phong Tố Triết (中峰素哲). Về sau, ông làm ngôi thảo am ở Làng Cát Dã (吉野郷), vùng Gia Hạ, không bao lâu thì trở thành ngôi phạm vũ với tên gọi là Sư Tử Sơn Kỳ Đà Tự (獅子山祇陀寺). Đến cuối đời, ông trở về vùng Phì Hậu (肥後, Higo, thuộc Kumamoto-ken [熊本縣]), sống tại Phụng Nghi Sơn Thánh Hộ Tự (鳳儀山聖護寺). Đến ngày mồng 10 tháng 12 năm thứ 21 (1366) niên hiệu Chánh Bình (正平, tức năm thứ 5 niên hiệu Trinh Trị [貞治]), ông thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi. Ông có để lại tác phẩm Đại Trí Thiền Sư Kệ Tụng (大智禪師偈頌) 1 quyển.
(臨濟宗, Rinzai-shū): tông phái tôn Lâm Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄, Rinzai Gigen) làm tổ, một trong Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗) của Trung Quốc. Trải qua 11 đời từ vị sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨[摩]) cho đến Nghĩa Huyền, từ đó trải qua 7 đời truyền thừa và xuất hiện Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓). Môn hạ của Thạch Sương có Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南) và Dương Kì Phương Hội (楊岐方會), từ đó phát sanh ra hai phái Hoàng Long (黃龍), Dương Kì (楊岐). Đối với Thiền Tông Trung Quốc, nếu thêm 2 phái này vào trong 5 tông phái Vân Môn (雲門), Pháp Nhãn (法眼), Tào Động (曹洞), Lâm Tế (臨濟), Quy Ngưỡng (溈仰) thì gọi là Ngũ Gia Thất Tông. Trừ Phái Hoàng Long của Minh Am Vinh Tây (明庵榮西) ra, Lâm Tế Tông đuợc truyền vào Nhật tất cả đều thuộc về hệ thống của Phái Dương Kì. Hàng cháu đời thứ 4 của Dương Kì Phương Hội có xuất hiện Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤); thế rồi từ môn hạ của Viên Ngộ có Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) và Hổ Kheo Thiệu Long (虎丘紹隆), từ đó ra đời hai phái Đại Huệ (大慧) và Hổ Kheo (虎丘). Hơn nữa, từ môn hạ của Mật Am Hàm Kiệt (密庵咸傑)—pháp hệ của Hổ Kheo—phát sinh dòng phái môn lưu của Tùng Nguyên Sùng Nhạc (松源崇岳), Phá Am Tổ Tiên (破庵祖先) và Tào Nguyên Đạo Sanh (曹源道生). Trước hết, người truyền thừa Thiền nhà Tống sang Nhật Bản đầu tiên là Duệ Sơn Giác A (叡山覺阿), vị tăng đã từng tham vấn Hạt Đường Huệ Viễn (瞎堂慧遠)—pháp từ của Viên Ngộ Khắc Cần. Tiếp theo đó là Minh Am Vinh Tây (明庵榮西), người đã sang nhà Tống lần thứ hai và kế thừa dòng pháp của Hư Am Hoài Sưởng (虛庵懷敞). Dòng pháp của Giác A bị dứt tuyệt; riêng Phái Hoàng Long (黃龍派) của Minh Am Vinh Tây vẫn kéo dài cho đến hiện tại thong qua hai chùa Thọ Phước Tự (壽福寺, Jufuku-ji) và Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji). Người đồng thời đại với Vinh Tây là Đại Nhật Năng Nhẫn (大日能忍) thì trú tại Tam Bảo Tự (三寶寺, Sampō-ji), Nhiếp Tân (攝津, Settsu), nhân đọc các thư tịch Thiền mà độc ngộ, tự xưng là Đạt Ma Tông (達磨宗) và mở rộng giáo hóa khắp nơi, nhưng ông lại bị phê phán là “không thầy ngộ một mình”. Từ đó, ông giao phó cho đệ tử đem chỗ sở ngộ của ông sang nhà Tống trình lên cho Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光)—đệ tử của Đại Huệ Tông Cảo—để nhận ấn khả. Sau đó, môn lưu của ông được giáo đoàn của Vĩnh Bình Đạo Nguyên (永平道元, Eihei Dōgen) hấp thu rồi đi đến đoạn tuyệt. Thiên Hựu Tư Thuận (天祐思順), v.v., sang nhà Tống cầu pháp, trải qua 13 năm trường, rồi được ấn khả của Kính Tẩu Cư Giản (敬叟居簡)—đệ tử của Chuyết Am Đức Quang, đến trú trì Thắng Lâm Tự (勝林寺) vùng Thảo Hà (草河), nhưng môn lưu của ông chẳng phát triển được chút nào. Viên Nhĩ (圓爾)—người theo học môn lưu của Vinh Tây, sang nhà Tống cầu pháp và đến tham yết Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範) thuộc Phái Phá Am—cũng trở về nước vào năm thứ 2 (1241) niên hiệu Nhân Trị (仁治), khai sáng Thừa Thiên Tự (承天寺, Shōten-ji) và Sùng Phước Tự (崇福寺, Sūfuku-ji) ở vùng Bác Đa (博多, Hakata), rồi kiến lập Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) ở kinh đô Kyōto, được hàng công võ quy y theo và nỗ lực xây dựng cơ sở để phát triển một môn phái lớn. Đạo Hựu (道祐) ở Diệu Kiến Đường (妙見堂) vùng Lạc Bắc (洛北, Rakuhoku), Tánh Tài Pháp Thân (性才法身)—vị tổ khai sơn Viên Phước Tự (圓福寺) ở Tùng Đảo (松島, Matsushima), v.v., cũng là những người đồng môn của Viên Nhĩ. Kế đến, Vô Bổn Giác Tâm (無本覺心)—vị tổ khai sơn Tây Phương Tự (西方寺, Saihō-ji) ở Do Lương (由良), Kỷ Y (紀伊, Kii)—cũng đã từng được Thối Canh Hành Dũng (退耕行勇), Đạo Nguyên (道元), Thiên Hựu Tư Thuận (天祐思順) động viên và sang nhà Tống cầu đạo, thọ pháp với Vô Môn Huệ Khai (無門慧開)—người thuộc dòng phái của Đạo Giả Đạo Ninh (道者道寧), nhân vật huynh đệ với Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤), và trở về nước. Một loạt những người như vậy đều xuất thân từ hai tông Hiển Mật, đã truyền vào Nhật tôn giáo mới của nhà Tống để bổ sung thêm cho Phật Giáo cũ, nhưng lại mai danh ẩn tích ở các địa phương chứ không xuất hiện nơi chốn đô hội, và ý thức khai sáng giáo đoàn mới cũng rất mong manh. Tiếp theo, xuất hiện những vị tăng do vì tránh tình hình bất an dưới thời nhà Tống đã vượt biển sang Nhật Bản để tìm lẽ sống. Tỷ dụ như trường hợp của Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) sang Nhật vào năm thứ 4 (1246) niên hiệu Khoan Nguyên (寬元). Sau khi sống qua Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) ở vùng Bác Đa và Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Senyū-ji) ở kinh đô Kyōto, Lan Khê xuống vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), được Tướng Quân Bắc Điều Thời Lại (北條時頼, Hōjō Tokiyori) quy y theo và làm tổ khai sơn Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji). Đó là cuộc truyền thừa Thiền thuần túy, thoát xác khỏi các tông Hiển Mật. Thêm vào đó, thông qua môi giới của Viên Nhĩ, có đồng môn Ngột Am Phổ Ninh (兀庵普寧) sang Nhật, nhờ sự hộ trì của Thời Lại; nhờ vậy Thiền lâm Nhật Bản dần dần được chỉnh đốn, sản sinh ra nhiều môn đệ và các vị tăng Nhật Bản sang nhà Tống cầu pháp tăng thêm nhiều. Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明) và Cự Sơn Chí Nguyên (巨山志源)—những người truyền thừa dòng pháp của Phái Tùng Nguyên (松源派) cùng trở về nước, rồi Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念)—đồng hàng huynh đệ với Vô Tượng Tĩnh Chiếu (無象靜照) cũng thuộc Phái Tùng Nguyên—quy quốc, được Tướng Quân Bắc Điều Thời Tông (北條時宗, Hōjō Tokimune) và anh em Tông Chính (宗政) quy y theo. Hơn nữa, đáp lời thỉnh cầu của Thời Tông, Tây Giản Tử Đàm (西礀子曇) cũng đáp thuyền sang Nhật; nhưng sau khi Lan Khê Đạo Long viên tịch, ông lại trở về nước. Sau đó, có Vô Học Tổ Nguyên (無學祖元) và Kính Đường Giác Viên (鏡堂覺圓) sang Nhật. Được Tướng Quân Bắc Điều Thời Tông tín nhiệm và quy y theo, Vô Học trở thành tổ khai sơn của Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) ở vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura). Giống như Vô Học và Kính Đường, có Tiều Cốc Duy Tiên (樵谷惟僊)—người thuộc Phái Tùng Nguyên—trở về nước và truyền trao dòng pháp mới. Trong khi đó, có vị tăng sang Nhật là Linh Sơn Đạo Ẩn (靈山道隱). Đến thời nhà Nguyên, có hai nhân vật làm sứ tiết hòa bình của hai triều Văn Vĩnh (文永), Hoằng An (弘安) và làm Thông Sự hướng dẫn cho Tây Giản Tử Đàm (西礀子曇), là Nhất Sơn Nhất Ninh (一山一寧) và Đông Lí Đức Hội (東里德會) của Phái Tào Nguyên (曹源派) cũng sang Nhật. Tiếp theo đó, có mấy người thuộc Phái Tào Nguyên lên thuyền sang Nhật như Thanh Chuyết Chánh Trừng (清拙正澄) theo lời thỉnh cầu của tướng quân Bắc Điều Cao Thời (北條高時, Hōjō Takatoki); Minh Cực Sở Tuấn (明極楚俊), Trúc Tiên Phạn Tiên (竺仙梵僊), v.v., theo lời mời của dòng họ Đại Hữu (大友) ở vùng Phong Hậu (豐後). Đồng môn với Trúc Tiên có Nguyệt Lâm Đạo Kiểu (月林道皎), Thạch Thất Thiện Cửu (石室善玖) thì sang nhà Tống cầu pháp và trở về nước. Trong hệ thống Thiền nhà Nguyên, tông phong của các vị tăng theo Thiền Niệm Phật rất thịnh hành; vì mến mộ tông phong của Trung Phong Minh Bổn (中峰明本) trên Thiên Mục Sơn (天目山), nên nhiều tăng sĩ Nhật Bản đã đến đây cầu pháp và trở về nước. Tỷ dụ như Viễn Khê Tổ Hùng (遠溪祖雄), Cổ Tiên Ấn Nguyên (古先印元), Phục Am Tông Kỷ (復庵宗己), Nghiệp Hải Bổn Tịnh (業海本淨), Minh Tẩu Tề Triết (明叟齊哲), Vô Ẩn Nguyên Hối (無隱元晦), Quan Tây Nghĩa Nam (關西義南), v.v. Bên cạnh đó, còn có mấy người kế thừa dòng pháp của Thiên Nham Nguyên Trường (千岩元長)—đệ tử của Trung Phong—như Đại Chuyết Tổ Năng (大拙祖能), Bích Nham Vi Xán (碧巖囗璨). Những người cùng dòng pháp của Vạn Phong Thời Úy (萬峰時蔚)—người đồng môn với Đại Chuyết và Bích Nham—có Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) thuộc Phái Hoàng Bá (黃檗派). Tông phong mang tính ẩn dật chính là đặc trưng dưới thời đại này. Giống như những người kế thừa Thiền Niệm Phật, môn hạ của Phái Phá Am (破庵派) có Vô Văn Nguyên Tuyển (無文元選)—nhân vật kế thừa dòng pháp của Cổ Mai Chánh Hữu (古梅正友), hay Tịch Thất Nguyên Quang (寂室元光)—pháp tôn của Lan Khê Đạo Long. Họ thọ nhận tông phong phái này, trở về nước và truyền bá khắp các địa phương. Về Phái Đại Huệ, Trung Nham Viên Nguyệt (中巖圓月), Đông Truyền Chánh Tổ (東傳正祖), Vô Sơ Đức Thỉ (無初德始), v.v., truyền bá dòng pháp mới; riêng Ngu Trung Châu Cập (愚中周及) thì truyền thừa dòng pháp của Tức Hưu Khế Liễu (卽休契了) và hình thành nên một phái mới. Xưa nay, những người cầu pháp ở ngoại quốc có 24 dòng, 46 dòng hay 59 dòng; trong đó trừ 4 dòng của Tào Động Tông (曹洞宗, Sōtō-shū) ra, còn lại 55 dòng thuộc về Lâm Tế Tông. Trong số những nhà truyền pháp thuộc các dòng này, trừ những người bảo trì Thiền Niệm Phật mang tính ẩn dật ra, đại bộ phận các môn lưu đều được hàng công võ quy y theo, thường sống tại 5 ngôi danh sát lớn ở kinh đô Kyōto, Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) và hình thành nên Phái Ngũ Sơn (五山派) với giáo đoàn phức hợp, đa dạng. Đó là hai chùa Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji) cũng như Thọ Phước Tự (壽福寺, Jufuku-ji) của Vinh Tây; Tịnh Diệu Tự (淨妙寺, Jōmyō-ji) của Thối Canh Hành Dũng (退耕行勇); Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) của Viên Nhĩ; Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji) của Lan Khê Đạo Long; Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) của Vô Học Tổ Nguyên; Tịnh Trí Tự (淨智寺, Jōchi-ji) của Ngột Am Phổ Ninh (兀庵普寧) và Nam Châu Hoằng Hải (南洲宏海); Vạn Thọ Tự (萬壽寺, Manju-ji) của Đông Sơn Trạm Chiếu (東山湛照); Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji) của Vô Quan Huyền Ngộ (無關玄悟); Thiên Long Tự (天龍寺, Tenryū-ji) và Tướng Quốc Tự (相國寺, Sōkoku-ji) của Mộng Song Sơ Thạch (夢窻疎石), v.v. Ngoài Phái Ngũ Sơn chịu dưới sự quản chế của chính quyền Mạc Phủ, có xuất hiện Bạt Đội Đắc Thắng (拔隊得勝) và Từ Vân Diệu Ý (慈雲妙意)—pháp tôn của Vô Bổn Giác Tâm (無本覺心), người đi về bố giáo ở các địa phương ngay từ ban đầu. Bạt Đội sáng lập Hướng Nhạc Tự (向嶽寺, Kōgaku-ji) ở vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai); còn Từ Vân thì khai sáng Quốc Thái Tự (國泰寺, Kokutai-ji) ở Việt Trung (越中, Ecchū) và hình thành nên một dòng phái riêng. Ngoài ra, Vô Văn Nguyên Tuyển kiến lập Phương Quảng Tự (方廣寺, Hōkō-ji) ở Áo Sơn (奥山, Okuyama), Viễn Giang (遠江). Tịch Thất Nguyên Quang là hàng pháp tôn của Lan Khê Đạo Long, không có mối quan hệ gì với Phái Ngũ Sơn, chuyên tâm giáo hóa ở các địa phương và xây dựng Vĩnh Quang Tự (永光寺, Eikō-ji) ở vùng Cận Giang (近江). Những Thiền tăng tại các địa phương có Ngu Trung Châu Cập thoát ly khỏi Phái Mộng Song của Ngũ Sơn; ông khai sáng Phật Thông Tự (佛通寺, Buttsū-ji) ở An Nghệ (安芸), được sự ủng hộ đắc lực của dòng họ Tiểu Tảo Xuyên (小早川) và hình thành giáo đoàn nhỏ. Tại trưng ương kinh đô, trong số những người không chịu sự thống chế của chính quyền Mạc Phủ có Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超)—môn hạ của Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), vị tăng truyền dòng pháp của mình dưới thời đại Liêm Thương. Bên cạnh đó, còn xuất hiện đệ tử của Tông Phong là Quan Sơn Huệ Huyền (關山慧玄). Tông Phong thì khai sáng Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji) ở vùng Tử Dã (紫野, Murasakino); Quan Sơn thì kiến lập Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji) ở Hoa Viên (花園, Hanazono) và trở thành sơ tổ của chùa này.Cả hai thầy trò đều được Hoa Viên Pháp Hoàng (花園法皇, Hanazono Hōkō) thâm tín quy y theo. Đối với Thiền lâm Ngũ Sơn, những ngôi chùa Hướng nhạc, Quốc Thái, Phương Quảng, Vĩnh Nguyên, Phật Thông, Đại Đức, Diệu Tâm được gọi là Lâm Hạ Thiền Lâm (林下禪林), vẫn duy trì tông phong từ ngàn xưa, khắc kỷ, đạm bạc mà không hề nhận sự ủng hộ của chính quyền Mạc Phủ. Chính nhân tài của Ngũ Sơn cũng lưu nhập vào hệ thống này, làm cho hưng thạnh; cuối cùng nhờ những nhà Đại Danh thời Chiến Quốc (戰國, Sengoku) quy y theo, hơn nữa những ngôi chùa con ở các địa phương thuộc Phái Ngũ Sơn đã quy hướng về Phái Diệu Tâm Tự (妙心寺派) của Quan Sơn. Cuộc biến động cải cách vào cuối thời nhà Minh và đầu nhà Thanh đã đưa đẩy Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦), Đạo Giả Siêu Nguyên (道者超元), v.v., sang Nhật, đem lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với Thiền lâm trong nước. Từ các phái nhỏ xuất hiện Cổ Nguyệt Thiền Tài (古月禪才), Tuyệt Đồng Bất Nhị (絕同不二), v.v., những nhân vật thuộc Phái Linh Vân (靈雲派) trong Diệu Tâm Tây Phái (妙心西派); cho nên các Tăng Đường ở địa phương được phục hưng và làm cho hồi phục quy cũ tu hành của tập đoàn. Thêm vào đó, từ Phái Thánh Trạch (聖澤派) trong Diệu Tâm Tây Phái lại xuất hiện Bạch Ẩn Huệ Hạc (白隱慧鶴)—người kế thừa dòng pháp của Đạo Kính Huệ Đoan (道鏡慧端); nhờ vậy đã quét sạch những tệ hại lâu năm và vãn hồi được tông phong. Vào năm thứ 7 (1874) niên hiệu Minh Trị (明治, Meiji), qua bản cáo bố của Bộ Tuyên Giáo, hai tông Lâm Tế và Tào Động được độc lập. Đến năm thứ 9 cùng niên hiệu trên, từ Lâm Tế Tông, môn hạ của Ẩn Nguyên Long Kỷ cũng được độc lập với tên gọi là Hoàng Bá Tông (黃檗宗, Ōbaku-shū), trở thành thế chân vạc ba phái Thiền Tông. Trong những Bản Sơn (本山, Honzan, ngôi chùa tổ) các phái của Lâm Tế Tông có 14 phái với các chùa như Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji), Thiên Long Tự (天龍寺, Tenryū-ji), Tướng Quốc Tự (相國寺, Sōkoku-ji), Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji), Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji), Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji), Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), Hướng Nhạc Tự (向嶽寺, Kōgaku-ji), Quốc Thái Tự (國泰寺, Kokutai-ji), Phương Quảng Tự (方廣寺, Hōkō-ji), Vĩnh Nguyên Tự (永源寺, Eigen-ji) và Phật Thông Tự (佛通寺, Buttsū-ji). Vị Quản Trưởng (管長, Kanchō) thống lãnh trong phái, đặt đạo tràng chuyên môn để đào tạo đàn hậu tấn.
(幻住派, Genjū-ha): tên gọi chung của những người kế thừa pháp hệ của Trung Phong Minh Bổn (中峰明本) thuộc Phái Phá Am của Lâm Tế Tông. Viễn Khê Tổ Hùng (遠溪祖雄), Phục Am Tông Dĩ (復菴宗已), Cổ Tiên Ấn Nguyên (古先印元), Vô Ẩn Nguyên Hối (無隱元晦), Nghiệp Hải Bổn Tịnh (業海本淨), Minh Tẩu Tề Triết (明叟齊哲), Đại Chuyết Tổ Năng (大拙祖能), v.v., là những nhân vật thuộc phái này. Người cháu đời thứ 4 của Cổ Tiên là Nguyệt Chu Thọ Quế (月舟壽桂) ở Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji). Đặc sắc của phái này là có tính cách ẩn dật của vị khai Tổ Trung Phong, kế thừa tư tưởng Thiền Tịnh Nhất Trí. Ban đầu phái này tách lìa với Phái Ngũ Sơn mà hoạt động giáo hóa ở các địa phương, nhưng đến dòng pháp hệ của Viễn Khê thì có Nhất Hoa Thạc Điền (一華碩田) xuất hiện, làm cho Phái Huyễn Trú có thể tiến về thâm nhập vào năm ngôi chùa lớn ở kinh đô; cho nên, tại các chùa như Tam Thánh (三聖), Kiến Nhân (建仁), Nam Thiền (南禪), Kiến Trường (建長), Viên Giác (圓覺), v.v., đều có chân của phái này, và cho đến thời kỳ Giang Hộ thì phái này đã phát triển rất rực rỡ.
(輔敎編, Hokyōhen): trước tác của Phật Nhật Khế Tung (佛日契嵩), gồm 3 quyển, được thâu lục vào trong Đàm Tân Văn Tập (鐔津文集). Quyển thượng có phần Nguyên Giáo (原敎), Khuyến Thư (勸書); quyển trung có Quảng Nguyên Giáo (廣原敎) và quyển hạ có Hiếu Luận (孝論), Đàn Kinh Tán (壇經賛) và Chơn Đế Vô Thánh Luận (眞帝無聖論). Nó thuyết về sự nhất trí xưa nay về Ngũ Giới Thập Thiện của Phật Giáo với Ngũ Thường của Nho Giáo; Nho thì trị đời còn Phật thì trị tâm và nhờ có trị tâm mới làm cho việc trị thế được hoàn thành. Hơn nữa, tác phẩm này còn chủ trương rằng với vấn đề ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật Giáo hơn hẳn Nho Giáo; mặt khác chính nhờ các vị vương thần mà Phật Giáo tồn tại, cho nên Phật Giáo thể hiện tư thế khẳng định toàn diện đối với quyền lực quốc gia. Vào năm 1061, bộ này được trình lên cho vua Nhân Tông (仁宗), được nhóm Âu Dương Tu (歐陽脩) khen ngợi, rồi năm sau bản Truyền Pháp Chánh Tông Ký (傳法正宗記) cũng được chấp nhận đưa vào kinh tạng, và Khế Tung được ban cho hiệu là Minh Giáo Đại Sư (明敎大師). Bộ này được lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc cũng như Nhật Bản, và thỉnh thoảng được khai bản ấn hành. Đặc biệt, phần Nguyên Giáo và Hiếu Luận có ảnh hưởng rất lớn. Chính Trầm Sĩ Vinh (沉士榮) nhà Minh sau này đã kế thừa tư tưởng của Nguyên Giáo để viết ra cuốn Tục Nguyên Giáo Luận (續原敎論, Zokugenkyōron, năm 1385); còn ảnh hưởng của Hiếu Luận thì có thể tìm thấy ở Trung Phong Minh Bổn (中峰明本, 1263-1323) và Hàm Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623) nhà Nguyên. Còn tại Nhật Bản thì Hiếu Luận cũng được lưu truyền rộng rãi đến nổi người ta đã cho in riêng phần này thành một bản. Ngoài ra ta có thể tìm thấy chủ trương giống như tác phẩm này qua cuốn Nhàn Cư Biên (閑居編, năm 1016) của vị tăng Thiên Thai Tông là Cô Sơn Trí Viên (孤山智圓).
(世尊慶誕): ngày đản sanh hân hoan, vui mừng của đức Thế Tôn, còn gọi là Phật Đản Tiết (佛誕節), Dục Phật Tiết (浴佛節, Lễ Hội Tắm Phật), Quán Phật Hội (灌佛會, Hội Tắm Phật), Long Hoa Hội (龍華會), Hoa Nghiêm Hội (華嚴會), v.v. Tùy theo mỗi quốc gia, tên gọi lễ hội linh thiêng, trọng đại này có khác nhau. Tại Nhật Bản lễ hội này được gọi là Giáng Đản Hội (降誕會, Gōtane), Phật Sanh Hội (佛生會, Busshōe), Dục Phật Hội (浴佛會, Yokubutsue), Quán Phật Hội (灌佛會, Kambutsue), Long Hoa Hội (龍華會, Ryūgee), Hoa Hội Thức (花會式, Hanaeshiki), Hoa Tế (花祭, Hanamatsuri). Trong khi đó, Hàn Quốc gọi là Thích Ca Đản Thần Nhật (釋迦誕辰日, Ngày Đản Sanh Của Đức Thích Ca), Đài Loan là Phật Đà Đản Thần Kỷ Niệm Nhật (佛陀誕辰紀念日, Ngày Kỷ Niệm Đản Sanh Của Đức Phật Đà), Việt Nam là Lễ Phật Đản, v.v. Qua các tên gọi liệt kê ở trên, Lễ Phật Đản còn được gọi là Lễ Hội Tắm Phật. Truyền thống Lễ Hội Tắm Phật vốn phát xuất từ truyền thuyết có 2 con rồng phun nước hương thơm rưới lên kim thân của của đức Phật khi ngài hạ sanh, như trong Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō No. 189) quyển 1 có diễn tả như sau: “Nan Đà Long Vương, Ưu Ba Nan Đà Long Vương, ư hư không trung, thổ thanh tịnh thủy, nhất ôn nhất lương, quán Thái Tử thân, thân hoàng kim sắc hữu tam thập nhị tướng, phóng đại quang minh, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới, thiên long Bát Bộ diệc ư không trung tác thiên kỷ nhạc, ca bối tán tụng, thiêu chúng danh hương, tán chư diệu hoa, hựu vũ thiên y nãi dĩ Anh Lạc, tân phân loạn trụy bất khả xưng sổ (難陀龍王、優波難陀龍王、於虛空中、吐清淨水、一溫一涼、灌太子身、身黃金色有三十二相、放大光明、普照三千大千世界、天龍八部亦於空中作天伎樂、歌唄讚頌、燒眾名香、散諸妙花、又雨天衣及以瓔珞、繽紛亂墜不可稱數, Nan Đà Long Vương, Ưu Ba Nan Đà Long Vương ở trong không trung, phun nước trong sạch, một dòng ấm một dòng mát, rưới lên mình Thái Tử; thân người màu vàng ròng, có ba mươi hai tướng, phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới; trời rồng tám bộ chúng cũng ở trên hư không tạo các thứ nhạc trời, ca xướng tán tụng, đốt các loại hương thơm, rãi các loại hoa quý, rồi lại mưa áo trời và lấy Anh Lạc rãi cùng khắp, không thể nào đếm kẻ xiết).” Hay như trong Phổ Diệu Kinh (普曜經, Taishō No. 186) quyển 2 cho là có 9 con rồng: “Cửu long tại thượng nhi hạ hương thủy, tẩy dục thánh tôn, tẩy dục cánh dĩ, thân tâm thanh tịnh (九龍在上而下香水、洗浴聖尊、洗浴竟已、身心清淨, chín con rồng ở trên không trung mà rưới nước hương thơm xuống, tắm rửa đấng thánh tôn; tắm rửa xong rồi, thân tâm trong sạch).” Nghi thức tắm các tôn tượng này vốn đã có từ thời xa xưa ở Ấn Độ, là một nhu cầu cần thiết về mặt tôn giáo để cầu phước diệt tội. Như trong Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō No. 310) quyển 100 có đề cập đến câu chuyện công chúa Vô Cấu Thí (無垢施), con gái của vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) như sau: “Kỳ nữ ư nhị nguyệt bát nhật Phật tinh hiện nhật, dữ ngũ bách Bà La Môn câu, trì mãn bình thủy, xuất chí thành ngoại dục tẩy thiên tượng (其女於二月八日佛星現日、與五百婆羅門俱、持滿瓶水、出至城外浴洗天像, người nữ ấy vào ngày mồng 8 tháng 2, ngày sao Phật xuất hiện, cùng với 500 vị Bà La Môn, cầm một cái bình đầy nước, ra ngoài thành tắm rửa bức tượng trời).” Trong Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳) quyển 4 của Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) nhà Đường có đoạn rằng: “Đại sư tuy diệt, hình tượng thượng tồn, kiều tâm như tại, lý ứng tôn kính; hoặc khả hương hoa mỗi thiết, năng sanh thanh tịnh chi tâm, hoặc khả quán mộc hằng vi, túc đãng hôn trầm chi nghiệp; … đản Tây quốc chư tự, quán mộc tôn nghi, mỗi ư nam trung chi thời, thọ sự tiện minh kiền chùy, tự đình trương thí bảo cái, điện trắc la liệt hương bình, thủ kim, ngân, đồng, thạch chi tượng, trí dĩ đồng, kim, mộc, thạch bàn nội, linh chư kỷ nữ tấu kỳ âm nhạc, đồ dĩ ma hương, quán dĩ hương thủy, dĩ tịnh bạch diệp nhi giai thức chi; nhiên hậu an trí điện trung, bố chư hoa thái, thử nãi tự chúng chi nghi (大師雖滅、形像尚存、翹心如在、理應尊敬、或可香花每設、能生清淨之心、或可灌沐恆爲、足盪昏沉之業、…但西國諸寺、灌沐尊儀、每於男中之時、授事便鳴楗椎、寺庭張施寶蓋、殿側羅列香瓶、取金、銀、銅、石之像、置以銅、金、木、石盤內、令諸妓女奏其音樂、塗以磨香、灌以香水、以淨白氎而揩拭之、然後安置殿中、布諸花彩、此乃寺眾之儀, Đại sư tuy đã diệt độ, nhưng hình tượng vẫn còn, tâm thành như còn sống, lý hợp với sự tôn kính; hoặc có thể mỗi lần thiết bày hương hoa, làm cho sanh tâm trong sạch; hay có thể tắm rửa tượng thường xuyên để tẩy sạch nghiệp hôn trầm; … hơn nữa, các chùa ở phương Tây [Ấn Độ], có nghi thức tắm tửa tôn tượng, mỗi khi đúng dịp người nam, người chịu trách nhiệm bèn đánh kiền chùy; nơi sân chùa giăng lọng báu, bên chánh điện bày biện các bình hương; lấy tượng bằng vàng, bạc, đồng, đá, đem dặt vào trong chậu bằng đồng, vàng, gỗ, đá; sai các kỷ nữ tấu âm nhạc, thoa hương thơm lên tượng, rưới nước hương thơm, rồi lấy khăn trắng lau sạch tượng; sau đó, đem tượng an trí trong điện, phủ các sắc hoa, đây là nghi thức của các chùa).” Khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, nghi thức này cũng được lưu truyền theo và ban đầu nó rất thịnh hành trong triều đình cũng như trong tầng lớp quan lại. Mãi cho đến thời đại Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều, nó trở thành phổ biến rộng khắp. Như trong Truyện Phật Đồ Trừng (佛圖澄傳) của Cao Tăng Truyện (高僧傳) quyển 10 có đề cập đến câu chuyện vị quốc chủ của nhà Hậu Triệu (後趙, 319-352) là Thạch Lặc (石勒, 319-333) đã từng vì con mà đến chùa hành lễ Tắm Phật: “Thạch Lặc chư trĩ tử, đa tại Phật tự trung dưỡng, mỗi chí tứ nguyệt bát nhật, Lặc cung tự nghệ tự quán Phật, vi nhi phát nguyện (石勒諸稚子、多在佛寺中養之、每至四月八日、勒躬自詣寺灌佛、爲兒發願, các con nhỏ của Thạch Lặc, phần lớn được nuôi dưỡng trong chùa; mỗi khi vào ngày mồng 8 tháng tư, Thạch Lặc kính thành đích thân đến chùa làm lễ Tắm Phật, vì con nhỏ mà phát nguyện như vậy).” Hoặc như trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 36, Điều Tống Hiếu Võ Đế Đại Minh Lục Niên (宋孝武帝大明六年, năm 462) có đoạn: “Tứ nguyệt bát nhật, đế ư nội điện quán Phật trai tăng (四月八日、帝於內殿灌佛齋僧, vào ngày mồng 8 tháng tư, nhà vua hành lễ Tắm Phật và Trai Tăng trong nội điện).” Hay trong Lưu Kính Tuyên Truyện (劉敬宣傳) của Tống Thư (宋書) quyển 47 có kể rằng: “Tứ nguyệt bát nhật, Kính Tuyên kiến chúng nhân quán Phật, nãi hạ đầu thượng kim kính dĩ vi mẫu quán, nhân bi khấp bất tự thắng (四月八日、敬宣見眾人灌佛、乃下頭上金鏡以爲母灌、因悲泣不自勝, vào ngày mồng 8 tháng tư, Kính Tuyên thấy mọi người tắm Phật, bèn lấy cái kính vàng trên đầu xuống, vì mẹ mà dội nước tắm, nhân đó buồn khóc chẳng tự kiềm chế được).” Cho nên, nghi thức Tắm Phật được thịnh hành từ ngàn xưa cho đến ngày nay. Về ngày tiến hành Lễ Phật Đản hay Lễ Tắm Phật, xưa nay có nhiều ký lục bất đồng như ngày mồng 8 tháng 2, mồng 8 tháng 4, hay mồng 8 tháng 12. Dưới thời Hậu Hán (後漢, 25-220), trong Ngô Thư (吳書) không ghi rõ ngày Tắm Phật của Trách Dung (笮融, ?-195); đến thời Bắc Triều thì phần lớn người ta tiến hành lễ này vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Tuy nhiên, từ thời nhà Lương (梁, 502-557), qua nhà Đường (唐, 618-907) đến đầu thời nhà Liêu (遼, 907-1125), đại để lễ hội này được tiến hành vào ngày mồng 8 tháng 2. Dưới thời nhà Bắc Tống (北宋, 960-1127) lại tổ chức vào ngày mồng 8 tháng chạp; nhưng Nam Tống thì tiến hành ngày mồng 8 tháng 4. Như đã nêu trên, trường hợp của Thạch Lặc nhà Hậu Triệu, Hiếu Võ Đế (孝武帝, 453-464) của nhà Lưu Tống (劉宋, 420-479), Lưu Kính Tuyên (劉敬宣, ?-415), v.v., đều tiến hành vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Trong khi đó, tác phẩm Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記) dưới thời nhà Lương lại ghi là ngày mồng 8 tháng 2. Trong Thích Huyền Uyển Truyện (釋玄琬傳) nhà Đường của Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) quyển 22 có đoạn rằng: “Uyển dĩ nhị nguyệt bát nhật Đại Thánh Đản Mộc chi thần, truy duy cựu chư, kính sùng dục cụ, mỗi niên như thử, khai giảng thiết trai, đại hội đạo tục (琬以二月八日大聖誕沐之辰、追惟舊緒、敬崇浴具、每年此日、開講設齋、大會道俗, Huyền Uyển lấy ngày mồng 8 tháng 2 làm ngày tắm Đản Sanh Đức Đại Thánh, theo lề lối xưa, kính sùng vật dụng tắm rửa, mỗi năm vào ngày này, thuyết giảng và bày cỗ chay, tập trung cả tăng lẫn tục).” Phần Lễ Chí (禮志) của Liêu Sử (遼史) quyển 53 cũng ghi ngày mồng 8 tháng 2 là ngày sanh của Thái Tử Tất Đạt Đa (s: Siddhārtha, p: Siddhattha, 悉達多). Trong phần Phật Đản Sanh Niên Đại (佛誕生年代) của Tăng Sử Lược (僧史略) quyển Thượng do Tán Ninh (贊寧, 919-1001) nhà Bắc Tống biên soạn có đoạn: “Kim Đông Kinh dĩ lạp nguyệt bát nhật dục Phật, ngôn Phật sanh nhật (今東京以臘月八日浴佛、言佛生日, nay kinh đô [lúc bấy giờ kinh đô nhà Tống là Khai Phong] lấy ngày mồng 8 tháng chạp làm ngày Tắm Phật, xem đó là ngày Phật hạ sanh).” Hay như Sự Văn Loại Tụ (事文類聚) của Chúc Mục (祝穆, ?-?) nhà Tống có ghi rằng: “Hoàng triều đông kinh thập nhị nguyệt sơ bát nhật, đô thành chư đại tự tác Dục Phật Hội, tinh tạo thất bảo ngũ vị chúc, vị chi Lạp Bát Chúc (皇朝東京十二月初八日、都城諸大寺作浴佛會、並造七寶五味粥、謂之臘八粥, vào ngày mồng 8 tháng 12, kinh đô hoàng triều, các chùa lớn trong thành đô đều tiến hành Lễ Hội Tắm Phật, làm thứ cháo có bảy loại báu và năm vị, gọi đó là Cháo Mồng Tám Tháng Chạp).” Bên cạnh đó, tác phẩm Tuế Thời Tạp Ký (歲時雜記) có đề cập rằng: “Chư kinh thuyết Phật sanh nhật bất đồng, kỳ chỉ ngôn tứ nguyệt bát nhật sanh giả vi đa; … cố dụng tứ nguyệt bát nhật quán phật dã; kim đản Nam phương giai dụng thử nhật, Bắc nhân chuyên dụng lạp nguyệt bát nhật, cận tuế nhân Viên Chiếu Thiền Sư lai Huệ Lâm, thỉ dụng thử nhật hành Ma Ha Sát Đầu Kinh pháp, tự thị sảo sảo tuân; … kỳ hậu Tống đô Khai Phong chư tự, đa thái dụng tứ nguyệt bát nhật dục Phật (諸經說佛生日不同、其指言四月八日生者爲多、…故用四月八日灌佛也。故用四月八日灌佛也、今但南方皆用此日,北人专用腊月八日,近岁因圆照禅师(1020—1099)来慧林(禅院),始用此日行《摩诃刹头经》法;自是稍稍遵(之)。今但南方皆用此日、北人專用臘月八日、近歲因圓照禪師來慧林、始用此日行摩訶剎頭經法、自是稍稍遵、…其後宋都開封諸寺、多采用四月八日浴佛, các điển tịch nói về ngày đản sanh của đức Phật không đồng nhất với nhau, phần lớn đều chỉ ngày mồng 8 tháng tư; … cho nên mới dùng ngày mồng 8 tháng tư để tiến hành Lễ Tắm Phật; nay phương Nam đều dùng ngày này, người phương Bắc lại chuyên dùng ngày mồng 8 tháng chạp; gần đây nhân khi Thiền Sư Viên Chiếu [1020-1099] đến Thiền Viện Huệ Lâm, bắt đầu dùng ngày này để hành pháp tu của Ma Ha Sát Đầu Kinh, từ đó có tuân theo chút ít; … về sau, các chùa trong Phủ Khai Phong thuộc kinh đô nhà Tống, phần lớn đều chọn lấy ngày mồng 8 tháng tư làm ngày Tắm Phật).” Từ đó, tác phẩm Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) quyển 8 ghi rõ rằng: “Tứ nguyệt bát nhật Phật sanh nhật, thập đại Thiền viện các hữu Dục Phật Trai Hội, tiễn hương dược đường thủy tương di, danh viết Dục Phật Thủy (四月八日佛生日、十大禪院各有浴佛齋會、煎香藥糖水相遺、名曰浴佛水, ngày mồng 8 tháng tư là ngày đản sanh của đức Phật, 10 Thiền viện lớn, mỗi chùa đều có Lễ Hội Trai Tăng Tắm Phật, nấu nước đường thuốc hương thơm ban bố khắp, tên gọi là Nước Tắm Phật).” Trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, do Trung Phong Minh Bổn [中峰明本, 1263-1323] biên soạn vào năm 1317) cũng như Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, được tu chỉnh vào năm 1336) dưới thời nhà Nguyên cũng quy định ngày mồng 8 tháng tư là ngày Khánh Đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Từ đó, trên toàn lãnh thổ Trung Quốc cũng thống nhất tổ chức Lễ Phật Đản vào ngày này. Như trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy quyển 2, Chương Báo Bổn (報本章), điều Phật Giáng Đản (佛降誕) có quy định cụ thể nghi thức Tắm Phật như sau: “Chí tứ nguyệt bát nhật, Khố Ty nghiêm thiết hoa đình, trung trí Phật giáng sanh tượng, ư hương thang bồn nội, an nhị tiểu tiêu; Phật tiền phu trần cúng dường tất; Trú Trì thượng đường chúc hương vân: 'Phật Đản linh thần, mỗ tự trú trì … kiền nhiệt bảo hương, cúng dường Bổn Sư Thích Ca Như Lai Đại Hòa Thượng, thượng thù từ ấm, sở kí pháp giới chúng sanh, niệm niệm chư Phật xuất hiện ư thế.' Trú Trì thuyết pháp cánh, lãnh chúng đồng đáo điện thượng; Trú Trì thượng hương tam bái nhiên hậu quỳ lô; Duy Na bạch Phật vân: 'Nhất nguyệt tại thiên, ảnh hàm chúng thủy; nhất Phật xuất thế, các tọa nhất hoa; Bạch Hào thư nhi Tam Giới minh, Cam Lồ sái nhi Tứ Sanh nhuận; … tuyên sớ tất, xướng Dục Phật Kệ (至四月八日、庫司嚴設花亭、中置佛降生像、於香湯盆內、安二小杓、佛前敷陳供養畢、住持上堂祝香雲、佛誕令辰,某寺住持…虔爇寶香、供養本師釋迦如來大和尚、上酬慈蔭、所冀法界眾生、念念諸佛出現於世、住持說法竟、領眾同到殿上、住持上香三拜然後跪爐、維那白佛云、一月在天、影涵眾水、一佛出世、各坐一華、白毫舒而三界明、甘露灑而四生潤、…宣疏畢、唱浴佛偈, đến ngày mồng 8 tháng tư, vị Tri Khố trang nghiêm thiết bày nhà hoa, bên trong an trí tượng Phật Đản Sanh, bỏ hai cái muỗng nhỏ bên trong cái bồn nước nóng hương thơm; trước tượng Phật bày biện các vật phẩm cúng dường; xong vị Trú Trì thượng đường niệm hương rằng: 'Khoảnh khắc linh thiêng đức Phật đản sanh, con Trú Trì chùa …, kính dâng hương báu tỏa khắp, cúng dường lên đức Đại Hòa Thượng Bổn Sư Thích Ca Như Lai, trên đền đáp ơn từ, mong khắp pháp giới chúng sanh, thường nhớ chư Phật xuất hiện trên đời; vị Trú Trì thuyết pháp xong, dẫn đại chúng cùng lên Chánh Điện, ông dâng hương, lạy ba lạy, sau đó quỳ xuống; vị Duy Na bạch Phật rằng: 'Một trăng trên trời, bóng hiện khắp chốn; một Phật ra đời, đều ngồi tòa sen; mày trắng buông mà Ba Cõi sáng, Cam Lồ rưới mà Bốn Loài thấm, … tuyên sớ xong, xướng bài Kệ Tắm Phật).” Đối với Việt Nam, bên cạnh ngày mồng 8, Lễ Phật Đản thường được tổ chức vào ngày rằm tháng tư Âm Lịch hằng năm. Như có đề cập ở trên, khi tiến hành Lễ Tắm Phật, bài Kệ Tắm Phật (căn cứ vào bài kệ trong Dục Phật Công Đức Kinh) được xướng tụng là: “Ngã kim quán mộc chư Như Lai, tịnh trí trang nghiêm công đức tụ, Ngũ Trược chúng sanh linh ly cấu, đồng chứng Như Lai tịnh Pháp Thân (我今灌沐諸如來、淨智莊嚴功德聚、五濁眾生令離垢、同證如來淨法身, con nay tắm gội các Như Lai, trí sạch trang nghiêm công đức lớn, chúng sanh Năm Trược xa cấu nhiễm, cùng chứng tịnh Pháp Thân Như Lai).” Về công đức Tắm Phật, trong Dục Phật Công Đức Kinh có liệt kê 15 loại: “Thiện nam tử, nhược hữu chúng sanh, năng tác như thị thắng cúng dường giả, thành tựu thập ngũ thù thắng công đức nhi tự trang nghiêm; nhất giả thường hữu tàm quý, nhị giả phát tịnh tín tâm, tam giả kỳ tâm chất trực, tứ giả thân cận thiện hữu, ngũ giả nhập vô lậu tuệ, lục giả thường kiến chư Phật, thất giả hằng trì chánh pháp, bát giả năng như thuyết hành, cửu giả tùy ý đương sanh tịnh Phật quốc độ, thập giả nhược sanh nhân trung đại tánh tôn quý nhân sở kính phụng sanh hoan hỷ tâm, thập nhất giả sanh tại nhân trung tự nhiên niệm Phật, thập nhị giả chư ma quân chúng bất năng tổn não, thập tam giả năng ư mạt thế hộ trì chánh pháp, thập tứ giả thập phương chư Phật chi sở gia hộ, thập ngũ giả tốc đắc thành tựu Ngũ Phần Pháp Thân (善男子、若有眾生、能作如是勝供養者、成就十五殊勝功德而自莊嚴、一者常有慚愧、二者發淨信心、三者其心質直、四者親近善友、五者入無漏慧、六者常见诸佛。 六者常見諸佛、七者恆持正法、八者能如說行、九者隨意當生淨佛國土、十者若生人中大姓尊貴人所敬奉生歡喜心、十一者生在人中自然念佛、十二者諸魔軍眾不能損惱、十三者能於末世護持正法、十四者十方諸佛之所加護、十五者速得成就五分法身, này thiện nam tử, nếu có chúng sanh nào có thể thực hiện sự cúng dường như vậy, sẽ thành tựu 15 loại công đức thù thắng để tự trang nghiêm; một là thường có sự hổ thẹn, hai là phát tín tâm trong sạch, ba là tâm của vị ấy ngay thẳng, bốn là gần gủi bạn tốt, năm là vào trí tuệ vô lậu, sáu là thường thấy chư Phật, bảy là thường giữ gìn chánh pháp, tám là có thể hành theo đúng với lời dạy, chín là tùy ý sẽ sanh về quốc độ thanh tinh của Phật, mười là nếu sanh vào cõi người thì được người dòng họ tôn quý kính phụng và sanh tâm hoan hỷ, mười một là nếu sanh trong cõi người thì tự nhiên niệm Phật, mười hai là chúng ma quân không thể làm cho tổn hại và gây rối, mười ba là có thể hộ trì chánh pháp vào thời mạt pháp, mười bốn là được mười phương chư Phật gia hộ, mười lăm là mau chóng thành tựu Năm Phần Pháp Thân).”
(千巖元長, Sengan Genchō, 1284-1357): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu Thiên Nham (千巖), tự là Vô Minh (無明), xuất thân Tiêu Sơn (蕭山), Việt Châu (越州, Tỉnh Triết Giang), họ Đổng (董). Năm lên 7 tuổi, ông cùng với Tỳ Kheo Đàm Phương (曇芳) nhập môn Pháp Môn Viện (法門院) ở Phú Dương (富陽, Tỉnh Triết Giang), rồi đến năm 19 tuổi thì xuất gia và thọ giới Cụ Túc. Sau đó, ông học về giới luật ở Linh Chi Tự (靈芝寺), Võ Lâm Sơn (武林山, Tỉnh Triết Giang) và cuối cùng kế thừa dòng pháp của Trung Phong Minh Bổn (中峰明本). Từ đó, ông bắt đầu giáo hóa ở Vô Minh Tự (無明寺) thuộc Phục Long Sơn (伏龍山), Ô Thương (烏傷). Vào tháng 10 năm thứ 4 (1327) niên hiệu Thái Định (泰定), ông tiến hành tu sửa Thánh Thọ Tự (聖壽寺) và làm trú trì chùa này. Ông được ban tặng cho một số danh hiệu như Phổ Ứng Diệu Trí Hoằng Biện (普應妙智弘辯), Phật Huệ Viên Giám Đại Nguyên Phổ Tế (佛慧圓鑑大元普濟), Phật Huệ Viên Minh Quảng Chiếu Vô Biên Phổ Lợi Đại Thiền Sư (佛慧圓明廣照無邊普利大禪師). Đến ngày 14 tháng 6 năm thứ 17 niên hiệu Chí Chánh (至正), ông thị tịch, hưởng thọ 74 tuổi đời và 56 hạ lạp. Ông có để lại tác phẩm Thiên Nham Hòa Thượng Ngữ Lục (千巖和尚語錄) 1 quyển.
(天如惟則, Tenjo Isoku, ?-1354): vị tăng của Phái Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Thiên Như (天如), người vùng Vĩnh Tân (永新), Cát An (吉安, Tỉnh Giang Tây), họ Đàm (譚). Lúc nhỏ ông lên Hương Sơn (香山), xuống tóc xuất gia, rồi đến tham học với Trung Phong Minh Bổn (中峰明本) ở Thiên Mục Sơn (天目山) và kế thừa dòng pháp của vị này. Về sau, ông dừng chân trú tại Sư Tử Lâm (師子林) ngoài Thành Cô Tô (姑蘇城), Tô Châu (蘇州, Tỉnh Giang Tô) và cổ xướng Thiền phong của mình. Ông có bộ Sư Tử Lâm Thiên Như Hòa Thượng Ngữ Lục (師子林天如和尚語錄) 9 quyển, và được ban tặng hiệu là Phật Tâm Phổ Tế Văn Huệ Đại Biện Thiền Sư (佛心普濟文慧大辨禪師). Vào năm thứ 14 niên hiệu Chí Chánh (至正), ông thị tịch. Trong Tịnh Độ Đàm Chung (淨土曇鐘) 10 có thâu lục các tác phẩm của ông như Lăng Già Kinh Viên Thông Sớ (楞伽經圓通疏), Thiền Tông Ngữ Lục (禪宗語錄), Tịnh Độ Hoặc Vấn (淨土或問), Thập Pháp Giới Đồ Thuyết (十法界圖說), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập