Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trung Luận »»
(吉藏, Kichizō, 549-623): vị tăng sống dưới thời nhà Tùy, người vùng Kim Lăng (金陵), họ An (安), tên Thế (貰), tổ tiên ông người An Tức (安息, dân tộc Hồ), sau dời đến Kim Lăng, cho nên ông được gọi là An Cát Tạng (安吉藏), Hồ Cát Tạng (胡吉藏). Năm lên 3, 4 tuổi, ông theo cha đến yết kiến Chơn Đế (眞諦), nhân đó Chơn Đế đặt cho ông tên là Cát Tạng. Sau cha ông xuất gia, có pháp danh Đạo Lượng (道諒). Ông thường theo cha đến Hưng Hoàng Tự (興皇寺) nghe Pháp Lãng (法朗) giảng thuyết về Tam Luận (三論), và năm lên 7 tuổi (có thuyết cho là 13 tuổi) ông theo vị này xuống tóc xuất gia. Pháp Lãng là người truyền thừa giáo học Tam Luận của hệ thống Cưu Ma La Thập (鳩摩羅什), cho nên ông thường học tập Trung Luận (中論), Bách Luận (百論) và Thập Nhị Môn Luận (十二門論). Năm 19 tuổi, lần đầu tiên ông đăng đàn thuyết pháp, rồi năm 21 tuổi thọ Cụ Túc giới, danh tiếng ngày càng cao. Vào năm đầu (581) niên hiệu Khai Hoàng (開皇) nhà Tùy, lúc ông 32 tuổi, Pháp Lãng qua đời, ông bèn vân du về phía Đông đến Gia Tường Tự (嘉祥寺) thuộc vùng Cối Kê (會稽), Triết Giang (浙江), lưu lại nơi đây chuyên tâm thuyết giảng và trước tác, người đến học đạo lên đến hơn ngàn người. Bên cạnh đó, ông còn viết chú sớ cho các thư tịch Tam Luận, phần nhiều đều được hoàn thành ở chùa này, cho nên hậu thế gọi ông là Gia Tường Đại Sư (嘉祥大師). Ngoài việc hình thành hệ thống Tam Luận Tông, ông còn tinh thông cả các kinh Đại Thừa như Pháp Hoa, Niết Bàn, v.v. Vào tháng 8 năm thứ 17 niên hiệu Khai Hoàng (開皇), ông gởi thư mời Thiên Thai Trí Khải Đại Sư (天台智顗大師) đến tuyên giảng giáo nghĩa Pháp Hoa. Vào năm thứ 2 (606, có thuyết cho là năm thứ 2 [602] niên hiệu Nhân Thọ [仁壽], hay năm cuối [616] niên hiệu Đại Nghiệp [大業]) niên hiệu Đại Nghiệp (大業), vua Dương Đế (煬帝) hạ chiếu mở 4 đạo tràng, ông phụng sắc chỉ đến trú tại Huệ Nhật Đạo Tràng (慧日道塲) ở Dương Châu (揚州) vùng Giang Tô (江蘇). Chính bộ Tam Luận Huyền Nghĩa (三論玄義) tương truyền do ông trước tác được hoàn thành trong khoảng thời gian này. Sau đó, ông chuyển đến Nhật Nghiêm Tự (日嚴寺) ở Trường An (長安), hoằng đạo vùng Trung Nguyên. Ngoài ra, ông còn đi khắp các nơi diễn giảng kinh để hoằng dương Tam Luận Tông, cho nên ông được xem như là vị tổ tái hưng của tông phái này. Ông đã từng biện luận với Tăng Sán (僧粲), vị luận sư nổi tiếng đương thời, ứng đáp trôi chảy, cả hai bên trãi qua hơn 40 lần đối đáp như vậy, cuối cùng ông thắng cuộc. Từ năm đầu (605) niên hiệu Đại Nghiệp (大業) cho đến cuối đời nhà Tùy (617), ông sao chép 2.000 bộ Kinh Pháp Hoa, tạo 25 tôn tượng, chí thành lễ sám. Vào năm đầu (618) niên hiệu Võ Đức (武德) nhà Đường, tại Trường An vua Cao Tổ tuyển chọn ra 10 vị cao tăng đức độ để thống lãnh tăng chúng, ông được chọn vào trong số đó. Thêm vào đó, đáp ứng lời thỉnh cầu của 2 chùa Ứng Thật (應實) và Định Thủy (定水), ông đến làm trú trì, nhưng sau dời về Diên Hưng Tự (延興寺). Đến tháng 5 năm thứ 6 niên hiệu Võ Đức (武德), trước khi mạng chung, ông tắm rửa sạch sẽ, đốt hương niệm Phật, viết cuốn Tử Bất Bố Luận (死不怖論, Luận Không Sợ Chết) xong mới an nhiên thị tịch, hưởng thọ 75 tuổi. Bình sanh ông giảng thuyết Tam Luận (三論) hơn 100 lần, Pháp Hoa Kinh (法華經) hơn 300 lần, Đại Phẩm Kinh (大品經), Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經), Duy Ma Kinh (維摩經), Đại Trí Độ Luận (大智度論), v.v., mỗi loại khoảng 10 lần. Môn hạ của ông có những nhân vật kiệt xuất như Huệ Lãng (慧朗), Huệ Quán (慧灌), Trí Khải (智凱), v.v. Trước tác của ông cũng rất phong phú như Trung Quán Luận Sớ (中觀論疏), Thập Nhị Môn Luận Sớ (十二門論疏), Bách Luận Sớ (百論疏), Tam Luận Huyền Nghĩa (三論玄義), Đại Thừa Huyền Luận (大乘玄義), Pháp Hoa Huyền Luận (法華玄論), Pháp Hoa Nghĩa Sớ (法華義疏), v.v. Ngoài ra, ông còn có một số sách chú thích cũng như lược luận của các kinh điển Đại Thừa như Pháp Hoa, Niết Bàn, Thắng Man, Đại Phẩm, Kim Quang Minh, Duy Ma, Nhân Vương, Vô Lượng Thọ, v.v.
(s: Kumārajīva, j: Kumarajū, 鳩摩羅什, 344-413, có thuyết cho là 350-409): âm dịch tiếng Phạn là Cứu Ma La Thập (究摩羅什), Cưu Ma La Thập Bà (鳩摩羅什婆), Cưu Ma La Đổ Bà (鳩摩羅耆婆), Cưu Ma La Thời Bà (鳩摩羅時婆), Câu Ma La Đổ Bà (拘摩羅耆婆), gọi tắt là La Thập (羅什), ý dịch là Đồng Thọ (童壽), còn gọi là La Thập Tam Tạng (羅什三藏). Ông người gốc nước Quy Tư (龜兹, thuộc vùng Sớ Lặc [疏勒], Tân Cương [新疆]), một trong 4 nhà dịch kinh vĩ đại của Trung Quốc. Cả cha mẹ ông đều tin thờ Phật. Cha là Cưu Ma La Viêm (鳩摩羅炎), gốc người Ấn Độ, từ bỏ ngôi vị Tể Tướng và xuất gia. Sau đó, ông đi du hóa khắp nơi, đến nước Quy Tư thuộc trung ương Châu Á, được quốc vương nước này kính mộ, rồi kết hôn với em gái nhà vua là Đổ Bà (耆婆) và sanh ra được một người con. Tên của Cưu Ma La Thập được hợp thành bởi tên cha (Cưu Ma La Viêm) và mẹ (Đổ Bà). Lúc nhỏ La Thập đã thông mẫn, năm lên 7 tuổi theo cha nhập đạo tu tập, rồi đi du học khắp xứ Thiên Trúc (天竺), tham cứu khắp các bậc tôn túc nổi tiếng đương thời, nghe rộng và ghi nhớ kỹ, nên tiếng tăm vang khắp. Sau đó ông trở về cố quốc, nhà vua trong nước tôn kính ông làm thầy. Vua Phù Kiên (符堅) nhà Tiền Tần (前秦) nghe đức độ của ông, bèn sai tướng Lữ Quang (呂光) đem binh đến rước ông. Lữ Quang chinh phạt miền Tây giành thắng lợi, rồi đến nghênh đón La Thập về kinh, nhưng giữa đường nghe Phù Kiên qua đời, bèn tự xưng vương ở Hà Tây (河西), do đó La Thập phải lưu lại Lương Châu (涼州) 16, 17 năm. Mãi cho đến khi Diêu Hưng (姚興) nhà Hậu Tần tấn công dẹp tan nhà họ Lữ, La Thập mới có thể đến Trường An (長安) được, tức là sau khi Đạo An (道安) qua đời 16 năm. Lúc bấy giờ là năm thứ 5 (401) niên hiệu Long An (隆安) nhà Đông Tấn. Diêu Hưng bái ông làm Quốc Sư, thỉnh ông đến trú tại Tiêu Dao Viên (逍遙園), cùng với Tăng Triệu (僧肇), Tăng Nghiêm (僧嚴) tiến hành công tác dịch kinh. Từ đó về sau, vào tháng 4 năm thứ 5 (403) niên hiệu Hoằng Thỉ (弘始) nhà Hậu Tần (後秦), La Thập bắt đầu dịch Trung Luận (中論), Bách Luận (百論), Thập Nhị Môn Luận (十二門論), Bát Nhã (般若), Pháp Hoa (法華), Đại Trí Độ Luận (大智度論), A Di Đà Kinh (阿彌陀經), Duy Ma Kinh (維摩經), Thập Tụng Luật (十頌律), v.v. Có nhiều thuyết khác nhau về số lượng kinh luận do ông phiên dịch. Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集) cho là 35 bộ, 294 quyển. Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋敎錄) là 74 bộ, 384 quyển. Từ khi Phật Giáo được truyền vào Trung Hoa, số lượng kinh điển Hán dịch ngày càng tăng nhiều, tuy nhiên lối dịch phần nhiều không thông suốt, văn chương khó hiểu, chẳng nhất trí với nguyên bản. Riêng La Thập thì vốn thông hiểu nhiều ngôn ngữ ngoại quốc, cho nên nội dung phiên dịch của ông hoàn toàn khác xa với các dịch bản trước đây, văn thể tuy giản dị nhưng súc tích, rõ ràng. Suốt đời La Thập đã đem tất cả năng lực của mình để phiên dịch các kinh điển Đại Thừa thuộc hệ Bát Nhã, cùng với những luận thư của học phái Trung Quán thuộc hệ Long Thọ (龍樹), Đề Bà (提婆). Những kinh điển Hán dịch của ông có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự phát triển Phật Giáo ở Trung Hoa. Sau này Đạo Sanh (道生) truyền Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận về phương Nam, kinh qua Tăng Lãng (僧朗), Tăng Thuyên (僧詮), Pháp Lãng (法朗), cho đến Cát Tạng (吉藏) nhà Tùy thì hình thành hệ thống Tam Luận Tông, và thêm vào Đại Trí Độ Luận (大智度論) để thành lập học phái Tứ Luận. Ngoài ra, Kinh Pháp Hoa (法華經) do ông phiên dịch đã tạo nhân duyên cho Thiên Thai Tông ra đời; Thành Thật Luận (成實論) là điển tịch trọng yếu của Thành Thật Tông; A Di Đà Kinh (阿彌陀經) cũng như Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (十住毘婆沙論) là kinh luận sở y của Tịnh Độ Tông. Bên cạnh đó, Di Lặc Thành Phật Kinh (彌勒成佛經) giúp cho tín ngưỡng Di Lặc phát triển cao độ; Phạm Võng Kinh (梵綱經) ra đời làm cho toàn Trung Quốc được truyền Đại Thừa giới; Thập Tụng Luật (十頌律) trở thành tư liệu nghiên cứu quan trọng về Luật học. Môn hạ của La Thập có hơn 3.000 người, trong số đó những nhân vật kiệt xuất có Đạo Dung (道融), Tăng Duệ (僧叡), Tăng Triệu (僧肇), Đạo Sanh (道生), Đàm Ảnh (曇影), Huệ Quán (慧觀), Đạo Hằng (道恒), Đàm Tế (曇濟), Tăng Đạo (僧導), v.v. Ông được kính ngưỡng như là vị tổ của Tam Luận Tông. Vào năm thứ 9 (413, có thuyết cho là năm thứ 5 [409]) niên hiệu Nghĩa Hy (義熙), ông thị tịch, hưởng thọ 70 tuổi.
(大明法師, Daimyō Hōshi, ?-?): hay còn gọi là Quýnh Pháp Sư (炅法師), chính là thầy của Ngưu Đầu Pháp Dung (牛頭法融, 594-657), người sau này được đưa vào hệ Thiền Tông. Ông vốn là học giả của Tam Luận Tông, sống dưới thời Tùy Đường, đã từng tu học với Pháp Lãng (法朗, 507-581) ở Hưng Hoàng Tự (興皇寺), Dương Đô (楊都, Nam Kinh). Sau đó ông vào Mao Sơn (茅山, cách 45 dặm về phía đông nam Huyện Cú Dung, Giang Tô), chuyên tâm hoằng dương Trung Luận (中論) và cho đến cuối đời không một lần hạ sơn. Môn hạ của ông có Huệ Hạo (慧暠), Pháp Mẫn (法敏), Huệ Lăng (慧稜), Huệ Tuyền (慧璿), v.v.
(童齔): có hai nghĩa:
(1) Tuổi ấu thơ, đồng niên. Như trong Cựu Đường Thư (舊唐書), Truyện Bùi Hưu (裴休傳) có câu: “Hưu chí thao kiên chánh, đồng sấn thời, huynh đệ đồng học ư Tế Nguyên biệt thự (休志操堅正、童齔時、兄弟同學於濟源別墅, Hưu chí vững kiên trì, lúc tuổi nhỏ, anh em cùng học nơi biệt thự của Tế Nguyên).” Hay như trong Quách Tân Giai Truyện (郭新楷傳) của Vương Khải Vận (王闓運, 1833-1916) cũng có câu: “Đồng sấn dĩnh dị, sổ tuế tang phụ, cô cư Trường Sa (童齔穎異、數歲喪父、孤居長沙, lúc nhỏ khác thường, mấy năm sau để tang cha, sống một mình nơi Trường Sa).”
(2) Chỉ cho tiểu nhi, đứa con nít. Như trong Bắc Sử (北史), Truyện Hàn Kỳ Lân (韓麒麟傳) có đoạn rằng: “Giả lịnh nhất xứ đàn tranh, xuy địch, hoãn vũ trường ca, nhất xứ nghiêm sư khổ huấn, tụng thi giảng lễ, tuyên lịnh đồng sấn, nhậm ý sở tùng (假令一處彈箏、吹笛、緩舞長歌、一處嚴師苦訓、誦詩講禮、宣令童齔、任意所從, giả ra lịnh cho một nơi chơi đàn tranh, thổi sáo, nhảy múa, ca hát; một nơi khác thì có thầy nghiêm khắc, dạy khó khăn, đọc thơ giảng lễ nghi, rồi ra lịnh bảo trẻ nít, tùy ý theo nơi nào).” Hơn nữa, Thuyết Văn (說文) có giải thích rõ rằng: “Nam bát nguyệt sanh xỉ, bát tuế nhi sấn; nữ thất nguyệt sanh xỉ, thất tuế nhi sấn (男八月生齒、八歲而齔、女七月生齒、七歲而齔, nam tám tháng mọc răng, tám tuổi mọc răng già; nữ bảy tháng mọc răng, bảy tuổi mọc răng già).” Cho nên trẻ em 7, 8 tuổi còn được gọi là Đồng Sấn (童齔). Trẻ lên 9 tuổi là Cửu Linh (九齡). Trong Chu Thư (周書), quyển 12, Liệt Truyện (列傳) thứ 4, phần Tề Dương Vương Hiến (齊煬王憲) có đoạn rằng: “Tề Dương Vương Hiến tự Tỳ Hạ Đột, Thái Tổ đệ ngũ tử dã; tánh thông mẫn, hữu độ lượng, tuy tại đồng sấn, nhi thần thái ngực nhiên (齊煬王憲字毗賀突、太祖第五子也、性通敏、有度量、雖在童齔、而神彩嶷然, Tề Dương Vương Hiến tự là Tỳ Hạ Đột, con thứ năm của Thái Tổ [tại vị 479-482]; tánh thông mẫn, có độ lượng, tuy đang còn nhỏ tuổi mà thần thái khác người).” Trong Ma Ha A Di Đà Kinh Trung Luận (摩訶阿彌陀經衷論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 401) có câu rằng: “Dư đồng sấn thời, nhật tùng tiên tỉ chú hương đảnh lễ, cập thập tuế quá hương đôn, văn kỳ sư phương thọ chư đệ Mạnh Tử thư (余童齔時、日從先妣炷香頂禮、及十歲過鄉墩、聞其師方授諸弟孟子書, lúc ta tuổi còn bé, hằng ngày theo mẹ đã quá vãng thắp hương đảnh lễ, đến mười tuổi khi đi qua ụ đất của làng, nghe vị thầy ấy dạy cho học trò sách Mạnh Tử).” Hoặc như trong Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋敎錄, Taishō Vol. 55, No. 2154) quyển 3, truyện của Phật Đà Bạt Đà La (s: Buddhabhadra, 佛陀跋陀羅) cũng có câu: “Kỳ đồng sấn xuất gia, dĩ thông giải kinh luận, thiếu thọ nghiệp ư Đại Thiền Sư Phật Đại Tiên (其童齔出家、已通解經論、少受業於大禪師佛大先, Ngài xuất gia lúc bé, đã thông hiểu kinh luận, lớn lên thọ giáo với Đại Thiền Sư Phật Đại Tiên).”
(慧布, Efu, 518-587): vị tăng sống dưới thời nhà Trần thuộc Nam Triều, người vùng Quảng Lăng (廣陵, Giang Đô, Giang Tô), họ Hác (郝). Năm 21 tuổi, ông xuất gia, ban đầu theo Quỳnh Pháp Sư (瓊法師) ở Kiến Sơ Tự (建初寺) thuộc Quận Dương (楊郡) học Thành Thật Luận (成實論), sau nghe Tăng Thuyên (僧詮) ở Chỉ Quán Tự (止觀寺) thuộc Nhiếp Sơn (攝山) giảng về Trung Luận (中論), Bách Luận (百論), Thập Nhị Môn Luận (十二門論), thấu đạt huyền chỉ của 3 bộ luận này. Ông thường vui ngồi Thiền, thề không giảng thuyết, ngồi ngay ngắn như thân cây. Sau ông đến thăm Thiền Sư Huệ Khả (慧可) ở kinh đô Nghiệp, rồi du học nước Tề, viết chương sớ 6 cuốn mang về Giang Nam (江南). Sau khi trở về Dương Đô (楊都), gặp lúc Hầu Cảnh (候景) gây loạn, tuy chịu khổ nhọc, nhưng ông vẫn không hề thối chí trong việc hoằng truyền giáo pháp. Trong khoảng thời gian niên hiệu Chí Đức (至德, 583-586), ông kiến lập Thê Hà Tự (棲霞寺) ở Nhiếp Sơn, danh tiếng vang xa, cho nên vương tôn công tử đều quy y theo, kính thờ ông như Phật. Vào năm đầu (587) niên hiệu Trinh Minh (禎明), ông tuyệt thực mà thoát hóa, hưởng thọ 70 tuổi. Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林) quyển 82 cho rằng ông thọ hơn 70.
(s: śūnya, p: suñña, 空): cái không có thực thể cố định, thiếu tánh thực thể. Trong lịch sử số học, người Ấn Độ phát hiện đầu tiên con số zero (0, không). Từ con số không này, khái niệm số phụ (số âm) được xác lập. Nó được truyền vào Châu Âu thông qua Ả Rập, số học cận đại ra đời và khao học cũng như kỹ thuật tự nhiên cũng theo đó phát triển. Từ śūnya vốn dựa trên cơ sở của śūna, được hình thành từ tiếp đầu ngữ śū (=śvā, śvi, mở rộng, bành trướng), có nghĩa là không hư, rỗng không, khiếm khuyết, nội bộ trống rỗng, v.v. Ý nghĩa này có xuất hiện trong các điển tịch Phật Giáo thời kỳ đầu như: “Hãy phá đi kiến giải chấp trước về tự ngã, và quán sát thế gian là không (Kinh Tập [p: Suttanipāta, 經集] 1119)”; hay “Vào căn nhà trống vắng để trấn tĩnh tâm (Pháp Cú Kinh [p: Dhammapada, 法句經] 373)”, v.v. Đặc biệt, trong Tiểu Không Kinh (小空經) của Trung Bộ (p: Majjhimanikāya, 中部) 121, Trung A Hàm Kinh (中阿含經) quyển 49, có dạy rằng: “Giảng đường này không có bò, nếu nói về bò là không (thiếu khuyết). Tuy nhiên, có Tỳ Kheo; nếu nói về Tỳ Kheo thì chẳng phải là không (có cái còn lại).” Như vậy, cái khiếm khuyết và cái còn lại được xem như là không có. Từ đó, thực tiễn quán pháp gọi là “không” được hướng dẫn vào; Không Tam Muội (空三昧) đồng hành với Vô Tướng Tam Muội (無相三昧) và Vô Nguyện Tam Muội (無願三昧); ba loại Tam Muội này được gọi là Tam Giải Thoát Môn (三解脫門, Ba Cửa Giải Thoát). Đặc biệt, cách dùng này được phục hoạt trong Đại Thừa Phật Giáo thời Trung Kỳ trở đi và lấy chủ trương này để làm căn cứ. Lại nữa, Đại Không Kinh (大空經) của Trung Bộ 122, Trung A Hàm Kinh quyển 49, thể hiện rõ các tướng của Không như Nội Không, Ngoại Không và Nội Ngoại Không. Thêm vào đó, cũng có tư liệu nêu rõ mối quan hệ giữa Không và Duyên Khởi (緣起) như Tương Ưng Bộ (p: Saṁyuttanikāya, 相應部) 20.7, Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經, kinh 1258). Cách dùng về Không trong Bộ Phái Phật Giáo cũng gần tương tự với Phật Giáo thời kỳ đầu, và trong giai đoạn như trình bày ở trên thì Không vẫn chưa đạt đến tư tưởng trung tâm của Phật Giáo. Khi Bát Nhã Kinh (般若經) xuất hiện, Không được phục hồi và chủ trương mạnh. Trong kinh này, Không thể hiện sự phủ định nghiêm khắc, bài trừ đến tận cùng hết thảy mọi cố định. Tác phẩm hình thành hệ thống lý luận Không này là Trung Luận (s: Mādhyamakakārikā, 中論) của Long Thọ (s: Nāgārjuna, 龍樹, khoảng 150-250), v.v. Long Thọ cho rằng hết thảy mọi tồn tại, vận động, cơ năng, yếu tố và các thứ khác, cũng như ngôn ngữ biểu hiện chúng, đều thành lập trên tính quan hệ phức tạp đa dạng hay Duyên Khởi; hơn nữa, tính quan hệ ấy lại mâu thuẩn lẫn nhau, phủ định liên tục để cùng nhau tồn tại. Việc này xảy ra ngay trong đời thường của chúng ta. Nơi đây, tự tánh (thực thể độc lập tồn tại với tự thân nó) theo cái nhìn thực thể về các yếu tố, v.v., hoàn toàn tiêu diệt mất, căn cứ cũng như thật thái của nó là Không, và mối quan hệ Duyên Khởi-Vô Tự Tánh-Không được xác lập; ngôn ngữ với tư cách là Giả thuộc loại quá độ cũng được công nhận. Phật Giáo từ thời Long Thọ trở về sau đã kế thừa tư tưởng Không Quán (空觀) này; không phải chỉ có Ấn Độ mà Đại Thừa Phật Giáo của Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, v.v., tất cả đều triển khai các thuyết theo ảnh hưởng này. Đặc biệt, ở Trung Quốc, xuất hiện tư tưởng “Đạo là không” (Lão Tử [老子] 40), “người thông với Đạo là vô tâm” (Trang Tử [莊子], chương Thiên Địa [天地]), “Đạo chẳng phải có, cũng chẳng phải không” (Trang Tử, chương Tắc Dương [則陽]), v.v. Cho đến Triệu Luận (肇論) giải thích về 3 loại Không là Bổn Vô (本無), Tâm Vô (心無) và Tức Sắc (卽色). Như vậy, Không ở đây có nghĩa là chẳng phải có cũng chẳng phải không có; hơn nữa, nó cũng vừa là có mà cũng vừa là không có. Nhìn thoáng qua, chúng ta thấy như có mâu thuẩn; nhưng đó là phản ánh rõ ràng trưng thực tính giới hạn cũng như tự kỷ mâu thuẩn của hết thảy tồn tại, ngôn ngữ, hiện thực, con người, thế giới, v.v. Đồng thời, Không cũng triệt để tương đối hóa đến bất cứ nơi đâu và thai nghén chí hướng nhắm đến tuyệt đối.
(靈山): tiếng gọi tắt của Linh Thứu Sơn (靈鷲山), hay còn gọi là Thứu Phong (鷲峰), Thứu Lãnh (鷲嶺), tiếng phiên âm của nguyên ngữ Sanskrit là Kỳ Xà Quật Sơn (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山), tên ngọn núi nằm ở phía Đông Bắc Thành Vương Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), hiện tại nằm ở phía Đông Rajgir của Ấn Độ. Đây là một trong những thánh địa của Phật Giáo, là nơi đức Phật đã từng thuyết pháp; cho nên người ta cho rằng phần lớn các kinh điển Đại Thừa như Pháp Hoa, Bát Nhã, Đại Bảo Tích, Vô Lượng Thọ, v.v., và cũng như câu chuyện Niêm Hoa Vi Tiếu của Thiền Tông đều phát xuất từ đây. Trong bộ Long Hưng Phật Giáo Biên Niên Thông Luận (隆興佛敎編年通論) quyển 12 do Thạch Thất Sa Môn Tổ Tú (石室沙門祖琇) ở Phủ Long Hưng (隆興府) soạn, có đoạn: “Huyền Trang … sưu dương Tam Tạng tận Long Cung chi sở trữ, nghiên cứu Nhất Thừa cùng Thứu Lãnh chi di chỉ, tinh dĩ tải ư Bạch Mã hoàn hiến Tử Thần, tầm mông hạ chiếu sắc sứ phiên dịch (玄奘…搜揚三藏盡龍宮之所儲、研究一乘窮鷲嶺之遺旨、並已載於白馬還獻紫宸、尋蒙下詔敕使翻譯, Huyền Trang … tìm tòi Tam Tạng kinh điển tận chốn Long Cung tàng trữ, nghiên cứu giáo lý Nhất Thừa soi rõ yếu chỉ của Thứu Lãnh, cùng bỏ lên Bạch Mã mang về dâng Hoàng triều, mong trên hạ chiếu cho người phiên dịch).” Trong bài thơ Linh Ẩn Tự (靈隱寺) của thi sĩ Tống Chi Vấn (宋之問, khoảng 656-712) đầu thời nhà Đường có câu trứ danh là: “Thứu Lãnh uất thiều nghiêu, Long Cung tỏa tịch liêu, lâu quán thương hải nhật, môn đối Triết Giang triều, quế tử nguyệt trung lạc, thiên hương vân ngoại phiêu (鷲嶺鬱岧嶢、龍宮鎖寂寥、樓觀滄海日、門對浙江潮、桂子月中落、天香雲外飄, Thứu Lãnh rậm vút cao, Long Cung mờ tịch liêu, trên lầu biển xanh ngắm, cửa tựa Triết Giang triều, hàng quế trăng thầm rụng, hương trời mây trắng bay).” Hoặc trong bài Hòa Vương Ký Thất Tùng Triệu Vương Xuân Nhật Du Đà Sơn Tự (和王記室從趙王春日遊陀山寺) của Lạc Tân Vương (駱賓王, khoảng 619-687) nhà Đường cũng có câu: “Điểu dư bồi phỏng đạo, Thứu Lãnh hiệp thê chơn, Tứ Thiền minh tĩnh nghiệp, Tam Không quảng thắng nhân, tường hà sơ điệp giản, huệ nhật kiểu trùng luân, diệp ám Long Cung mật, hoa minh Lộc Uyển xuân (鳥旟陪訪道、鷲嶺狎棲眞、四禪明靜業、三空廣勝因、祥河疏疊澗、慧日皎重輪、葉暗龍宮密、花明鹿苑春, cờ xí lên vấn đạo, Thứu Lãnh dưỡng nuôi chơn, Bốn Thiền sáng nghiệp lắng, Ba Không rõ duyên nhân, sông từ trong khe mát, trời tuệ tỏ thế nhân, lá che Long Cung thẳm, hoa tươi Lộc Uyển xuân).”
(蟻忱): từ khiêm cung, thể hiện sự chân thành đến tận cùng như con kiến nhỏ nhoi vậy; đồng nghĩa với nghĩ khổn (蟻悃). Như trong tác phẩm Trùng Luận Văn Trai Bút Lục (重論文齋筆錄) của Vương Đoan Lí (王端履, ?-?) nhà Thanh có câu: “Túng kiệt nghị thầm, nan thù hồng tạo (縱竭蟻忱、難酬鴻造, dốc hết tâm thành, khó đáp hồng ân).”
(s: sarva-jñatā, sarva-jña, sarva-jñāna, p: sabba-ñöa, 一切智) [thuật]: âm dịch là Tát Bà Nhã (薩婆若), Tát Bà Nhã Đa (薩婆若多), là một trong 3 loại trí (nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết chủng trí [s: sarvajña-jñāna, sarvajñatā, sarva-jña, 一切種智]), là trí tuệ thông đạt hết thảy trong ngoài, biết hết thảy các pháp. Hữu Bộ cho đây là trí tuệ của Phật, và cũng có thuyết cho rằng trí tuệ này thông cả hai thừa Thanh Văn và Duyên Giác. Nó đối với nhất thiết chủng trí, có hai nghĩa chung và riêng. Nếu theo nghĩa chung, nó được gọi là Phật trí, cùng nghĩa với nhất thiết chủng trí. Nếu theo nghĩa riêng, nhất thiết chủng trí là trí nhìn thấy sự khác nhau của sự tướng. Nhất thiết trí là trí tuệ nhìn hiện tượng giới một cách bình đẳng, có tánh không. Nếu nói về nghĩa chung, trong Phẩm Thí Dụ của Kinh Pháp Hoa (法華經) có đoạn rằng: “Cần tu tinh tấn, cầu nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí (勤修精進、求一切智、佛智、自然智、無師智, siêng tu tinh tấn để cầu được trí tuệ biết hết tất cả, trí tuệ của Phật, , trí tuệ tự nhiên, trí tuệ không cần thầy chỉ dẫn)”. Cùng kinh trên, Phẩm Hóa Thành Dụ có đọan rằng: “Vi Phật nhất thiết trí, phát đại tinh tấn (爲佛一切智、發大精進, vì trí biết hết thảy của Phật mà phát khởi sự tinh tấn lớn)”. Kinh Nhân Vương (仁王經) quyển hạ dạy rằng: “Mãn túc vô lậu giới, thường tịnh giải thoát thân, tịch diệt bất tư nghì, danh vi nhất thiết trí (滿足無漏界、常淨解脫身、寂滅不思議、名爲一切智, cõi đầy đủ vô lậu, thân thường trong sạch giải thoát, vắng lặng không nghĩ bàn, đó gọi là trí tuệ biết hết tất cả)”. Phần cuối quyển 9 của Trung Luận Sớ (中論疏) có đoạn rằng: “Tri nhất thiết pháp, danh nhất thiết trí (知一切法、名一切智, biết hết thảy các pháp được gọi là trí hiểu biết hết tất cả)”. Kế đến, nếu nói về nghĩa riêng, đó là trí tuệ biết được hết thảy lý không bình đẳng. Pháp Hoa Kinh Sớ (法華經疏) 2 của ngài Gia Tường (嘉祥) có giải thích rằng: “Bát Nhã Tam Huệ Phẩm vân: 'Tri nhất thiết pháp nhất tướng, cố danh nhất thiết trí; hựu vân tri chủng chủng tướng cố danh nhất thiết chủng trí (般若三慧品云、知一切法一相、故名一切智、又云知種種相故名一切種智, Phẩm Bát Nhã Tam Huệ dạy rằng: 'Biết tất cả các pháp một tướng nên gọi là nhất thiết trí; biết tất cả các loại tướng nên gọi là nhất thiết chủng trí')”. Cùng quyển trên có giải thích thêm rằng: “Nhất thiết trí giả, vị không trí dã (一切智者、謂空智也, trí biết hết tất cả là trí không)”. Trí Độ Luận (智度論) 27 có đoạn rằng: “Luận nhất thiết chủng trí chi sai biệt, hữu nhân ngôn vô sai biệt, hoặc thời ngôn nhất thiết chủng trí; hữu nhân ngôn tổng tướng thị nhất thiết, biệt tướng thị nhất thiết chủng trí; nhân thị nhất thiết trí, quả thị nhất thiết chủng trí; lược thuyết nhất thiết trí, quảng thuyết nhất thiết chủng trí; nhất thiết trí tổng phá nhất thiết pháp trung vô minh ám, nhất thiết chủng trí quán chủng chủng pháp môn phá chư vô minh (論一切種智之差別、有人言無差別、或時言一切種智、有人言總相是一切、別相是一切種智、因是一切智、果是一切種智、略說一切智、廣說一切種智、一切智總破一切法中無明闇、一切種智觀種種法門破諸無明, Khi luận về sự khác nhau của nhất thiết chủng trí, có người cho rằng không có khác nhau, hay có khi gọi là nhất thiết chủng trí; có người lại cho rằng tướng chung là hết thảy các trí, tướng riêng là nhất thiết chủng trí, nhân là nhất thiết trí, còn quả là nhất thiết chủng trí; nói riêng là nhất thiết trí, nói rộng ra là nhất thiết chủng trí; nhất thiết trí thì phá tan toàn bộ sự tối tăm, vô minh của tất cả các pháp; còn nhất thiết chủng trí thì quán từng loại pháp môn để phá các vô minh)”. Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章) 10 cho rằng: “Cử lục chủng chi sai biệt, hựu dĩ danh Thanh Văn, Duyên Giác chi trí (舉六種之差別、又以名聲聞緣覺之智, nêu lên được 6 loại sai biệt, đó gọi là trí của Thanh Văn và Duyên Giác)”. Trí Độ Luận (智度論) 27 giải thích thêm rằng: “Hậu phẩm trung Phật thuyết nhất thiết trí, thị Thanh Văn, Bích Chi Phật sự, đạo trí thị Bồ Tát sự, nhất thiết chủng trí thị Phật sự, Thanh Văn, Bích Chi Phật câu hữu tổng nhất thiết trí, vô hữu nhất thiết chủng trí (後品中佛說明一切智、是聲聞辟支佛事、道智是菩薩事、一切種智是佛事、聲聞辟支佛倶有總一切智、無有一切種智, trong phẩm sau đức Phật nói về nhất thiết trí là trí của Thanh Văn và Bích Chi Phật, đạo trí là trí của Bồ Tát, nhất thiết chủng trí là trí của Phật, Thanh Văn và Bích Chi Phật đều có chung nhất thiết trí, nhưng không có nhất thiết chủng trí)”.
(一味): có hai nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho loại mùi vị. Như trong Trung Luận (中論), chương Trị Học (治學) của Từ Cán (徐幹, 170-217) nhà Hán có câu: “Gia thiện chi hòa, phi thủ hồ nhất vị (嘉膳之和、非取乎一味, khen mâm cỗ hài hòa, không phải chỉ lấy một vị mà khen).” (2) Chỉ cho giáo pháp của Như Lai, giống như Cam Lộ. Như trong Phẩm Dược Thảo Dụ (藥草喻品) của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 3 có câu: “Như Lai thuyết pháp, nhất tướng nhất vị (如來說法、一相一味, đức Như Lai thuyết pháp, một tướng một vị).” Hay trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 5 lại có câu: “Hựu giải thoát giả, danh vi nhất vị (又解脫者、名爲一味, lại nữa, giải thoát được gọi là một vị).” Hoặc trong Đại Thừa Khởi Tín Luận Nghĩa Ký (大乘起信論義記, Taishō Vol. 44, No. 1846) quyển Trung lại có đoạn rằng: “Phi sanh phi diệt, bất động bất chuyển, bình đẳng nhất vị, tánh vô sai biệt, chúng sanh tức Niết Bàn (非生非滅、不動不轉、平等一味、性無差別、眾生卽涅槃, chẳng sanh chẳng diệt, không động không chuyển, bình đẳng một vị, tánh không sai khác, chúng sanh là Niết Bàn).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập