Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trời Đế Thích »»
(半言): nửa lời, còn gọi là bán kệ (半偈, nửa bài kệ). Theo Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經) quyển 14, Phẩm Thánh Hạnh (聖行品), xưa kia khi Như Lai chưa xuất hiện trên đời, lúc bấy giờ đức Phật Thích Ca thị hiện là một người ngoại đạo Bà La Môn, tinh thông hết thảy các học vấn, hành vi rất nhu hòa, tịch tĩnh, tâm thanh tịnh, vô nhiễm. Vị ấy có chí nguyện muốn tìm học kinh điển Đại Thừa; nhưng trãi qua một thời gian lâu mà không có kết quả. Sau ông vào trong núi Tuyết Sơn tu khổ hạnh, hành Thiền định và chờ đợi đấng Như Lai xuất hiện để được nghe giáo pháp Đại Thừa. Thấy vậy, Trời Đế Thích bèn biến hóa thành một con quỷ La Sát rất hung dữ, đáng sợ, bay đến gần chỗ vị tiên nhân, rồi lớn tiếng tuyên thuyết nửa bài kệ tụng do trước kia đã từng nghe từ đức Như Lai rằng: “Chư hành vô thường, hữu sinh hữu diệt (諸行無常、有生有滅, các hành vô thường, có sinh thì có diệt)”, và đến bên tiên nhân đảo mắt hung tợn nhìn khắp bốn phương. Nghe xong nửa bài kệ này, tiên nhân cảm thấy như có được thuốc hay để trị lành căn bệnh lâu ngày, như rơi xuống nước mà được thuyền cứu vớt, như đất hạn hán lâu ngày gặp nước mưa, như thân hình bị giam hãm lâu ngày nay được phóng thích; nên thân tâm rất hoan hỷ. Tiên nhân đứng dậy nhìn quanh, chỉ thấy con quỷ La Sát thân hình hung tợn, nên rất hồ nghi không biết ai đã tuyên thuyết câu kệ vi diệu như vậy; cuối cùng mới biết do con quỷ La Sát thuyết. Vị tiên nhân chí thành cầu xin con quỷ nói tiếp nửa bài kệ sau; sau nhiều lần thử thách, con quỷ vẫn không bằng lòng; cho nên vị tiên nhân phát nguyện hiến cả thân mạng cho con quỷ đói, chỉ với mục đích là nghe được chánh pháp mà thôi. Nhân đó, quỷ La Sát thuyết nửa bài kệ sau: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc (生滅滅已、寂滅爲樂, Sinh diệt diệt hết, vắng lặng an vui)”. Nghe xong, vị Bà La Môn biết câu kệ này rất có lợi ích cho mọi người, liền khắc lên khắp nơi như vách đá, thân cây, v.v., để lưu truyền cho hậu thế. Sau đó, ông leo lên cây cao, buông mình xuống để xả thân cho con quỷ đói ăn, theo như lời phát nguyện. Lúc bấy giờ, trên không trung văng vẳng âm thanh vi diệu, các vua trời cùng Trời Đế Thích hiện nguyên thân hình đón lấy thân thể vị Bà La Môn, cung kính đãnh lễ và cầu xin hóa độ cho họ trong tương lai. Nhờ nhân duyên xả thân mạng để nghe được nửa câu kệ như vậy, sau 12 kiếp tu hành, vị Bà La Môn thành Phật trước cả Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, 彌勒). Hơn nữa, trong Bách Nghiệp Kinh (百業經), có đề cập đến câu chuyện tiền thân của đức Phật là của Tích Phổ Quốc Vương (昔普國王) cũng tương tự như vậy; song nội dung chuyện và văn kệ có phần khác. Đức vua là người có tâm từ bi lớn, chuyên bố thí khắp mọi người, thương yêu thần dân hết mực. Trời Đế Thích thấy vậy muốn thử tâm của nhà vua, bèn biến thành con quỷ La Sát, đến trước vua tuyên thuyết nửa bài kệ rằng: “Chư pháp giai vô thường, nhất thiết sinh diệt tánh (諸法皆無常、一切生滅性, các pháp đều vô thường, tất cả có tánh sinh diệt)”. Nghe xong pháp xong, đức vua sanh tâm hoan hỷ, liền cung kính đãnh lễ La Sát và cầu xin cho nghe nửa bài kệ sau với lời phát nguyện sẽ dâng hiến thịt máu của vua cho con quỷ. Trước lời thỉnh cầu chí thành của nhà vua, quỷ La Sát nói tiếp nửa bài kệ sau là: “Sinh diệt tức diệt tận, bỉ đẳng tịch diệt lạc (生滅卽滅盡、彼等寂滅樂, Sinh diệt đã diệt hết, ấy niềm vui vắng lặng)”. Sau khi nghe được cả bài kệ, đức vua lấy toàn bộ thịt máu của mình dâng cho quỷ La Sát. Lúc bấy giờ, đại địa chấn động, trời người rải hoa cúng dường và tán thán đại nguyện của Tích Phổ Quốc Vương. Sau này, Huyền Trang (玄奘, 602-664) có làm bài “Đề Bán Kệ Xả Thân Sơn (題半偈捨身山)” rằng: “Hốt văn bát tự siêu thi cảnh, bất tích đơn xu xả thử sơn, kệ cú thiên lưu phương thạch thượng, nhạc âm thời tấu bán không gian (忽聞八字超詩境、不惜丹軀捨此山、偈句篇留方石上、樂音時奏半空間, chợt nghe tám chữ siêu thi hứng, chẳng tiếc thân mình bỏ núi non, câu kệ còn lưu trên vách đá, nhạc âm vang vọng nửa không gian)”. Ngoài ra, Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺, 675-713), tác giả của bài Chứng Đạo Ca (証道歌), cũng có Bán Cú Kệ rằng: “Sanh dã điên đảo, tử dã điên đảo (生也顚倒、死也顚倒, sống cũng điên đảo, chết cũng điên đảo).”
(s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利): tức Đao Lợi Thiên (忉利天, Trời Đao Lợi), âm dịch là Đa La Dạ Đăng Lăng Xá (多羅夜登陵舍), còn gọi là Tam Thập Tam Thiên (三十三天, Trời Ba Mươi Ba). Theo vũ trụ quan Phật Giáo, cõi trời này nằm ở tầng thứ 2 của 6 cõi trời Dục Giới, là thiên giới do Trời Đế Thích (帝釋天) cư ngụ, ở trên đỉnh núi Tu Di (s: Sumeru, 須彌山). Bốn phương trên đỉnh Tu Di có 8 thành trời, cọng thêm ở giữa có Thiện Kiến Thành (善見城, hay Hỷ Kiến Thành [喜見城]) của Trời Đế Thích), tổng cọng là 33 trú xứ, nên có tên gọi như vậy. Theo Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh (正法念處經) quyển 25, 33 cõi trời có các tên gọi khác nhau, gồm: Trú Thiện Pháp Đường Thiên (住善法堂天), Trú Phong Thiên (住峯天), Trú Sơn Đảnh Thiên (住山頂天), Thiện Kiến Thành Thiên (善見城天), Bát Tư Địa Thiên (鉢私地天), Trú Câu Tra Thiên (住倶吒天), Tạp Điện Thiên (雜殿天), Trú Hoan Hỷ Viên Thiên (住歡喜園天), Quang Minh Thiên (光明天), Ba Lợi Da Đa Thọ Viên Thiên (波利耶多樹園天), Hiểm Ngạn Thiên (險岸天), Trú Tạp Hiểm Ngạn Thiên (住雜險岸天), Trú Ma Ni Tạng Thiên (住摩尼藏天), Toàn Hành Địa Thiên (旋行地天), Kim Điện Thiên (金殿天), Man Ảnh Xứ Thiên (鬘影處天), Trú Nhu Nhuyễn Địa Thiên (住柔軟天), Tạp Trang Nghiêm Thiên (雜莊嚴天), Như Ý Địa Thiên (如意地天), Vi Tế Hành Thiên (微細行天), Ca Âm Hỷ Lạc Thiên (歌音喜樂天), Uy Đức Luân Thiên (威德輪天), Nguyệt Hành Thiên (月行天), Diêm Ma Bà La Thiên (閻魔婆羅天), Tốc Hành Thiên (速行天), Ảnh Chiếu Thiên (影照天), Trí Tuệ Hành Thiên (智慧行天), Chúng Phân Thiên (眾分天), Trú Luân Thiên (住輪天), Thượng Hành Thiên (上行天), Uy Đức Nhan Thiên (威德顔天), Uy Đức Diệm Luân Thiên (威德燄輪天), và Thanh Tịnh Thiên (清淨天). Chúng hữu tình trên cõi trời Đao Lợi có thân dài một do tuần, thọ mạng 1.000 tuổi (100 năm trên cõi thế bằng 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này), ăn các thức ăn trong sạch. Khi mới sanh ra, con người ở đây giống như hình dạng đứa bé 6 tuổi của cõi người, sắc diện tròn đầy, áo quần tự có. Hơn nữa, cõi trời này có đầy đủ các loại châu báu, những lầu đài, trang viên, hồ tắm tráng lệ, v.v. Từ xưa, tín ngưỡng cho rằng Đao Lợi Thiên là trú xứ của Trời Đế Thích, đã thịnh hành tại Ấn Độ. Tương truyền sau khi qua đời, Hoàng Hậu Ma Da thác sanh lên cõi trời này; cho nên, sau khi thành đạo, đức Phật đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân trong vòng 3 tháng. Sự việc này được ghi lại rất rõ trong Phật Thăng Đao Lợi Thiên Vị Mẫu Thuyết Pháp Kinh (佛昇忉利天爲母說法經, Taishō No. 815), hay trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh (地藏菩薩本願經, Taishō No. 412), Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông Phẩm (忉利天宮神通品). Bên cạnh đó, trong Phật Quốc Ký (佛國記) của Pháp Hiển (法顯, 340?-?) nhà Tấn có câu: “Phật thướng Đao Lợi Thiên tam nguyệt, vị mẫu thuyết pháp (佛上忉利天三月、爲母說法, đức Phật lên cung Trời Đao Lợi ba tháng, vì mẹ thuyết pháp).” Hay như trong Trường Sanh Điện (長生殿), phần Bổ Hận (補恨) của Hồng Thăng (洪昇, 1645-1704) nhà Thanh lại có đoạn: “Ngã đương thượng tấu Thiên Đình, sử nhĩ lưỡng nhân thế cư Đao Lợi Thiên trung, vĩnh viễn thành song, dĩ bổ tùng tiền ly biệt chi hận (我當上奏天庭、使你兩人世居忉利天中、永遠成雙、以補從前離別之恨, ta sẽ tâu lên Thiên Đình, giúp hai ngươi đang sống trong cõi Trời Đao Lợi, vĩnh viễn được thành đôi lứa, để bù vào nỗi hận cách biệt trước kia).” Ngoài ra, trong bài Tần Châu Thiên Thủy Quận Mạch Tích Nhai Phật Kham Minh (秦州天水郡麥積崖佛龕銘) của Dữu Tín (庾信, 513-581) thời Bắc Chu lại có câu: “Ảnh hiện Tu Di, hương văn Đao Lợi (影現須彌、香聞忉利, ảnh hiện Tu Di, hương nghe Đao Lợi).”
(s: Indra, p: Inda, 帝釋天, Trời Đế Thích): xem Thích Đề Hoàn Nhân (s: Śakra Devānāmindra, 釋提桓因).
(s: Śakra Devānāmindra, 釋提桓因): Thích Đề Hoàn Nhân (釋提桓因), còn gọi là Đế Thích Thiên (s: Indra, p: Inda, 帝釋天, Trời Đế Thích), Năng Thiên Chủ (能天主), Thiên Chủ Đế Thích (天主帝釋), Thiên Đế Thích (天帝釋), Thiên Đế (天帝), Đao Lợi Thiên Vương (忉利天王); âm dịch là Thích Ca Đề Hoàn Nhân Đà La (釋迦提桓因陀羅); còn có các tên gọi khác như Nhân Đà La (因陀羅), Kiều Thi Ca (憍尸迦), Ta Bà Bà (娑婆婆), Thiên Nhãn (千眼), v.v. Nguyên lai, Ngài là vị thần của Ấn Độ Giáo, thời cổ đại Ấn Độ gọi là Nhân Đà La. Vì được thần cách hóa như là ánh sáng chớp của sấm sét, dưới thời đại Veda, vị này được xem như là có sức mạnh nhất trong các vị thần, thường hay đánh nhau với ác thần A Tu La. Người Trung Quốc thường gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝). Theo các kinh luận cho biết, xưa kia vị này là người dòng dõi Bà La Môn ở nước Ma Già Đà (摩伽陀), nhờ có phước đức tu tập hạnh Bố Thí, được sanh lên cung trời Đao Lợi (s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利), làm Thiên chủ của 33 cõi trời. Trời Đế Thích trú tại Thành Thiện Kiến (善見城), cung điện tối cao của cõi Trời Ba Mươi Ba, nơi có ngọn Tu Di Sơn (須彌山) cao nhất trên mặt đất, và cai trị địa giới. Cùng với Phạm Thiên, vị trời này được xem như là vị thần bảo vệ của Phật Giáo. Hai bên Trời Đế Thích có 10 vị Thiên tử hầu hạ thường xuyên. Về cõi Trời Ba Mươi Ba, do vì trước kia vị trời này đã cùng với 32 người khác tu tập thiện nghiệp tại nước Ma Kiệt Đà. Tương truyền xưa kia, sau khi đức Phật Ca Diếp qua đời, có một người nữ phát tâm tu sửa tháp của Ngài, rồi lại có thêm 32 người khác trợ lực. Tất cả sau khi qua xả bỏ báo thân này thì cùng được sanh cõi Trời Đao Lợi. Do đó, chung quanh cõi Trời này có 32 cung điện của 32 người kia; còn ở giữa là Đế Thích, tổng cọng là 33. Ngài có 3 vị phu nhân tên Viên Sanh (園生), Thiện Pháp (善法), Xá Chi (赦支). Tại phía Đông Bắc của cung điện Trời Đế Thích có cây Viên Sanh; phía Tây Nam có Thiện Pháp Đường (善法堂). Trời Đế Thích thường tập trung chư Thiên thuyết pháp tại đây. Nếu Trời Đế Thích đi nữa, chư Thiên vẫn cung kính chỗ ngồi của Ngài, xem như Ngài có mặt. Tuổi thọ của Ngài rất dài, một ngày một đêm trên cõi Trời ấy bằng 100 năm dưới cõi người, tính 36.000 năm của con người làm 1 tuổi của Ngài. Mỗi nữa tháng vào các ngày trai giới, Trời Đế Thích thường hạ lịnh Tứ Thiên Vương, Thái Tử, Thị Giả, v.v., thám sát thiên hạ vạn dân, xem thử thiện ác, tà chánh thế nào. Nếu nghe chúng sanh nhiều việc ác, không hiếu thuận cha mẹ, không kính trọng thầy tổ, không bố thí cho người nghèo khốn, tức làm cho chư Thiên buồn phiền, giảm tổn đi, và làm cho chúng A Tu La tăng trưởng. Và ngược lại, nếu nghe chúng sanh làm các việc thiện nhiều, hiếu thuận cha mẹ, tôn kính thầy tổ, siêng năng tu tập trai giới, bố thí cho người nghè khốn, nhờ vậy chư thiên vô cùng hoan hỷ, số lượng tăng thêm; và chúng A Tu La giảm xuống. Sau khi đức Phật thành đạo, Trời Đế Thích trở thành thần thủ hộ cho Ngài. Khi đức Phật lên cung Trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân, Trời Đế Thích tạo thành bậc cấp bằng 7 thứ báu, đích thân Ngài cầm lọng báu che đức Phật đi từ trên xuống. Sau đó, Trời Đế Thích cung thỉnh Phật thuyết pháp trong cung điện. Ngài từng hóa hiện ra nhiều thân hình để hóa độ, khuyên răn mọi người làm lành tránh dữ, bố thí, cúng dường. Ngài tuy là vua của tất cả chư Thiên, thống lãnh muôn loài, như từ tâm vô lượng. Tương truyền có một con quỷ Dạ Xoa thân hình rất nhỏ, nhan sắc đen thùi, xấu xí, hung ác, ngồi trên ngai của Trời Đế Thích. Thấy vậy chư Thiên tức giận, muốn đánh đuổi con quỷ ấy đi. Trời Đế Thích bảo rằng: “Vị này tên là Trợ Sân Quỷ (助瞋鬼, quỷ giúp cho sân hận).” Bèn trịch áo, bày vai bên phải, tay cầm lò hương thưa với quỷ Dạ Xoa rằng: “Thưa đại tiên, tôi là Trời Đế Thích đây.” Thưa như vậy ba lần. Nghe xong, thân hình quỷ Dạ Xoa biến nhỏ dần và tiêu mất. Cho nên, dù làm vua cõi Trời đi nữa, nhưng Trời Đế Thích cũng không bao giờ làm tổn thương muôn vật, lấy đức từ để hóa độ chúng sanh. Về hình tượng, vị này thường thể hiện hình trời người, cỡi voi trắng, tay phải cầm cây chày báu Tam Cô, hay cây Chày Kim Cang; tay trái đặt trên bắp vế.
(s: deva-pura, 天宮): âm dịch là Nê Phược Bổ La (泥縛補羅), là cung điện của trời cư trú, hay chỉ cung điện của Trời Đế Thích (帝釋天). Từ đó, nó có nghĩa là trời, trời xanh. Như trong Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh (大方廣圓覺修多羅了義經, Taishō No. 842) có đoạn rằng: “Chúng sanh quốc độ, đồng nhất pháp tánh, Địa Ngục Thiên Cung, giai vi Tịnh Độ, hữu tánh vô tánh, tề thành Phật đạo (眾生國土、同一法性、地獄天宮、皆爲淨土、有性無性、齊成佛道, chúng sanh quốc độ, cùng một pháp tánh, Địa Ngục Thiên Cung, đều là Tịnh Độ, có tánh không tánh, đều thành Phật đạo).” Hay trong Phật Thuyết Thiện Sanh Tử Kinh (佛說善生子經, Taishō No. 17) cũng có câu: “Dữ thân chúng tòa an, như Thích xử Thiên Cung (與親眾座安、如釋處天宮, cùng chúng thân ngồi yên, như trời ngự Thiên Cung).”
(s, p: Sumeru, 須彌山): âm dịch là Tô Mê Lô (蘇迷盧), Tu Di Lâu (須彌樓), ý dịch là Diệu Cao Sơn (妙高山). Theo như thuyết về vũ trụ của Ấn Độ cổ đại, ngay trong tâm của một thế giới có núi Tu Di, dưới núi ấy có các lớp chồng chất lên nhau theo thứ tự là Địa Luân, Thủy Luân, Phong Luân, Chung quanh núi ấy có bao bọc giao nhau bởi 9 ngọn núi và 8 biển, ở 4 phương trong biển phía bên ngoài có quần đảo, trong hòn đảo phía Nam (Nam Diêm Phù Đề) có con người cư trú. Trên Tu Di sơn cây Hương rất sum sê và ở 4 phương có 4 vị thiên vương, phía trên đỉnh núi có Trời Đế Thích với 33 cung điện của cõi trời, mặt trời và mặt trăng thường xuyên chiếu sáng ngay trong lòng núi này.
(s: śarīra, p: sarīra, 舍利): âm dịch là Thật Lợi (實利), Thiết Lợi La (設利羅), Thất Lợi La (室利羅); ý dịch là tử thi (死屍), di cốt (遺骨), xác chết, thân, thể, thân cốt (身骨), di thân (遺身). Thông thường, từ này được dùng để chỉ cho di cốt của đức Phật, nên có tên là Phật cốt (佛骨), Phật Xá Lợi (佛舍利); về sau chỉ cho phần xương cốt lưu lại sau khi hỏa thiêu của chư vị cao tăng. Bảo tháp nơi được an trí Xá Lợi Phật được gọi là Xá Lợi Tháp (舍利塔), bình có an trí Xá Lợi thì gọi là Xá Lợi Bình (舍利瓶), hay pháp hội cúng dường Xá Lợi Phật thì có tên là Xá Lợi Hội (舍利會). Như trong Hợp Bộ Kim Quang Minh Kinh (合部金光明經, Taishō Vol. 16, No. 664) quyển 8 định nghĩa rằng: “Thử Xá Lợi giả, thị Giới Định Tuệ chi sở huân tu, thậm nan khả đắc, tối thượng phước điền (此舍利者、是戒定慧之所熏修、甚難可得、最上福田, Xá Lợi này được huân tu bởi Giới Định Tuệ, thật khó có được, là ruộng phước tối thượng).” Dục Phật Công Đức Kinh (浴佛功德經, Taishō Vol. 16, No. 698) chia Xá Lợi làm 2 loại: (1) Sanh Thân Xá Lợi (生身舍利), tức di cốt của đức Phật; (2) Pháp Thân Xá Lợi (法身舍利), hay Pháp Tụng Xá Lợi (法頌舍利), là giáo pháp, giới luật của Ngài để lại và lấy Xá Lợi để ví dụ. Trong khi đó, Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 40 lại phân Xá Lợi làm 3 loại: (1) Cốt Xá Lợi (骨舍利, Xá Lợi xương), có màu trắng; (2) Phát Xá Lợi (髮舍利, Xá Lợi răng), màu đen; (3) Nhục Xá Lợi (肉舍利, Xá Lợi thịt), màu đỏ. Xá Lợi nói chung chủ yếu là mảnh xương, có hình trạng lớn nhỏ bất đồng, cứng chắc, nhỏ vụn, thường như hạt đậu. Theo kinh điển cho biết rằng Xá Lợi đức Phật được chia làm 3 phần cho chư Thiên, Long Vương và con người. Trong đó, tương truyền Trời Đế Thích (s: Indra, p: Inda, 帝釋天) thì nhận Xá Lợi răng, đem về Trời cúng dường, nhưng bị quỷ chạy nhanh đoạt mất một miếng. Ngoài việc lễ bái Xá Lợi đức Phật, còn có truyền thống lễ bái Xá Lợi của các tôn giả A Nan (s, p: Ānanda, 阿難), Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連), Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), v.v. Bên cạnh đó, lễ bái các Thánh địa như nơi đức Phật đản sanh, gốc cây Bồ Đề nơi Ngài Thành Đạo, tòa báu Kim Cang, nơi Ngài từng đi kinh hành, v.v., đều có ý nghĩa tạo nhân duyên gọi là “gặp Phật nghe pháp” để sớm thành đạo quả. Về sự kiện sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, 8 quốc gia phân phối Xá Lợi của Ngài như thế nào, các kinh điển ghi lại rất rõ. Theo Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Vol. 1, No. 1) quyển 4, Du Hành Kinh (遊行經) thứ 2, lúc bấy giờ dân chúng Mạt La (p: Malla, 末羅) của nước Ba Bà (p: Pāvā, 波婆) muốn có được Xá Lợi để dựng tháp cúng dường ngay tại xứ sở mình, bèn chuẩn bị 4 loại binh lính đến thành Câu Thi Na (s: Kuśinagara, p: Kusinagara, 拘尸那), sai sứ giả cầu xin phân chia Xá Lợi. Thế nhưng, quốc vương nước này lại bảo rằng đức Phật diệt độ tại nước ông, nên dân chúng trong nước có thể tự lo liệu cúng dường và từ chối không chia Xá Lợi. Đồng thời, dân chúng Bạt Ly (p: Buli, 跋離) của nước Già La Phả (p: Allakappa, 遮羅頗), dân chúng Câu Lợi (p: Koḷiya, 拘利) của nước La Ma Già (p: Rāmagāma, 羅摩伽), chúng Bà La Môn của nước Tỳ Lưu Đề (p: Veṭhadīpa, 毘留提), dân chúng dòng họ Thích Ca (p: Sakya, 釋迦) của nước Ca Tỳ La Vệ (p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛), dân chúng Ly Xa (p: Licchavī, 離車) của nước Tỳ Xá Ly (p: Vesālī, 毘舍離), vua A Xà Thế (p: Ajātasattu, 阿闍世) của nước Ma Kiệt Đà (p: Magadha, 摩掲陀); mỗi đoàn đều chuẩn bị 4 loại binh lính, tiến qua sông Hằng. Trong khi đó, Bà La Môn Hương Tánh (香姓) cũng xin chia Xá Lợi, nhưng bị từ chối. Các nước nhất tề muốn dùng sức mạnh của binh khí, đao gậy để tranh giành; song Bà La Môn Hương Tánh ngăn cản, khuyên họ không nên làm như vậy; bèn phân chia Xá Lợi cho 8 quốc gia. Các nước nhận được Xá Lợi xong, trở về bôn quốc, dựng tháp cúng dường. Trong Ngụy Thư (魏書), phần Thích Lão Chí (釋老志), có đoạn: “Phật ký tạ thế, hương mộc phần thi, linh cốt phân toái, đại tiểu như lạp, kích chi bất hoại, phần diệt bất tiêu, hoặc hữu quang minh thần nghiệm, Hồ ngôn vị chi Xá Lợi, đệ tử thâu phụng, trí chi bảo bình, kiệt hương hoa, trí kính mộ, kiến cung vũ, vị chi tháp (佛旣謝世、香木焚屍、靈骨分碎、大小如粒、擊之不壞、焚亦不燋、或有光明神驗、胡言謂之舍利、弟子收奉、置之寶瓶、竭香花、致敬慕、建宮宇、謂爲塔, đức Phật đã qua đời, lấy gỗ thơm đốt thi hài, linh cốt chia nhỏ ra, lớn nhỏ như hạt gạo, đập vào không vỡ, đem đốt không cháy, hoặc có ánh sáng linh nghiệm, người Hồ [Tàu] gọi đó là Xá Lợi, đệ tử thu gom thờ phụng, đặt vào trong bình báu, dốc hết hương hoa [cúng dường], tận tâm kính mộ, kiến lập cung điện nhà cửa, gọi đó là tháp).” Hay trong tác phẩm Cổ Kim Tiểu Thuyết (古今小說, tức Dụ Thế Minh Ngôn [喻世明言]) quyển 30, phần Minh Ngộ Thiền Sư Cản Ngũ Giới (明悟禪師趕五戒), của Bằng Mộng Long (馮夢龍, 1574-1646) nhà Thanh, lại có đoạn: “Tụng xong, Trà Tỳ chi thứ, kiến hỏa trung nhất đạo thanh yên, trực thấu vân đoan, yên trung hiển xuất Viên Trạch toàn thân bổn tướng, hiệp chưởng hướng không nhi khứ; thiểu yên, Xá Lợi như vũ, chúng tăng thâu cốt nhập tháp (頌畢、茶毗之次、見火中一道青煙、直透雲端、煙中顯出圓澤全身本相、合掌向空而去、少焉、舍利如雨、眾僧收骨入塔, sau khi đọc bài tụng xong, khi làm lễ Trà Tỳ [hỏa thiêu], thấy trong lửa có một làn khói xanh, xuyên thẳng lên tầng mây, trong làn khói ấy hiện rõ toàn thân hình tướng của Thiền Sư Viên Trạch, chấp tay hướng không trung mà đi; lát sau, Xá Lợi như mưa, chúng tăng thu gom cốt nhập tháp).” Hoặc trong Tục Truyền Đăng Lục (續傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2077) quyển 36, phần Tịnh Từ Trọng Dĩnh Thiền Sư Pháp Từ (淨慈仲穎禪師法嗣), Ôn Châu Giang Tâm Nhất Sơn Thiền Sư (溫州江心一山禪師), cũng có đoạn rằng: “Hoàng Khánh nguyên niên thập nhất nguyệt nhị thập lục nhật, cấu tật nguy toạn bất cận dược; duyệt thất nhật, mạng cụ dục cánh y, xuất cứ thất kỷ, thư quyết chúng ngữ tọa thệ; Xà Duy thâu ngũ sắc Xá Lợi như thục, bất khả kế, song mục tình bất tẫn (皇慶元年十一月二十六日、遘疾危坐不近藥、閱七日、命具浴更衣、出據室几、書訣眾語坐逝、闍維收五色舍利如菽、不可計、雙目睛不燼, vào ngày 26 tháng 12 năm đầu [1312] niên hiệu Hoàng Khánh [đời vua Nhân Tông nhà Nguyên], Thiền Sư nhuốm bệnh, vẫn ngồi ngay thẳng mà không uống thuốc; trãi qua 7 ngày, ngài bảo tắm rửa, thay áo quần, ra ngồi tựa vào ghế dựa của thất, viết thư giã từ vài lời rồi ngồi mà ra đi; khi làm lễ Xà Duy [hỏa thiêu], thâu Xá Lợi năm màu nhiều như hạt đậu, không đếm được, hai tròng mắt không cháy thành tro).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập