Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Trực giác của tâm thức là món quà tặng thiêng liêng và bộ óc duy lý là tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh tên đầy tớ và quên đi món quà tặng. (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honor the servant and has forgotten the gift.)Albert Einstein
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tri Phủ »»

(陰府): tên gọi khác của Minh Phủ (冥府, xin tham khảo thêm phần Minh Phủ), Âm Ty (陰司), Địa Ngục (地獄). Như trong Tân Tề Hài (新齊諧), phần Trang Minh Phủ (莊明府) của Viên Mai (袁枚, 1716-1797) nhà Thanh có câu: “Yến tất, Trang tri vi Âm Phủ, nhân vấn chung thân chi sự khả dự Tri Phủ (宴畢、莊 知爲陰府、因問終身之事可預知否, xong yến tiệc, họ Trang mới biết là Âm Phủ, bèn hỏi chuyện qua đời có thể biết trước được chăng).”
(s, p: candana, 栴檀 hay 旃檀): âm dịch là Chiên Đàn Na (栴檀那), Chơn Đàn (眞檀), là tên của một loại cây có hương thơm ở các vùng nhiệt đới như Ấn Độ, v.v. Nó là loại thực vật, cây rất to lớn, cao đến mấy trượng, gỗ của nó có mùi thơm ngào ngạt, thuộc khoa Sơn Trà (山茶). Người ta thường dùng nó để tạc tượng Phật và Bồ Tát, còn rễ của nó thì nghiền thành bột làm hương. Có các loại như Hoàng Đàn (黃檀), Bạch Đàn (白檀), Xích Đàn (赤檀), Tử Đàn (紫檀), v.v., phần lớn được dùng làm thuốc. Như cây Bạch Đàn thì trị bệnh sốt, còn Xích Đàn thì trị phù thủng. Nếu nói về hương thì loại Bạch Đàn là thơm nhất. Trong Ngũ Khổ Chương Cú Kinh (五苦章句經, hay Tịnh Trừ Tội Cái Ngu Lạc Phật Pháp Kinh [淨除罪盍娛樂佛法經], do Trúc Đàm Vô Lan [竺曇無蘭] nhà Đông Tấn dịch) có giải thích về loại thực vật quý hiếm này rằng: “Mạc quá Chiên Đàn, kỳ hương vô lượng, hương giá quý ư Diêm Phù Đề kim; hựu liệu nhân bệnh, nhân hữu trú độc, đầu thống thể nhiệt, ma chiên đàn tiết, dĩ đồ kỳ thượng; nhược dĩ phục chi, bệnh tức trừ dũ, nhất thiết chúng sanh, mạc bất nguyện đắc; hữu nhân đại đắc Chiên Đàn Hương thọ, thúc tân mại chi, vô mãi chi giả; Phật tại thế thời, sở thuyết kinh pháp, linh nhân đắc đạo, vô bất độ giả; bát Nê Hoàn hậu, thập nhị bộ kinh, lưu tại thế gian, động hữu quyển số, vô nhân thị giả, diệc như Chiên Đàn, thúc tân mại chi, vô hữu mãi chi giả dã (莫過栴檀、其香无量。其香無量、香价贵于阎浮提金。香價貴於閻浮提金、又疗人病。又療人病、人有中毒。人有中毒、头痛体热。頭痛體熱、磨栴檀屑。磨栴檀屑、以涂其上。以塗其上、若以服之。若以服之、病即除愈。病卽除愈、一切众生。一切眾生、莫不愿得。莫不願得、有人大得栴檀香树。有人大得栴檀香樹、束薪卖之。束薪賣之、无买之者。無買之者、佛在世时。佛在世時、所说经法。所說經法、令人得道。令人得道、无不度者。無不度者、般泥洹后。般泥洹後、十二部经。十二部經、留在世间。留在世間、动有卷数。動有捲數、无人视者。無人視者、亦如栴檀。亦如栴檀、束薪卖之。束薪賣之、无有买之者也。無有買之者也, chớ có xem thường Chiên Đàn, hương thơm của nó vô lượng, hương giá quý như vàng của cõi Diêm Phù Đề; lại có thể trị được bệnh con người, có người trúng độc, đầu đau thân thể phát nóng, mài bột Chiên Đàn, đem thoa lên chỗ đau nhức; nếu uống nó vào, bệnh tức giảm ngay; hết thảy chúng sanh, nên cầu nguyện để có được; có người may được một cây Chiên Đàn Hương, bó thành củi đem bán, chẳng ai mua nó cả; khi đức Phật còn tại thế, các kinh pháp do ngài thuyết, giúp người đắc đạo, chẳng ai không được độ; sau khi ngài nhập Niết Bàn, mười hai bộ kinh, lưu lại thế gian, có rất nhiều quyển, chẳng ai dòm ngó đến; cũng như Chiên Đàn, bó thành củi đem bán, chẳng ai thèm mua cả vậy).”
(蓮邦): gọi đủ là Liên Hoa chi bang (蓮華之邦), nghĩa là quốc độ, đất nước hoa sen. Đây là tên gọi khác của thế giới Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂), vì tất cả chúng sanh trên cõi Cực Lạc đều an trú trong hoa sen. Như trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, CBETA No. 1215) có bài thơ rằng: “Đài đầu tận thị Hoàng Kim điện, cử nhãn vô phi Bạch Ngọc đường, Thất Bảo Diêu Trì phu hạm đạm, Bát Công Đức Thủy hý uyên ương, chư quân chơn đáo Liên Bang quốc, tiện thỉnh tri âm hòa nhất chương, thanh thanh Phật hiệu hữu vô trúng chỉ yếu hành nhân tín nguyện sung (抬頭盡是黃金殿、舉眼無非白玉堂、七寶瑤池敷菡萏、八功德水戲鴛鴦、諸君真到蓮邦國、便請知音和一章、聲聲佛號有無中、只要行人信願充, ngẩng đầu lên ấy vàng ròng điện, mở mắt nào hay ngọc trắng đường, bảy báu Diêu Trì phô sen nở, Tám Công Đức Nước giỡn uyên ương, mọi người đã đến Liên Bang cõi, xin thỉnh tri âm hòa một chương, mỗi danh hiệu Phật có không thảy, chỉ cần hành giả tín nguyện tròn).” Hay như trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, CBETA No. 1204) quyển 3 cũng có câu: “Ngũ lậu thân thành chướng cấu đa, vi nhi vi nữ khổ bôn ba, kim triêu phương thức trần trung huyễn, hàm tiếu liên bang thổ bích hà (五陋身成障垢多、爲兒爲女苦奔波、今朝方識塵中幻、含笑蓮邦吐碧荷, xấu xí thân hình tội chướng đa, làm thân người nữ khổ bôn ba, sáng nay mới biết trong trần huyễn, cười mĩm Liên Bang nở sen hoa).”
(義淵, Giin, ?-728): vị cao tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nại Lương, húy là Nghĩa Uyên (義淵), xuất thân vùng Cao Thị (高市), Đại Hòa (大和, Yamato), họ là Thị Vãng (市徃). Tương truyền rằng song thân ông lo buồn vì không có con nối dõi, lâu năm chuyên tâm cầu nguyện đức Bồ Tát Quan Âm và cuối cùng hạ sanh ông. Lớn lên, ông theo học Pháp Tướng và Duy Thức với Trí Phụng (智鳳, Chihō) ở Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji), đến năm 699 thì hoàn thành sự nghiệp và được tặng cho 1 vạn bao gạo. Vào năm 703, ông được bổ nhiệm làm Tăng Chánh. Tương truyền ông đã từng sáng lập Long Cái Tự (龍蓋寺), Long Môn Tự (龍門寺) và Long Uyên Tự (龍淵寺). Môn hạ của ông có rất nhiều như Huyền Phưởng (玄昉, Gembō), Hành Cơ (行基, Gyōki), Tuyên Giáo (宣敎, Senkyō), Lương Mẫn (良敏, Ryōbin), Hành Đạt (行達, Gyōtatsu), Lương Biện (良辨, Rōben), v.v., đều là những nhân vật xuất chúng đã hoạt động tích cực trong giới Phật Giáo thời Nại Lương.
(呉綺, 1620-1695): nhà văn học dưới thời nhà Thanh, tự là Viên Thứ (薗次, 園次), hiệu Thính Ông (聽翁), Phong Nam (豐南), được gọi là Hồng Đậu Từ Nhân (紅豆詞人); xuất thân Giang Đô (江都). Ông là người có tư chất khác thường, năm lên 5 tuổi đã có thể làm thơ được; khi lớn lên thì phát triển thông minh trí tuệ, đọc sách không chán; học rộng nhiều tài. Năm thứ 15 (1654) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông đỗ Tiến Sĩ, được ban cho chức Bí Thư Viện Trung Thư Xá Nhân (秘書院中書舍人). Vâng chiếu chỉ Hoàng Đế, ông sáng tác kịch bản của Dương Kế Thạnh (楊繼盛), tức là Trung Mẫn Ký (忠愍記). Xem xong Hoàng Đế Thuận Trị rất hài lòng, bèn lấy chức quan Binh Bộ Thị Lang (兵部侍郎) của Dương Kế Thạnh mà ban cho Ngô Ỷ. Ngoài ra, ông còn được cử làm Tri Phủ (知府) của Hồ Châu (湖州), Triết Giang (浙江). Trong thời gian tại nhiệm, bá tánh đều được yên bình; người dân Hồ Châu thấy ông có phong lực, phong cách, phong nhã; nên gọi ông là Tam Phong Thái Thú (三風太守). Tính cách của ông thản nhiên, nhẹ nhàng, bình dị, gần gủi với mọi người, hoan hỷ kết thân với bằng hữu; nên các danh sĩ bốn phương lai vãng liên tục, thương cùng ông ngâm thơ, xướng từ, vui chơi, yến tiệc không ngừng. Vì vậy, ông bị kẻ xấu bẩm báo lên, và cuối cùng trở về quê cũ. Tuổi già của ông rất nghèo túng, chẳng có điền sản. Ông là người tài hoa xuất chúng, từ khúc rất tinh xảo; những thi từ ông sáng tác được thâu lục vào bộ Lâm Huệ Đường Tập (林蕙堂集) 26 quyển. Trước tác của ông có Lĩnh Nam Phong Vật Ký (嶺南風物記), Tống Kim Nguyên Thi Vịnh (宋金元詩詠), Tuyển Thanh Tập (選聲集), Khiếu Thu Phong (嘯秋風), Tú Bình Nguyên (繡平原), Trung Mẫn Ký (忠愍記), v.v.
(天家): có hai nghĩa chính. (1) Từ xưng hô đối với thiên tử. Như trong tác phẩm Độc Đoán (獨斷) của Thái Ung (蔡邕, 133-192) nhà Hán có giải thích rằng: “Thiên gia, bách quan tiểu lại chi sở xưng, thiên tử vô ngoại, dĩ thiên hạ vi gia, cố xưng thiên gia (天家、百官小吏之所稱、天子無外、以天下爲家、故稱天家, thiên gia là từ xưng hô của trăm quan lại, thiên tử không ngoại lệ, lấy thiên hạ làm nhà, nên gọi là thiên gia [nhà trời]).” Hay trong bài thơ Tri Phủ Tôn Học Sĩ Kiến Thị Ngũ Thủ Nhân Dĩ Xuyết Thiên (知府孫學士見示五首因以綴篇) của Phạm Trọng Yêm (范仲淹, 989-1052) nhà Tống có câu: “Hồng hà lục trúc vong cơ địa, vị miễn thiên gia hạ chiếu cầu (紅霞綠竹忘機地、未免天家下詔求, ráng hồng trúc biếc quên vạn sự, chẳng khỏi vương gia hạ chiếu tìm).” (2) Chỉ nhà đế vương. Như trong Tấn Thư (晉書), Truyện Hồ Phấn (胡奮傳), có câu: “Lịch quán tiền đại, dữ thiên gia hôn (歷觀前代、與天家婚, xét khắp các đời trước, đều cùng với nhà đế vương kết hôn).”
(松源崇岳[嶽], Shōgen Sūgaku, 1132-1202): vị tăng của Phái Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Tùng Nguyên, người vùng Long Tuyền (龍泉), Xử Châu (處州, Tỉnh Triết Giang), họ là Ngô (呉). Lúc nhỏ ông đã có chí xuất gia, đến năm 23 tuổi thọ Ngũ Giới tại Đại Minh Tự (大明寺) và làm Sa Di. Ban đầu ông đến tham học với Linh Thạch Diệu (靈石妙), rồi tiếp đến là Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) ở Kính Sơn (徑山) và Ứng Am Đàm Hoa (應庵曇華). Vào năm thứ 2 (1163) niên hiệu Long Hưng (隆興), ông thọ Cụ Túc giới tại Bạch Liên Tinh Xá (白蓮精舍) ở Tây Hồ (西湖), Lâm An (臨安, Tỉnh Triết Giang) và bắt đầu đi tham học khắp nơi. Ông có đến tham yết Mộc Am An Vĩnh (木庵安永) ở Càn Nguyên Tự (乾元寺). Sau cùng ông đến tham vấn Mật Am Hàm Kiệt (密庵咸傑) ở Tây Sơn (西山), Cù Châu (衢州, Tỉnh Triết Giang) và kế thừa dòng pháp của vị này. Từ đó ông bắt đầu khai đường giáo hóa ở Trừng Chiếu Thiền Viện (澂照禪院) vùng Dương Sơn (陽山), Phủ Bình Giang (平江府, Tỉnh Giang Tô). Về sau, ông đã từng sống qua một số nơi như Báo Ân Quang Hiếu Tự (報恩光孝寺) ở Quân Sơn (君山) thuộc vùng Giang Âm Quân (江陰軍, Tỉnh Giang Tô), Thật Tế Thiền Viện (實際禪院) ở Trị Phụ Sơn (治父山) vùng Vô Vi Quân (無爲軍, Tỉnh An Huy), Tiến Phước Thiền Viện (薦福禪院) ở Nhiêu Châu (饒州, Tỉnh Giang Tây), Trí Độ Thiền Viện (智度禪院) ở Hương Sơn (香山) vùng Minh Châu (明州, Tỉnh Triết Giang) và Linh Nham Thiền Viện (靈巖禪院) ở Hổ Kheo Sơn (虎丘山) thuộc Phủ Bình Giang. Đến năm thứ 3 (1197) niên hiệu Khánh Nguyên (慶元), ông đến ở tại Linh Ẩn Tự (靈隱寺), rồi khai sáng Hiển Thân Báo Từ Tự (顯親報慈寺). Vào ngày mồng 4 tháng 8 năm thứ 2 niên hiệu Gia Thái (嘉泰), ông thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi đời và 40 hạ lạp. Môn nhân của ông như Thiện Khai (善開), Quang Mục (光睦), v.v., đã biên soạn bộ Tùng Nguyên Hòa Thượng Ngữ Lục (松源和尚語錄), 2 quyển, Lục Du (陸游) thì soạn bài minh của tháp.
(運庵普巖, Unan Fugan, 1156-1226): vị tăng của Phái Tùng Nguyên và Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, tự là Thiếu Chiêm (少瞻), xuất thân Tứ Minh (四明, Tỉnh Triết Giang), họ Đỗ (杜). Sau khi xuất gia, ông đến tham yết Thạch Cổ Hy Di (石鼓希夷) và Vô Dụng Tịnh Toàn (無用淨全). Vào năm thứ 11 (1184) niên hiệu Thuần Hy (淳熙), ông đến tham học với Tùng Nguyên Sùng Nhạc (松源崇岳) ở Trừng Chiếu Thiền Viện (澄照禪院), Phủ Bình Giang (平江府, Tỉnh Giang Tô) và đã từng theo hầu thầy chuyển đến Quang Hiếu Thiền Tự (光孝禪寺) ở Giang Ấm Quân (江蔭軍, Tỉnh Giang Tô), Thật Tế Thiền Viện (實際禪院) ở Trị Phụ Sơn (治父山), Vô Vi Quân (無爲軍, Tỉnh An Huy). Theo hầu Tùng Nguyên Sùng Nhạc được 18 năm, cuối cùng ông kế thừa dòng pháp của vị này. Đến tháng 8 năm thứ 2 (1202) niên hiệu Gia Thái (嘉泰), Sùng Nhạc viên tịch; người anh ruột của thầy ông có xây dựng ngôi Vận Am (運菴) ở Tứ Minh, bèn cung thỉnh ông đến đây trú trì. Vào tháng 3 năm thứ 2 (1206) niên hiệu Khai Hy (開禧), ông chuyển đến Đại Thánh Phổ Chiếu Thiền Tự (大聖普照禪寺) ở Phủ Trấn Giang (鎭江府, Tỉnh Giang Tô). Sau đó, ông từng sống qua các nơi khác như Quang Hiếu Tự (光孝寺) ở Chơn Châu (眞州, Tỉnh Giang Tô), Đạo Tràng Sơn Hộ Thánh Vạn Thọ Thiền Tự (道塲山護聖萬壽禪寺) ở An Cát Châu (安吉州, Tỉnh Triết Giang). Vào ngày mồng 4 tháng 8 năm thứ 2 (1226) niên hiệu Bảo Khánh (寶慶), ông thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi. Các thị giả Nguyên Tĩnh (元靖), Trí Năng (智能), Duy Diễn (惟衍) biên tập cuốn Vận Am Phổ Nham Thiền Sư Ngữ Lục (運庵普巖禪師語錄) 1 quyển. Tông Trứ (宗著) soạn bản Hành Thật (行實) về cuộc đời và hành trạng của ông.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập