Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trí Nghiễm »»
(七祖, Shichiso): tùy theo mỗi tông phái mà tên gọi các vị Tổ khác nhau.
(1) Bảy vị Tổ của Liên Xã thuộc Tịnh Độ Giáo Trung Quốc là Huệ Viễn (慧遠) ở Lô Sơn (盧山), Thiện Đạo (善導), Thừa Viễn (承遠), Pháp Chiếu (法照), Thiếu Khang (少康), Diên Thọ (延壽) và Tỉnh Thường (省常).
(2) Bảy vị Tổ Hoa Nghiêm là Mã Minh (馬明), Long Thọ (龍樹), Đỗ Thuận (杜順), Trí Nghiễm (智儼), Pháp Tạng (法藏), Trừng Quán (澄觀), và Tông Mật (宗密).
(3) Bảy vị Tổ Phú Pháp của Chơn Ngôn Tông là Đại Nhật Như Lai (大日如來), Kim Cang Tát Đỏa (金剛薩埵), Long Mãnh (龍猛, tức Long Thọ), Long Trí (龍智), Kim Cang Trí (金剛智), Bất Không (不空) và Huệ Quả (惠果). Nếu thêm Không Hải (空海, Kūkai) vào trong bảy vị này thì thành tám vị Tổ Phú Pháp của Chơn Ngôn Tông.
(4) Bảy vị Tổ tương thừa của Chơn Ngôn Tông theo Thân Loan là Long Thọ (龍樹), Thế Thân (世親), Đàm Loan (曇鸞), Đạo Xước (道綽), Thiện Đạo (善導), Nguyên Tín (源信) và Pháp Nhiên (法然). Tại các Tự Viện của Chơn Tông, một bên thờ hình Thánh Đức Thái Tử, còn bên kia thờ bảy vị cao tăng này.
(s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 大方廣佛華嚴經): gọi tắt là Hoa Nghiêm Kinh (c: Hua-yen-ching, j: Kegonkyō, 華嚴經), Tạp Hoa Kinh (雜華經). Đây là một trong những bộ kinh quan trọng của Phật Giáo Đại Thừa. Hoa Nghiêm Tông (華嚴宗, Kegonshū) của Trung Hoa và Nhật Bản đều ý cứ vào bộ kinh này, lập ra diệu nghĩa gọi là pháp giới duyên khởi (法界緣起), sự sự vô ngại (事事無礙), v.v., để làm tông chỉ. Theo tựa đề mà luận, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh lấy pháp dụ cho nhân quả, nêu lên danh xưng gọi là “lý trí nhân pháp (理智人法, lý trí người và pháp)”; cho nên yếu chỉ của kinh đều ở trong đây. Từ đại (大) ở đây có nghĩa là bao hàm; phương (方) là quỹ phạm; quảng (廣) là cùng khắp; tức nói chung thể dụng của pháp giới nhất tâm, rộng lớn không cùng, nên mới gọi là đại phương quảng. Phật là đấng chứng nhập vào pháp giới vô tận to lớn không cùng; hoa (華) là thí dụ nhân hạnh thành tựu vạn đức tròn đầy; cho nên để khai diễn muôn hạnh nhân vị, lấy thâm nghĩa của hoa để trang sức cho quả vị Phật, nên có tên là Phật Hoa Nghiêm (佛華嚴). Vào ngày thứ 14 sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ Đề, kinh này được đức Như Lai thuyết cho các Bồ Tát thượng vị như Văn Thù (s: Mañjuśrī, 文殊), Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢), v.v., về pháp môn tự nội chứng. Giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm là bánh xe pháp căn bản trong các giáo pháp, vì vậy có tên là Xưng Tánh Bản Giáo (稱性本敎); hơn nữa, giáo pháp này thuộc về pháp môn Đốn Giáo (頓敎), nên được gọi là Sơ Đốn Hoa Nghiêm (初頓華嚴). Mặc dầu kinh này xuất phát từ Ấn Độ, nhưng vẫn chưa phát huy toàn bộ huyền chỉ tối cao của kinh; cho đến khi Trung Hoa thành lập Hoa Nghiêm Tông, áo nghĩa đó mới đạt đến tột đỉnh chân nghĩa. Về Phạn bản của kinh này, từ xưa đến nay vẫn có nhiều thuyết khác nhau. Theo bản Hoa Nghiêm Kinh Truyền Ký (華嚴經傳記, Taishō Vol. 51, No. 2073) quyển 1 của Sa Môn Pháp Tạng (法藏, 643-712) của Sùng Phước Tự (崇福寺) ở Kinh Triệu (京兆) cho biết rằng Bồ Tát Long Thọ (s: Nāgājruna, 龍樹) thấy kinh này dưới Long Cung, có 3 bản Thượng Trung Hạ. Trong bản Thượng và Trung, số phẩm tụng rất nhiều, với sức phàm tình thì không thể nào thọ trì được; nên ẩn tàng không truyền ra. Và bản được truyền đến nay là bản Hạ, có đến mười vạn (100.000) câu kệ và 48 phẩm (hay 38 phẩm). Về sau, Bồ Tát Thế Thân (s: Vasubandhu, 世親) viết ra Thập Địa Kinh Luận (十地經論, Taishō Vol. 26, No. 1522, 12 quyển) để giải thích Phẩm Thập Địa (十地品) của kinh này. Các luận sư khác như Kim Cang Quân (金剛軍), Kiên Huệ (堅慧), v.v., cũng có các luận chú về Phẩm Thập Địa. Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký (華嚴經探玄記, Taishō Vol. 35, No. 1733) quyển 1 lại chia kinh này thành 6 bản là Hằng Bản (恆本), Đại Bản (大本), Thượng Bản (上本), Trung Bản (中本), Hạ Bản (下本) và Lược Bản (略本). Ngoài ra, Hoa Nghiêm Kinh Chỉ Quy (華嚴經旨歸, Taishō Vol. 45, No. 1871), Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Sớ (大方廣佛華嚴經疏, Taishō Vol. 35, No. 1735) quyển 3 lại nêu ra 10 tên khác của kinh như Dị Thuyết Kinh (異說經), Đồng Thuyết Kinh (同說經), Phổ Nhãn Kinh (普眼經), Thượng Bản Kinh (上本經), Trung Bản Kinh (中本經), Hạ Bản Kinh (下本經), Lược Bản Kinh (略本經), Chủ Bạn Kinh (主伴經), Quyến Thuộc Kinh (眷屬經), Viên Mãn Kinh (圓滿經). Lại theo Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 100, Phạn bản của Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát Kinh (不可思議解脫經, tức Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh [四十華嚴經]) có tất cả mười vạn câu kệ. Tuy nhiên, Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (攝大乘論釋, Taishō Vol. 31, No. 1595) quyển 15, bản dịch của Thiên Trúc Tam Tạng Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nhà Lương, lại cho rằng Hoa Nghiêm Kinh có trăm ngàn kệ, nên có tên là Bách Thiên Kinh (百千經). Bản hiện tồn có ba loại: (1) Lục Thập Hoa Nghiêm (六十華嚴, Taishō Vol. 9, No. 278), 60 quyển, do Phật Đà Bạt Đà La (s: Buddhabhadra, 佛駄跋陀羅, 359-429) dịch từ năm 418-420 hay 421 (niên hiệu Nghĩa Hy [義熙] thứ 14 đến niên hiệu Nguyên Hy [元熙] thứ 2 hoặc Nguyên Sơ [元初] thứ 2) thời Đông Tấn; còn gọi là Cựu Hoa Nghiêm (舊華嚴), Cựu Dịch Hoa Nghiêm Kinh (舊譯華嚴經), Cựu Kinh (舊經), Tấn Kinh (晉經); tổng thành 7 nơi, 8 hội, 34 phẩm. Hoa Nghiêm Tông lấy 8 hội phân thành phần trước và phần sau; 7 hội của phần trước được thuyết trong thời gian 21 ngày sau khi đức Phật thành đạo; 1 hội của phần sau được thuyết vào thời kỳ sau. Trong khi đó, Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支, 562-727) lại cho rằng 5 hội trước được thuyết vào 7 ngày đầu sau khi đức Phật thành đạo; còn 2 hội sau được thuyết vào tuần thứ hai. Trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Sớ quyển 4, Trừng Quán (澄觀, 738-839) cho rằng trong 9 hội của Tân Hoa Nghiêm (新華嚴, tức Bát Thập Hoa Nghiêm, theo thuyết 7 chỗ, 9 hội), 5 hội đầu được thuyết vào tuần đầu tiên; hội thứ 6, 8 và 8 thuộc vào tuần thứ 2; và hội thứ 9 có Phẩm Nhập Pháp Giới (入法界品) thì thuộc về sau này. Về việc phiên dịch kinh này, theo Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集, Taishō Vol. 55, No. 2145) quyển 9, Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký quyển 1, v.v., Phạn bản của Hoa Nghiêm Kinh nguyên lai có mười vạn (100.000) câu kệ, do Chi Pháp Lãnh (支法領) nhà Đông Tấn mang từ nước Vu Điền (s: Ku-stana, 于闐) vào ba vạn sáu ngàn (360.000) câu kệ, từ tháng 3 năm 418 (Nghĩa Hy [義熙] thứ 14) đời vua An Đế (安帝, tại vị 397-419); rồi được Phật Đà Bạt Đà La dịch thành 60 quyển; nên có tên gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm. Đây là bản dịch thứ nhất. Tuy nhiên, trong dịch bản này, Phẩm Nhập Pháp Giới vẫn còn khuyết văn, và mãi cho đến năm 680 (Vĩnh Long [永隆] nguyên niên) đời vua Huyền Tông (玄宗, 712-756) nhà Đường mới được bổ dịch. Bản Chú Sớ của kinh này thì rất nhiều, như Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏, 7 quyển) của Huệ Viễn (慧遠, 334-416); Hoa Nghiêm Kinh Sưu Huyền Phân Tề Thông Trí Phương Quỹ (華嚴經搜玄分齊通智方軌, 5 quyển) của Trí Nghiễm (智儼, 620-668); Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký (華嚴經探玄記, 20 quyển) của Pháp Tạng (法藏, 643-712), v.v. (2) Bát Thập Hoa Nghiêm (八十華嚴, Taishō Vol. 10, No. 279), 80 quyển, do Thật Xoa Nan Đà (s: Śikṣānanda, 實叉難陀, 652-710) nhà Đường dịch; còn gọi là Tân Hoa Nghiêm (新華嚴), Đường Kinh (唐經); tổng thành 7 chỗ, 9 hội, 39 phẩm, là bản dị dịch của Lục Thập Hoa Nghiêm. Một vài điểm dị đồng giữa hai bản Lục Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập Hoa Nghiêm có thể nêu ra như sau: Phạn bản của Bát Thập Hoa Nghiêm được Thật Xoa Nan Đà mang từ nước Vu Điền vào Trung Quốc thể theo lời thỉnh cầu của Võ Tắc Thiên (武則天, tại vị 684-705); bắt đầu dịch từ tháng 3 năm 695 (Chứng Thánh [證聖] nguyên niên) tại Biến Không Tự (遍空寺), đến tháng 10 năm 699 (Thánh Lịch [聖曆] thứ 2) thì hoàn tất. Tương truyền trong khoảng thời gian này, đích thân Võ Hậu đến dịch trường, tự tay đề tên phẩm kinh. Đây được xem như là bản dịch thứ hai. So với bản Cựu Dịch Lục Thập Hoa Nghiêm, bản Tân Dịch này có văn từ lưu loát, nghĩa lý tròn đầy, cho nên được lưu thông thịnh hành. Kinh điển chính của Hoa Nghiêm Tông chính là bản Bát Thập Hoa Nghiêm này. Ngoài ra, dịch bản tiếng Tây Tạng có 45 phẩm; trong đó 44 phẩm đầu tương đương với 38 phẩm trước của kinh này, phẩm thứ 45 thì tương đương với Phẩm Nhập Pháp Giới thứ 39. Về các bản Chú Sớ của Bát Thập Hoa Nghiêm, có Lược Sớ San Định Ký (略疏刊定記, 15 quyển) của Huệ Uyển (慧苑, 673-?); Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏, 30 quyển) của Thần Tú (神秀, 605-706); Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏, 60 quyển) của Trừng Quán (澄觀, 738-839); Hoa Nghiêm Kinh Luân Quán (華嚴經綸貫, 1 quyển) của Phục Am (復菴); Hoa Nghiêm Kinh Cương Yếu (華嚴經綱要, 80 quyển) của Hám Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623), v.v. (3) Tứ Thập Hoa Nghiêm (四十華嚴), 40 quyển, do Bát Nhã (s: Prajñā, 般若, 734-?) nhà Đường dịch; gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm (大方廣佛華嚴經入不思議解脫境界普賢行願品, Taishō Vol. 10, No. 293); gọi tắt là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm (普賢行願品), còn có tên là Trinh Nguyên Kinh (貞元經). Bản này được truyền vào nước Ni Ba La (尼波羅, tức Ni Bạc Nhĩ [尼泊爾], Nepal), là cùng với bản Hoa Nghiêm Kinh trong 9 bộ kinh Đại Thừa. Nội dung bộ kinh thuật lại việc Thiện Tài Đồng Tử (s: Sudhana-śreṣṭhi-dāraka, 善財童子) từng đi tham vấn qua 55 (hoặc 53) vị thiện tri thức và thành tựu hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Đặc biệt, trong bản Tứ Thập Hoa Nghiêm này có nêu lên 10 hạnh nguyện của Phổ Hiền. Về vấn đề phiên dịch bản kinh này, vào tháng 11 năm 795 (Trinh Nguyên [貞元] thứ 11) đời vua Đức Tông (德宗, tại vị 779-805) nhà Đường, do Sư Tử Vương (師子王) của nước Ô Đồ (s: Oḍra, 烏荼), Thiên Trúc (天竺), phái sứ giả tiến cống Phạn bản Hoa Nghiêm Kinh vốn do tự tay nhà vua viết. Đến tháng 6 năm sau, bản này được Bát Nhã Tam Tạng (般若三藏) người Kế Tân (罽賓, tức Ca Tất Thí [s: Kāpiśa, 迦畢試]) dịch tại Sùng Phước Tự (崇福寺), Trường An (長安). Hai cao tăng Trừng Quán và Viên Chiếu (圓照) giám định dịch bản tại Giám Hư Tự (鑑虛等); và đến tháng 2 năm 798 (Trinh Quán thứ 14) thì hoàn tất công tác phiên dịch. Phạn bản của kinh này hiện bảo tồn tại thư viện của các nước như Anh, Pháp, Ấn Độ, v.v. Bản biệt dịch của kinh này có La Ma Già Kinh (羅摩伽經, 3 quyển) của Thánh Kiên (聖堅, ?-?) nhà Đông Tấn; Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Pháp Giới Phẩm (大方廣佛華嚴經入法界品, 1 quyển) của Địa Bà Ha La (地婆訶羅, 613-687) nhà Đường; Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Pháp Giới Phẩm Tứ Thập Nhị Tự Quán Môn (大方廣佛華嚴經入法界品四十二字觀門, 1 quyển) của Bất Không (s: Amoghavajra, 不空, 705-774) nhà Đường, v.v. Về bản Chú Sớ của kinh có Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện Phẩm Sớ (華嚴經行願品疏, 10 quyển) của Trừng Quán; Hoa Nghiêm Kinh Biệt Hành Sớ (華嚴經別行疏, 2 quyển) của Trọng Hy (仲希, ?-?); Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tu Chứng Nghi (華嚴經普賢行願修證儀, 1 quyển) của Tịnh Nguyên (淨源, 1011-1088), v.v. Ngoài ra, còn có một số bản tán vịnh Thiện Tài Đồng Tử đi tham vấn chư thiện trí thức như Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Nhập Pháp Giới Phẩm Tán (大方廣華嚴入法界品讚) của Dương Kiệt (楊傑, hậu bán thế kỷ 11); Văn Thù Chỉ Nam Đồ Tán (文殊指南圖讚) của Phật Quốc Duy Bạch (佛國惟白, ?-?), v.v.
(湧[涌]泉寺, Yūsen-ji): ngôi danh lam cổ sát hiện tọa lại dưới chân núi Bạch Vân Phong (白雲峰) thuộc Cổ Sơn (鼓山), phía Đông Huyện Mân (閩縣), Phủ Phúc Châu (福州府, Tỉnh Phúc Kiến). Xưa kia, trên Bạch Vân Phong có một hồ nước, có con độc long sống trong đó và thường xuyên nhiễu hại dân lành. Vào năm thứ 4 (783) niên hiệu Kiến Trung (建中) nhà Đường, vị quan Tùng Sự Bùi Trụ (裴冑) cung thỉnh tu sĩ Linh Kiệu (靈嶠) đến tụng Kinh Hoa Nghiêm (華嚴經) bên hồ, con rồng kia nhân nghe pháp mà bỏ đi nơi khác. Do đó, nơi đây một ngôi chùa được dựng lên với tên gọi ban đầu là Hoa Nghiêm Tự (華嚴寺). Về sau, nhân gặp phải nạn phá Phật Hội Xương (會昌), chúng tăng bỏ chạy tứ tán nên chùa trở thành hoang phế. Trải qua 70 năm, đến năm thứ 2 (908) niên hiệu Khai Bình (開平) nhà Lương, vua nhà Mân là Thẩm Tri (審知) trùng hưng lại chùa này, cung thỉnh Thần Yến (神晏, tức Hưng Thánh Quốc Sư [興聖國師])―pháp từ của Tuyết Phong Nghĩa Tồn (雪峰義存)―đến làm trú trì đời thứ nhất. Tại đây, Thần Yến bắt đầu cử xướng tông phong của thầy mình, tương truyền chúng hội thường có đến vạn người. Sau đó, các pháp từ của Thần Yến như Trí Nghiêm (智嚴, tức Liễu Giác Đại Sư [了覺大師]), Trí Nhạc (智岳, tức Liễu Tông Đại Sư [了宗大師]), Thanh Ngạc (清諤, tức Tông Hiểu Thiền Sư [宗曉禪師]), v.v., kế tiếp sự nghiệp tôn sư duy trì Thiền môn. Đến năm thứ 5 (915) niên hiệu Càn Hóa (乾化), chùa được ban sắc ngạch là Cổ Sơn Bạch Vân Phong Dũng Tuyền Viện (鼓山白雲峰湧泉院). Dưới thời nhà Tống, chùa lại được đổi thành Hoa Nghiêm Tự. Vào đầu niên hiệu Thuận Trị (順治, khoảng 1644) nhà Minh, Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢) đến trú nơi đây và tiến hành trùng tu toàn bộ; sau đó Vi Lâm Đạo Bái (爲霖道霈) cũng có trú trì nơi đây.
(s: Bhaiṣajyaguru, 藥師): nói rõ là Dược Sư Lưu Ly Quang (s: Bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabha, 藥師瑠璃光), Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật (藥師琉璃光王佛), Dược Sư Như Lai (藥師如來), Đại Y Vương Phật (大醫王佛), Y Vương Thiện Thệ (醫王善誓), Thập Nhị Nguyện Vương (十二願王), âm dịch là Bệ Sát Xã Lũ Lô (鞞殺社窶嚕). Theo Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh (s: Bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhāsapūryapraṇidhāna, 藥師瑠璃光如來本願功德經, Taishō No. 450), ngoài 10 hằng hà sa Phật độ có thế giới gọi là Tịnh Lưu Ly (淨瑠璃) và giáo chủ của thế giới đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Thế giới này được gọi là cõi Tịnh Độ ở phương Đông, cũng trang nghiêm như cõi nước Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂). Trong thời gian hành Bồ Tát đạo, vị Phật này có phát 12 lời nguyện lớn và nhờ lời nguyện này mà hiện tại ngài thành Phật ở thế giới Tịnh Lưu Ly, có hai vị Bồ Tát Nhật Quang (s: Sūryaprabha, 日光) và Nguyệt Quang (s: Candraprabha, 月光) thường xuyên hộ trì hai bên. Thệ nguyện của đức Phật này không thể nghĩ bàn và sự linh nghiệm của Ngài cũng rất rộng lớn. Nếu có người thân mạng bệnh nặng, hiện tướng sắp chết, bà con quyến thuộc của người ấy tận tâm, chí thành cúng dường, lễ bái Phật Dược Sư, đọc tụng Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh 49 biến, thắp 49 ngọn đèn, tạo tràng phan 5 sắc màu của 49 cõi trời, thì người sắp lâm chung ấy sẽ được sống lại và kéo dài sinh mạng thêm. Cho nên, tín ngưỡng Phật Dược Sư đã thịnh hành từ xa xưa. Về hình tượng của Ngài, theo Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp (藥師琉璃光王七佛本願功德經念誦儀軌供養法, Taishō No. 926) cho biết rằng tay trái Ngài cầm dược khí (còn gọi là Vô Giá Châu [無價珠]), tay phải kết Tam Giới Ấn (三界印), mặc áo Ca Sa (s: kaṣāya, kāṣāya, p: kāsāya, kāsāva, 袈裟), ngồi kiết già trên đài hoa sen và dưới đài có 12 vị thần tướng. Các vị thần tướng này thệ nguyện hộ trì pháp môn Dược Sư, mỗi vị thống lãnh 7.000 quyến thuộc Dược Xoa (藥叉), tại các nơi hộ trì cho chúng sanh nào thọ trì danh hiệu Phật Dược Sư. Bên cạnh đó, hình tượng được lưu truyền phổ biến nhất về đức Phật này là hình có mái tóc xoăn hình trôn ốc, tay trái cầm bình thuốc, tay phải bắt Thí Vô Úy Ấn (施無畏印, hay Dữ Nguyện Ấn [與願印]); có 2 Bồ Tát Nhật Quang Biến Chiếu (日光遍照) và Nguyệt Quang Biến Chiếu (月光遍照) hầu hai bên, được gọi là Dược Sư Tam Tôn (藥師三尊). Hai vị Bồ Tát này là thượng thủ trong vô lượng chúng ở cõi Tịnh Độ của Phật Dược Sư. Ngoài ra còn có 8 Bồ Tát khác hầu cận bên Ngài như Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利), Quan Âm (s: Avalokiteśvara, 觀音), Thế Chí (s: Mahāsthāmaprāpta, 勢至), Bảo Đàn Hoa (寶壇華), Vô Tận Ý (無盡意), Dược Vương (s: Bhaiṣajyarāja, 藥王), Dược Thượng (s: Bhaiṣajyasamudgata, 藥上), Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒). Theo Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh (藥師琉璃光七佛本願功德經, Taishō No. 451) do Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) nhà Đường dịch có nêu tên 7 vị Phật Dược Sư, gồm: Thiện Xưng Danh Cát Tường Vương Như Lai (善稱名吉祥王如來), Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai (寶月智嚴光音自在王如來), Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai (金色寶光妙行成就如來), Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai (無憂最勝吉祥如來), Pháp Hải Lôi Âm Như Lai (法海雷音如來), Pháp Hải Tuệ Du Hý Thần Thông Như Lai (法海慧遊戲神通如來) và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (藥師琉璃光如來). Trong số đó, 6 vị đầu là phân thân của Dược Sư Như Lai. Đức Phật này cùng với Thích Ca Mâu Ni Như Lai (釋迦牟尼佛), A Di Đà Phật (阿彌陀佛) được gọi là Hoành Tam Thế Phật (橫三世佛), hay Tam Bảo Phật (三寶佛). Trong Phật Giáo, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật ở phương Đông và A Di Đà Phật ở phương Tây được xem như là hai đấng tối cao giải quyết vấn đề sanh và tử của chúng sanh.
(戒壇): là đàn tràng dùng để cử hành nghi thức truyền thọ giới pháp cũng như thuyết giới. Nguyên lai, Giới Đàn không cần phải xây dựng nhà cửa gì cả, tùy theo chỗ đất trống kết giới mà thành. Xưa kia, thời cổ đại Ấn Độ tác pháp ngoài trời, không cần phải làm đàn. Về việc Giới Đàn được kiến lập đầu tiên, Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Thượng, có ghi lại rằng Bồ Tát Lâu Chí (樓至) thỉnh ý đức Phật xin thiết lập Giới Đàn cho chư vị Tỳ Kheo thọ giới và được Ngài hoan hỷ chấp thuận: “Tây Thiên Kỳ Viên, Tỳ Kheo Lâu Chí thỉnh Phật lập đàn, vi Tỳ Kheo thọ giới Như Lai ư viên ngoại viện Đông Nam, trí nhất đàn, thử vi thỉ dã (西天祇園、比丘樓至請佛立壇、爲比丘受戒、如來於園外院東南、置一壇、此爲始也, Kỳ Viên ở Tây Thiên [Ấn Độ], Tỳ Kheo Lâu Chí xin Phật thiết lập Giới Đàn để truyền thọ giới cho Tỳ Kheo; đức Như Lai thiết lập một đàn ở phía Đông Nam ngoài Kỳ Viên; đây là khởi đầu).” Tại Trung Quốc, tương truyền Giới Đàn đầu tiên do Đàm Kha Ca La (s: Dharmakāla, 曇柯迦羅) kiến lập trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Bình (嘉平, 249-254), Chánh Nguyên (正元, 254-256) nhà Tào Ngụy. Từ thời nhà Tấn, Tống trở đi, ở phương Nam kiến lập Giới Đàn rất nhiều. Như Pháp Hộ (法護) nhà Đông Tấn lập đàn ở Ngõa Quan Tự (瓦官寺), Dương Đô (揚都, Nam Kinh [南京]). Chi Đạo Lâm (支道林, 314-366) cũng thiết lập ở Thạch Thành (石城, Lê Thành [黎城], Sơn Tây [山西]), Phần Châu (汾州, Tân Xương [新昌], Triết Giang [浙江]) mỗi nơi một đàn. Chi Pháp Tồn (支法存, ?-457) lập đàn ở Nhã Da (若耶, Thiệu Hưng [紹興], Triết Giang). Trí Nghiêm (智嚴) nhà Nam Tống lập đàn ở Thượng Định Lâm Tự (上定林寺, Nam Kinh). Huệ Quán (慧觀) lập đàn ở Thạch Lương Tự (石梁寺, Thiên Thai Sơn [天台山]). Cầu Na Bạt Ma (s: Guṇavarman, 求那跋摩, 367-431) lập đàn ở Nam Lâm Tự (南林寺). Tăng Phu (僧敷, ?-?) của nhà Nam Tề lập đàn ở Vu Hồ (蕪湖). Pháp Siêu (法超) của nhà Lương thời Nam Triều lập đàn ở Nam Giản (南澗, Nam Kinh). Tăng Hựu (僧祐, 445-518) thiết lập tại Nam Kinh 4 chùa Vân Cư (雲居), Thê Hà (棲霞), Quy Thiện (歸善) và Ái Kính (愛敬) mỗi nơi một đàn. Tổng cọng hơn 300 Giới Đàn. Đến thời nhà Đường, vào năm thứ 2 (667) niên hiệu Càn Phong (乾封), Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) kiến lập Giới Đàn tại Tịnh Nghiệp Tự (淨業寺) ở ngoại ô Trường An (長安). Bắt đầu từ thời này, Giới Đàn đã hình thành quy thức nhất định. Về sau, chư cao tăng khác như Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713), Nhất Hành (一行, 683-727), Kim Cang Trí (金剛智, 671-741), v.v., từng kiến lập Giới Đàn ở vùng phụ cận Lạc Dương (洛陽). Vào năm đầu (765) niên hiệu Vĩnh Thái (永泰), vua Đại Tông (代宗, tại vị 762-779) ban sắc lệnh kiến lập Phương Đẳng Giới Đàn (方等戒壇, tức Đại Thừa Giới Đàn) ở Đại Hưng Thiện Tự (大興善寺); rồi cho đặt 10 vị Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德) trong giáo đoàn Tăng Ni ở Kinh Thành; tức sau này là Tam Sư Thất Chứng (三師七證). Về phía Nhật Bản, Giới Đàn đầu tiên do Giám Chơn (鑑眞, Ganjin, 688-763) kiến lập ở phía trước Chánh Điện Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) vào năm 749 (Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寶] thứ 6). Đến tháng 4 năm này, Giám Chơn đã truyền giới cho Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749) cùng với 430 người khác. Sau đó, Giới Đàn Viện (戒壇院) được kiến lập ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji); và hai Giới Đàn khác ở Quan Thế Âm Tự (觀世音寺, Kanzeon-ji), vùng Trúc Tử (筑紫, Chikushi) và Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) thuộc tiểu quốc Hạ Dã (下野, Shimotsuke). Trong (Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành) Thích Giáo Bộ Vị Khảo ([古今圖書集成]釋敎部彙考, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1521) quyển 2 có câu: “Trường Khánh tứ niên, Kính Tông tức vị, Từ Tứ Vương Trí Hưng, thỉnh trí Tăng Ni Giới Đàn (長慶四年、敬宗卽位、徐泗王智興、請置僧尼戒壇, niên hiệu Trường Khánh thứ 4 [824], vua Kính Tông nhà Đường lên ngôi, Từ Tứ Vương Trí Hưng, xin thiết trí Giới Đàn Tăng Ni).” Hay trong Chung Nam Gia Nghiệp (終南家業, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1109) quyển Trung có đoạn rằng: “Chí Nguyên Hỷ thập niên, hữu Tăng Già Bạt Ma, ư Dương Đô Nam Lâm Giới Đàn, vi Tăng Huệ Chiếu đẳng ngũ thập nhân, Ni Huệ Quả đẳng tam thập tam nhân, trùng thọ cụ giới (至元喜十年、有僧伽拔摩、於揚都南林戒壇、爲僧慧照等五十人、尼慧果等三十三人、重受具戒, cho đến niên hiệu Nguyên Hỷ thứ 10, tại Giới Đàn Chùa Nam Lâm ở Dương Đô, có Tăng Già Bạt Ma vì nhóm Tăng Huệ Chiếu 50 người, nhóm Ni Huệ Quả 33 người, thọ giới Cụ Túc lại).”
(華嚴宗, Kegon-shū): tông phái được thành lập vào khoảng đời nhà Tùy cho đến đầu nhà Đường và hìnhthành nên giáo học cố hữumang tính căn bản dựa trên kinh điển tối cao là Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經) và tư tưởng của bộ kinh này. Theo cách nhìn truyền thống thì có hai thuyết: Ngũ Tổ và Thất Tổ. Ngũ Tổ gồm Sơ Tổ Đỗ Thuận (杜順, 557-640), Nhị Tổ Trí Nghiêm (智嚴, 602-668), Tam Tổ Pháp Tạng (法藏, 643-712), Tứ Tổ Trừng Quán (澄觀, 738-839) và Ngũ Tổ Tông Mật (宗密, 780-841). Thất Tổ thì trước Đỗ Thuận có thêm vào Mã Minh (Aśvaghoṣa, 馬鳴, khoảng thế kỷ thứ 2) và Long Thọ (Nāgārjuna, 龍樹, khoảng 150-250). Ở Trung Hoa, sau thời Tông Mật thì Hoa Nghiêm Tông bắt đầu yếu dần thế lực. Đến năm 671 có Nghĩa Sương (義湘), người đồng hàng sư huynh của Pháp Tạng, đã truyền tông này sang Tân La (新羅, tức Triều Tiên); và vào năm 736 thì Thẩm Tường (審祥), môn hạ của Pháp Tạng, truyền tông này sang Nhật Bản. Bên cạnh căn cứ vào Hoa Nghiêm Kinh, Hoa Nghiêm Tông của Nhật còn chú trọng đến Phạm Võng Kinh (梵綱經), lập cước ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), kết hợp giữa tư tưởng của Lý Thông Huyền (李通玄) và tư tưởng Mật Giáo. Thêm vào đó, việc xác lập nên hệ thống giáo học Đông Đại Tự của Ngưng Nhiên (凝然, Gyōnen, 1240-1321) là điểm trọng yếu.
(金爐): lò vàng dùng để đốt giấy tiền vàng bạc khi dân chúng đến tham bái. Tạo hình bên ngoài Kim Lô ở Miếu Thành Hoàng (城隍廟) lấy màu hồng làm chính. Trên đỉnh lò có tòa nhà lục giác ba tầng: tầng thứ nhất lên đến đỉnh lò, mỗi góc đều có hình con rồng bay; tầng thứ hai lên đến đỉnh lò, mỗi góc có hình con chim phụng bay; tầng thứ ba, mỗi góc đều có hình hoa. Kim Lô và Hương Lô (香爐, lò hương) hoàn toàn khác nhau về chức năng. Lò Hương chủ yếu để cắm hương. Lò Hương cỡ lớn thì có điêu khắc hình con rồng trên đó và được đúc bằng đồng. Trong khi đó, Kim Lô chủ yếu dùng để đốt các loại giấy tiền vàng mã và hầu hết mỗi đền miếu đều có. Loại Kim Lô ở các đền miếu được chế tạo bằng gốm sứ. Như trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn: “Giới Định chơn hương, phần khí xung thiên thượng, thí chủ kiền thành, nhiệt tại kim lô phóng, khoảnh khắc nhân uân, tức biến mãn thập phương, tích nhật Da Du, miễn nạn trừ tai chướng (戒定眞香、焚氣衝天上、施主虔誠、爇在金爐放、頃刻氛氤、卽遍滿十方、昔日耶輸、免難除災障, Giới Định chơn hương, khí đốt xông trời đất, thí chủ lòng thành, hơi nóng trong lò tỏa, khoảnh khắc hòa hài, tức cùng khắp mười phương, xưa kia Da Du, hết nạn trừ tai chướng).” Hay trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1248) lại có đoạn: “Thần minh chi sum vệ, tuyên Phật Đảnh chi bí thuyên, tường yên tiêu cổ triện ư kim lô, bảo diệm thổ Đàm Hoa ư ngọc chúc (神明之森衛、宣佛頂之秘詮、祥煙銷古篆於金爐、寶燄吐曇花於玉燭, thần minh ấy hộ vệ, tuyên Phật Đảnh bao bí ngữ, mây lành nung triện cổ nơi lò vàng, lửa báu tuôn hoa Đàm nơi nến ngọc).” Trong Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1541) quyển Hạ, phần Tống Thích Ngộ Ân (宋釋晤恩) có đoạn rằng: “Ung Hy tam niên bát nguyệt, mộng ủng nạp Sa Môn, chấp kim lô phần hương, tam nhiễu kỳ thất, tự ngôn Tổ sư quán đảnh, lai thử tương nghênh, mộng giác do văn dị hương, diện Tây hiệp chưởng nhi hóa (雍熙三年八月、夢擁衲沙門、執金爐焚香、三遶其室、自言祖師灌頂、來此相迎、夢覺猶聞異香、面西合掌而化, vào tháng 8 niên hiệu Ung Hy thứ 3 [986], Ngộ Ân mơ thấy vị Sa Môn ôm y bá nạp, tay cầm lò vàng xông hương, ba lần nhiễu quanh thất của ông, tự bảo là Tổ sư quán đảnh, đến đây nghinh đón, khi tỉnh mộng mà vẫn nghe có mùi hương lạ, ông mặt hướng về phương Tây chấp tay mà đi).”
(靈爽): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ tinh khí. Như trong bài Giang Phú (江賦) của Quách Phác (郭璞, 276-324), học giả trứ danh nhà Đông Tấn, có câu: “Kỳ tướng đắc đạo nhi Trạch Thần, nãi hiệp linh sảng ư Tương Nga (奇相得道而宅神、乃協靈爽於湘娥, tướng lạ đắc đạo như Thần Nhà, bèn hợp tinh khí nơi Tương Phi [con gái thứ hai của vua Nghiêu]).” Hay trong tác phẩm Hoàng Tai Đối (隍災對) của Từ Vị (徐渭, 1521-1593) nhà Minh có đoạn: “Thổ mộc, thần chi thác dã, tiện dã; linh sảng, thần chi chân dã, quý dã (土木、神之托也、賤也;靈爽、神之眞也、貴也, đất cây là nơi thần mượn tạm, thì bình thường; tinh khí, là cái chân thật của thần, mới quý).” (2) Chỉ khí mây tự nhiên. Như trong bài thơ Tặng Trịnh Mạn Quý (贈鄭曼季) của Lục Vân (陸雲, 262-303) nhà Tấn có câu: “Huyền trạch trụy nhuận, linh sảng yên uân (玄澤墜潤、靈爽煙熅, ơn thánh thấm nhuần, khí mây khói tỏa).” (3) Chỉ thần linh, thần minh, linh thiêng. Như trong Hậu Hán Kỷ (後漢紀), chương Hiến Đế Kỷ (獻帝紀) 3, của Viên Hoành (袁宏, 328-376) nhà Tấn có đoạn: “Trẫm tao gian nan, việt tại Tây Đô, cảm duy tông miếu linh sảng, hà nhật bất thán (朕遭艱難、越在西都、感惟宗廟靈爽、何日不歎, trẫm gặp gian nan, qua đến Tây Đô, cảm kích nghĩ đến chư vị thần linh của tông miếu, ngày nào mà không than thở).” Hay trong tác phẩm Lý Viên Tùng Thoại (履園叢話), phần Mộng Huyễn (夢幻), Tần Cối Thiết Tượng (秦檜鐵像), của Tiền Vịnh (錢泳, 1759-1844) nhà Thanh, lại có đoạn: “Thiết niệm Nhạc Vương linh sảng tại thiên, nghịch Cối trầm luân Địa Ngục cửu hỉ (竊念岳王靈爽在天、逆檜沉淪地獄久矣, thiết nghĩ thần linh của Nhạc Vương ở trên trời, còn phản nghịch Tần Cối thì bị chìm dắm dưới Địa Ngục lâu rồi).” Trong Quan Âm Kinh Trì Nghiệm Ký (觀音經持驗記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1542) lại có câu: “Thỉ ngộ Bồ Tát linh sảng, tiền mộng bất hư, cạnh chí Phật tiền phu bái (始悟菩薩靈爽、前夢不虛、競至佛前臚拜, mới biết Bồ Tát linh thiêng, giấc mơ trước kia không dối, tranh nhau đến trước Phật vái lạy).”
(冥王): tục xưng của Diêm La (閻羅), đấng chủ tể của cõi âm. Như trong Tân Tề Hài (新齊諧), phần Tạ Đàn Hà (謝檀霞), của Viên Mai (袁枚, 1716-1797) nhà Thanh có đoạn: “Hốt mộng lại sổ nhân đột chí kỳ gia, trách dĩ thoát miễn chi tội, vị Minh Vương hách nỗ, tương trùng án kỳ sự (忽夢吏數人突至其家、責以脫免之罪、謂冥王赫怒、將重按其事, chợt mộng thấy quan lại mấy người đột nhiên đến nhà ông ấy, tra hỏi về tội được thoát miễn, bảo rằng Minh Vương đùng đùng nổi giận, đem xét xử lại việc này).” Hay như trong Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1541) quyển Hạ, phần Ngô Việt Vĩnh Minh Tự Trí Giác Thiền Sư (吳越永明寺智覺禪師), lại có đoạn: “Niên cửu thập bát, phần hương già phu nhi tịch, tháp ư Đại Từ Sơn, Minh Vương hội tượng đảnh lễ (年九十八、焚香跏趺而寂、塔於大慈山、冥王繪像頂禮, năm 98 tuổi, Thiền Sư xông hương ngồi xếp bằng mà tịch diệt, tháp dựng tại Đại Từ Sơn, Minh Vương vẽ tượng đảnh lễ).”
(頑石點頭): nghĩa là loại đá ngu ngơ, vô tri vô giác mà cũng gật đầu. Thuật ngữ này phát xuất từ câu chuyện của Pháp Sư Trúc Đạo Sanh (竺道生, ?-434) có đề cập trong một số sử liệu như Lịch Triều Thích Thị Tư Lãm (歷朝釋氏資鑑, CBETA No. 1517) quyển 2, Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, CBETA No. 1541), Đông Lâm Thập Bát Cao Hiền Truyện (東林十八高賢傳, CBETA No. 1543), Tông Thống Biên Niên (宗統編年, CBETA No. 1600) quyển 7, v.v. Pháp Sư Trúc Đạo Sanh, họ Ngụy (魏), xuất thân Cự Lộc (鉅鹿), tư chất đỉnh ngộ khác thường. Lúc nhỏ, ông theo xuất gia với Trúc Pháp Thái (竺法汰), đối với kinh điển, chỉ một lần nhìn qua đã tụng thông suốt hết thảy. Khi trưởng thành, ông đăng pháp tòa, thuyết giảng thông suốt sự lý. Tuy vậy, ông vẫn không hề dám tự hào, thường lấy đạo tâm ban đầu làm căn bản. Ông vào Lô Sơn (廬山) ẩn cư suốt bảy năm trường, hằng ngày chuyên tụng Pháp Hoa Kinh (法華經). Sau ông cùng với Tăng Duệ (僧叡), Huệ Nghiêm (慧嚴), Huệ Quán (慧觀), v.v., lên Trường An (長安) tham học, theo thọ giáo với La Thập (羅什). Tăng chúng ai cũng ngưỡng mộ sự thần ngộ của ông. Hoàng Hậu Cung Tư (恭思) nhà Tấn kiến lập Thanh Viên Tự (青園寺) và cung thỉnh ông về làm trú trì nơi đây. Vào tháng mùa hè, sấm sét chấn động điện Phật Thanh Viên Tự, rồng bay lên trời, hào quang rực rỡ. Nhân đó chùa được đổi tên là Long Quang Tự (龍光寺). Người đương thời bảo rằng: “Long ký dĩ khứ, Sanh tất hành hỉ (龍既已去、生必行矣, rồng đã đi rồi, Sanh ắt đi luôn).” Chính tại chùa này, ông đã từng thỉnh luật sư vùng Kế Tân (罽賓) dịch bộ Sa Di Tắc Luật (沙彌塞律) và lưu truyền cho hậu thế. Về sau ông lên ngao du Hổ Kheo Sơn (虎丘山) thuộc đất Ngô, sắp đá làm thành thính chúng, giảng Niết Bàn Kinh (涅槃經), đến Phẩm Xiển Đề (闡提品), đoạn có Phật tánh, bèn bảo rằng: “Như ngã sở thuyết, nghĩa khế Phật tâm phủ (如我所說、義契佛心否, như lời ta thuyết giảng, nghĩa có khế hợp với tâm chư Phật không ?).” Các tảng đá vô tri nghe vậy gật đầu. Chỉ nội trong tuần đó, học đồ tập trung đến cả trăm người. Vua Văn Đế (文帝, tại vị 424~453) nhà Tống nghe vậy lại càng kính mộ thêm. Vào tháng 11 năm thứ 11 (434) niên hiệu Nguyên Gia (元嘉) nhà Tống, sau khi thuyết giảng xong tại Lô Sơn, cát bui rơi rụng, ông ngồi ngay ngắn, thâu thần thị tịch như nhập vào Thiền định. Trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, CBETA No. 1571) quyển 110 có câu: “Vô tình thuyết pháp chư Phật giải thính, chư Phật thuyết pháp hữu tình đắc văn, hữu tình thuyết pháp ngoan thạch điểm đầu (無情說法諸佛解聽、諸佛說法有情得聞、有情說法頑石點頭, vô tình thuyết pháp chư Phật lắng hiểu, chư Phật thuyết pháp hữu tình được nghe, hữu tình thuyết pháp đá cũng gật đầu).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập