Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trí Động »»
(白雲慧曉, Hakuun Egyō, 1228-1297): vị tăng của Phái Thánh Nhất thuộc Lâm Tế Tông Nhật Bản, tự là Bạch Vân (白雲), người vùng Tán Kì (讚岐, Sanuki, thuộc Kagawa-ken [香川縣]). Lúc nhỏ ông đã lên Tỷ Duệ Sơn (比叡山) học giáo học Thiên Thai, rồi đến nghe giới luật ở Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Sennyū-ji), sau đến Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) gặp được Viên Nhĩ (圓爾, Enni), theo hầu hạ vị này trong vòng 8 năm, có chỗ khế ngộ. Vào năm thứ 3 (1266) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), ông sang nhà Tống cầu pháp, đi ngao du khắp đó đây, cuối cùng được đại ngộ dưới trướng của Hy Tẩu Thiệu Đàm (希叟紹曇). Sau ông trở về nước, và vào năm thứ 5 (1292) niên hiệu Chánh Ứng (正應), thể theo lời thỉnh cầu ông đến trú trì Đông Phước Tự. Vào ngày 25 tháng 12 năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Nhân (永仁), ông thị tịch, hưởng thọ 70 tuổi đời và 54 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu là Phật Chiếu Thiền Sư (佛照禪師). Ông có để lại các tác phẩm như Huệ Hiểu Hòa Thượng Ngữ Lục (慧曉和尚語錄) 2 quyển, Bạch Vân Hòa Thượng Ngữ Lục (白雲和尚語錄).
(功存, Kōzon, 1720-1796): vị Tăng của Chơn Tông, sống trong khoảng thời đại Giang Hộ, từng đảm nhiệm chức Năng Hóa (能化, Nōke) trong vòng 28 năm (1769-1796) ở Học Lâm của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji). Ông xuất gia ở Bình Thừa Tự (平乘寺, Heijō-ji) vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), nơi ông xuất thân. Vào năm 1762 (Bảo Lịch [寶曆] 12), ông viết cuốn Nguyện Sanh Quy Mạng Biện (願生歸命辨) và sau này Trí Động (智洞), người nhậm chức Năng Hóa đời thứ 8, cũng tiếp tục kế thừa tư tưởng này và phát huy mạnh hơn nữa.
(大瀛, Daiei, 1760-1804): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; húy là Đại Doanh (大瀛), Quách Lượng (廓亮); tên lúc nhỏ là Ki Chi Tấn (幾之進), Thị Đại (示大); tự là Tử Dung (子容); thụy hiệu Chơn Thật Viện (眞實院), hiệu là Nhưng Viên (芿園), Thiên Thành (天城), Kim Cang Am (金剛庵), Thoại Hoa (瑞華), Tịch Nhẫn (寂忍), Bảo Chơn (葆眞), Lãng Nhiên (朗然), Viên Hải (圓海), Bảo Lương (寶梁); xuất thân Trung Đồng Hạ (中筒賀, Nagatsutsuga), An Nghệ (安芸, Aki, thuộc Hiroshima [廣島]); con trai thứ 3 của Lâm Dưỡng Triết (林養哲). Ông theo hầu Tuệ Vân (慧雲) ở Báo Chuyên Phường (報專坊), vùng An Nghệ, tu học giáo thuyết Chơn Tông và kiêm học cả ngoại điển. Sau ông từ bỏ việc thế tục, chuyển đến trú tại Thắng Viên Tự (勝圓寺) ở trong vùng, mở trường Tư Thục ở vùng Quảng Đảo (廣島, Hiroshima) và tận lực giáo dục chúng môn đệ. Vào năm 1797, ông đề xuất thư chất vấn lên trường Học Lâm về việc Năng Hóa Trí Động (能化智洞) chủ trương thuyết Dục Sanh Quy Mạng (欲生歸命), rồi viết cuốn Hoành Siêu Trực Đạo Kim Cang Phê (橫超直道金剛錍), Chơn Tông An Tâm Thập Luận (眞宗安心十論) để làm sáng tỏ Tông nghĩa chánh thống. Năm 1804, vâng mệnh chính quyền Mạc Phủ, ông cùng với nhóm Đạo Ẩn (道隱) xuống Giang Hộ, tiến hành đối luận với Trí Động. Trước tác của ông có Chơn Tông An Tâm Thập Luận (眞宗安心十論) 2 quyển, Hoành Siêu Trực Đạo Kim Cang Phê (橫超直道金剛錍) 3 quyển, Luận Hành Thiên (論衡篇) 2 quyển, Vãng Sanh Luận Chú Nguyên Yếu (徃生論註原要) 6 quyển, v.v.
(岱宗心泰, Daisū Shintai, 1327-1415): vị tăng của phái Dương Kì và Đại Huệ thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Đại Tông (岱宗) hay Phật Huyễn (佛幻), xuất thân vùng Thượng Ngu (上虞, Tỉnh Triết Giang), họ Tôn (孫). Năm 15 tuổi, ông theo xuất gia với Ốc Châu Đạt (沃洲達) ở Đẳng Từ Tự (等慈寺) cũng như Đồ Văn Tẩu Ái (徒聞叟愛). Sau ông đến thọ Cụ Túc giới tại Khai Nguyên Tự (開原寺) ở Quận Thành (郡城). Từ đó, ông bắt đầu đi du phương học đạo, đến an cư tại Tây Thiên Trúc Tự (西天竺寺) ở Hàng Châu (杭州), gặp được Cổ Đỉnh Tổ Minh (古鼎祖銘) ở Kính Sơn (徑山) nên theo hầu vị này suốt 10 năm. Nhân hay tin Mộng Đường Đàm Ngạc (夢堂曇噩) hiện đang ở tại Quốc Thanh Tự (國清寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山), ông bèn đến bái yết và cuối cùng được đắc pháp. Vào năm đầu (khoảng 1368) niên hiệu Hồng Võ (洪武), ông quản lý Long Tuyền Tự (龍泉寺) ở Diêu Giang (姚江), rồi đến trú trì Đông Sơn Quốc Khánh Tự (東山國慶寺) ở Thượng Ngu, cũng như Trung Thiên Trúc Tự (中天竺寺) và Kính Sơn vào năm đầu (1403) niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂). Đến năm thứ 4 (1406) cùng niên hiệu trên, ông nhận chiếu chỉ tu chỉnh bộ Vĩnh Lạc Đại Điển (永樂大典), năm sau thì trở về núi và lui về ẩn cư ở Tịch Chiếu Am (寂照庵). Vào năm thứ 9 cùng niên hiệu trên, theo lời thỉnh cầu ông lại trở về Vĩnh Lạc. Đến ngày 14 tháng 11 năm thứ 13 (1415), ông thị tịch, hưởng thọ 89 tuổi. Ông có viết bộ Phật Pháp Kim Thang Thiên (佛法金湯篇) 16 quyển vào năm thứ 24 (1391) niên hiệu Hồng Võ.
(能化, Nōke): tiếng kính xưng cũng như chức vụ đối với chư vị sư phạm, thầy dạy học, người chỉ đạo, hướng dẫn. Từ này còn chỉ cho chư Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh. Trong Tịnh Độ Chơn Tông, chức này được dùng để chỉ cho quý vị cao đức hướng dẫn, dạy dỗ chúng tăng ở các Học Lâm của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji). Chuẩn Huyền (准玄) là người đầu tiên được bổ nhiệm chức Năng Hóa ở Học Lâm của Tây Bổn Nguyện Tự vào năm 1639 (Khoan Vĩnh [寛永] 16), và trãi qua 7 đời, đến Trí Động (智洞) thì chấm dứt. Lịch đại chư vị đảm nhiệm chức này như sau: (1) Chuẩn Huyền (准玄, 1639-1647, tại chức 9 năm), (2) Tây Ngâm (西吟, 1647-1664, tại chức 18 năm), (3) Tri Không (知空, 1664-1718, tại chức 55 năm), (4) Nhã Lâm (若霖, 1718-1735, tại chức 18 năm), (5) Pháp Lâm (法霖, 1735-1741, tại chức 7 năm), (6) Nghĩa Giáo (義敎, 1755-1768, tại chức 14 năm), (7) Công Tồn (功存, 1769-1796, tại chức 28 năm), và (8) Trí Động (智洞, 1797-1801, tại chức 5 năm). Trong đó, người tại chức lâu nhất là Tri Không và ngắn nhất là Trí Động.
(三業惑亂, Sangōwakuran): cuộc pháp luận (luận tranh về giáo pháp) xảy ra trong nội bộ Phái Bổn Nguyện Tự (本願寺派, Honganji-ha, phía Tây Bổn Nguyện Tự) thuộc Tịnh Độ Chơn Tông dưới thời Giang Hộ (江戸, Edo, 1600-1867). Người đứng ra xét xử để dẹp yên vụ náo động này là Hiếp Phản An Đổng (脇坂安董, Wakizaka Yasutada), quan Tự Xã Phụng Hành (寺社奉行, Jishabugyō) và là Phiên chủ đời thứ 8 của Phiên Long Dã (龍野藩, Tatsuno-han). Trong phần An Đổng của cuốn Hiếp Phản Gia Phổ (脇坂家譜) có ghi rằng: “Ngày 11 tháng 7 năm Văn Hóa thứ 3 (1806), xét xử vụ náo động về Tông ý của Tây Bổn Nguyện Tự.” Tại Thiện Long Tự (善龍寺, Zenryū-ji, thuộc Tatsuno-shi [龍野市], Hyōgo-ken [兵庫縣]) vẫn còn thư tịch Chơn Tông Tân Nghĩa Cổ Nghĩa Tài Đoạn Thật Ký (眞宗新義古義裁斷實記), được xuất bản ở Long Dã. Sự kiện Tam Nghiệp Hoặc Loạn này là cuộc luận tranh về vấn đề gọi là Dị An Tâm (異安心, ianshin, an tâm theo nghĩa khác). Dị An Tâm ở đây có nghĩa là an tâm của Chơn Tông, khác với an tâm của cảnh giới cứu độ; cho nên đây là cuộc luận tranh để nêu rõ đâu là an tâm đúng nghĩa. An tâm và giáo tướng (giáo lý) có mối quan hệ mật thiết hỗ tương lẫn nhau, không thể phân ly; cho nên nếu giáo thuyết mà sai lạc thì có khả năng nảy sinh mê tín, tà tín. Sự kiện này phát sinh vào năm 1791 (Khoan Chính [寛政] 3) và chấm dứt vào năm 1806 (Văn Hóa [文化] 3). Thật ra, vụ này cần phải mất 10 năm mới giải quyết xong. Nguyên nhân xảy ra cuộc náo động này là sau lễ Húy Kỵ lần thứ 300 của Liên Như Thượng Nhân (蓮如上人) vào năm 1798 (Khoan Chính 10). Năm trước đó, 1797, Trí Động (智洞), người nhậm chức Năng Hóa (能化, Nōke) đời thứ 7 của Học Lâm, thay thế Văn Như Thượng Nhân (文如上人) giảng thuyết về Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經); trong đó, ông tuyên xướng thuyết gọi là Tam Nghiệp Quy Mạng (三業歸命), Dục Sanh Quy Mạng (欲生歸命). Nếu truy nguyên đầu nguồn của thuyết này, nó vốn phát xuất từ Tri Không (知空), vị Năng Hóa đời thứ 3, cho đến Tuấn Đế (峻諦), cho đến vị Năng Hóa đời thứ 7 là Công Tồn (功存). Vị này viết cuốn Nguyện Sanh Quy Mạng Biện (願生歸命辨) để đưa ra chủ thuyết mới là Tam Nghiệp Quy Mạng; và đến thời của Trí Động thì thuyết này đã trở thành tiêu chuẩn an tâm của Chơn Tông thuộc phái Bổn Nguyện Tự. Như có đề cập ở trên, vào ngày 11 tháng 7 năm 1806, An Đổng đứng ra xét xử vụ dao động này, phán quyết rằng thuyết Tam Nghiệp Quy Mạng là không đúng chánh nghĩa, tuyên phạt rất khoan dung phía Tông môn Phái Bổn Nguyện Tự phải bế môn trong vòng 100 ngày. Cũng nhân xảy ra vụ này, chức Năng Hóa bị phế bỏ hẳn luôn.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập