Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy lắng nghe trước khi nói. Hãy suy ngẫm trước khi viết. Hãy kiếm tiền trước khi tiêu pha. Hãy dành dụm trước khi nghỉ hưu. Hãy khảo sát trước khi đầu tư. Hãy chờ đợi trước khi phê phán. Hãy tha thứ trước khi cầu nguyện. Hãy cố gắng trước khi bỏ cuộc. Và hãy cho đi trước khi từ giã cuộc đời này. (Before you speak, listen. Before you write, think. Before you spend, earn. Before you retire, save. Before you invest, investigate. Before you critisize, wait. Before you pray, forgive. Before you quit, try. Before you die, give. )Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trấn Hộ Quốc Gia »»
(北帝): tiếng gọi tắt của Huyền Thiên Thượng Đế (玄天上帝), Bắc Phương Chơn Võ Huyền Thiên Thượng Đế (北方眞武玄天上帝), Chơn Võ Đại Đế (眞武大帝), Huyền Thiên Thượng Đế (玄天上帝), Huyền Võ Đại Đế (玄武大帝), Bắc Cực Đại Đế (北極大帝), Bắc Cực Hựu Thánh Chơn Quân (北極佑聖眞君), Khai Thiên Đại Đế (開天大帝), Nguyên Võ Thần (元武神); dân gian thường gọi là Thượng Đế Công (上帝公, Ông Thượng Đế), Thượng Đế Da (上帝爺, Lão Thượng Đế), v.v. Ông tượng trưng cho sao Bắc Cực, là vị thần của Đạo Giáo, quản lý phương Bắc, thống lãnh thủy tộc (kiêm cả Thủy Thần). Vì ông thuộc màu đen trong 5 màu ở phương Bắc, nên còn có tên là Hắc Đế (黑帝). Huyền Thiên Thượng Đế còn là vị thần Trấn Hộ Quốc Gia của thời nhà Minh (1368-1662); cho nên các quan lại có lập nhiều miếu thờ vị thần này. Về lai lịch của ông, căn cứ vào Thái Thượng Thuyết Huyền Thiên Đại Thánh Chơn Võ Bổn Truyện Thần Chú Diệu Kinh (太上說玄天大聖眞武本傳神咒妙經) cho biết rằng Huyền Thiên Thượng Đế là hóa thân thứ 82 của Thái Thượng Lão Quân (太上老君), thác sanh nơi Đại La Cảnh Thượng Vô Dục Thiên Cung (大羅境上無慾天宮), con của Quốc Vương Tịnh Lạc (凈樂國王) và Hoàng Hậu Thiện Thắng (善勝皇后). Hoàng Hậu nằm mộng thấy ăn mặt trăng, đến khi tỉnh dậy thì mang thai, trãi qua 14 tháng và hơn 400 ngày thì hạ sanh ông trong vương cung. Sau khi trưởng thành, từ giã song thân, lên tu đạo trên Võ Đương Sơn (武當山), trãi qua 42 năm thì công thành quả mãn. Nhân đó, Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝) có chiếu chỉ, phong cho ông là Thái Huyền (太玄), trấn thủ ở phương Bắc. Theo Hựu Thánh Chú (佑聖咒) gọi Huyền Thiên Thượng Đế là do “Thái Âm hóa sanh, Thủy Vị chi tinh, Hư Nguy thượng ứng, quy xà hợp hình, châu hành Lục Hợp, uy nhiếp vạn linh (太陰化生、水位之精、虛危上應、龜蛇合形、周行六合、威懾萬靈, Thái Âm hóa sinh, tinh của Thủy Vị, trên hợp với Hư Nguy, hình kết hợp của rùa rắn, đi khắp Sáu Cõi, uy nhiếp vạn loài).” Nhân vì Bắc Đế thuộc về thủy, nên có thể trị thủy, hàng thủy, giải trừ các tai họa về nước lửa. Các đền thờ vị thần này được kiến lập trong cung nội dưới thời nhà Minh, đều để cầu nguyện cho giải trừ mọi tai họa về nước lửa. Vì Bắc Đế có công lao dẹp trừ, tiêu diệt quy tinh, thuồn luồn dưới chân mình, nên được Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho là Huyền Thiên Thượng Đế. Ông là người thống lãnh thủy giới an toàn, có thể hướng dẫn cho tàu bè đi lại đúng phương hướng, chẳng bị lạc hướng trên biển. Còn Huyền Võ (玄武) là tên gọi chung của 7 ngôi sao ở phương Bắc trong Nhị Thập Bát Tú (二十八宿). Trong Sở Từ (楚辭), Thiên Viễn Du (遠遊) của Khuất Nguyên (屈原, 304-278 tcn) có câu: “Chiêu Huyền Võ nhi bôn thuộc (召玄武而奔屬, mời Huyền Võ đến hộ vệ).” Hình của Huyền Võ như rùa rắn, nên có lời chú giải rằng: “Huyền Võ vị quy xà, vị tại Bắc phương, cố viết Huyền; thân hữu lân giáp, cố viết Võ (玄武謂龜蛇、位在北方、故曰玄、身有鱗甲、故曰武, Huyền Võ có nghĩa là rùa rắn, an vị ở phương Bắc, nên gọi là Huyền; thân nó có giáp lân, nên gọi là Võ).” Trong khoảng niên hiệu Khai Bảo (開寶, 968-976) nhà Bắc Tống (北宋, 960-1127), Thần Huyền Võ giáng xuống Chung Nam Sơn (終南山). Vào năm thứ 6 (981) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國), ông được phong là Dực Thạnh Tướng Quân (翌盛將軍). Đến năm thứ 7 (1014) niên hiệu Đại Trung Tường Phù (大中祥符, 1008-1016) đời vua Tống Chơn Tông (宋眞宗, tại vị 997-1022), ông được phong thêm là Dực Thánh Bảo Đức Chơn Quân (翌聖保德眞君). Về sau, để tránh tên húy của Thánh Tổ Triệu Huyền Lãng (聖祖趙玄朗), Huyền Võ được đổi thành Chơn Võ. Ngày sinh của Huyền Thiên Thượng Đế là mồng 3 tháng 3 âm lịch. Theo truyền thuyết của Đài Loan, ông không phải là vương tử, mà là người đồ tể. Có hôm nọ, chàng đồ tể được thần minh mách bảo, nhất định từ bỏ không làm nghề đó nữa, cải tâm tu đạo, mổ bụng mình đem vất xuống sông và nhờ quyết tâm đó mà đắc đạo. Sau khi chứng đạo, bụng ông biến thành rùa tiên, ruột biến thành rắn tiên; cả hai tác quái khắp nơi. Nhân đó, Huyền Thiên Thượng Đế bèn mượn cây bảo kiếm của Bảo Sanh Đại Đế (保生大帝, có thuyết là mượn của Lữ Đồng Tân [呂洞賓]) để trấn áp hai tiên đó và cuối cùng thâu phục được. Sau đó, vì sợ hai con rùa rắn này không chịu quy phục, Huyền Thiên Thượng Đế cứ cầm kiếm canh giữ mãi mà không chịu hoàn trả cho Bảo Sanh Đại Đế. Cho nên, nơi tượng thờ Huyền Thiên Thượng Đế ở Đài Loan, ông có chân đỏ, đạp lên hai con rùa rắn, tay cầm chặt cây bảo kiếm. Cũng trên cơ sở của truyền thuyết này, tại Đài Loan, các nơi chế biến thịt, công ty đồ tể, thảy đều phụng thờ Huyền Thiên Thượng Đế làm vị thần bảo hộ cho công việc của họ. Minh Thành Tổ (明成祖, tại vị 1402-1424) đã từng đại tu các ngôi miếu vũ của Võ Đương, trong bức thư sắc chỉ kiến tạo Tử Vân Đình (紫雲亭), ông có ghi rằng: “Tịnh Lạc Quốc chi đông, hữu Tử Vân Đình, nãi Huyền Võ Đế giáng sanh chi phước địa (淨樂國之東、有紫雲亭、乃玄武帝降生之福地, phía đông Tịnh Lạc Quốc, có Tử Vân Đình, là vùng đất phước giáng sanh của Huyền Võ Đế).”
(三部經, Sambukyō): tên gọi ba bộ kinh có cùng chung nhất với nhau về nghĩa lý, được rút ra từ trong kinh điển. Tiêu biểu nhất là ba bộ Pháp Hoa, gồm Vô Lượng Nghĩa Kinh (無量義經), Pháp Hoa Kinh (法華經) và Quán Phổ Hiền Kinh (觀普賢經). Ở Nhật ngoài ba bộ này ra còn có ba bộ Trấn Hộ Quốc Gia, được gọi là Hộ Quốc Tam Bộ Kinh (護國三部經), gồm Pháp Hoa Kinh, Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), và Kim Cang Minh Kinh (金剛明經). Thêm vào đó còn có ba bộ Đại Nhật gồm Đại Nhật Kinh (大日經), Kim Cang Đảnh Kinh (金剛頂經) và Tô Tất Địa Kinh (蘇悉地經); ba bộ Di Lặc gồm Di Lặc Thượng Sanh Kinh (彌勒上生經), Di Lặc Hạ Sanh Kinh (彌勒下生經), và Di Lặc Thành Phật Kinh (彌勒成佛經), v.v. Trong bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) của Pháp Nhiên, lần đầu tiên dùng đến tên gọi Tịnh Độ Tam Bộ Kinh (淨土三部經), gồm Vô Lượng Thọ Kinh (無量義經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量義經), và A Di Đà Kinh (阿彌陀經).
(神護寺, Jingo-ji): ngôi chùa của Chơn Ngôn Tông Cao Dã Sơn, hiện tọa lạc tại Sakyō-ku (左京區), Kyōto-shi (京都市). Tiền thân của chùa này là Cao Hùng Sơn Tự (高雄山寺, Takaosan-ji), do dòng họ Hòa Khí (和氣, Waki) sáng lập nên vào khoảng năm 784 khi Trường Cương Kinh (長岡京) dời đô. Trước và sau khi Tối Trừng (最澄, Saichō) sang nhà Đường cầu pháp, Hòa Khí Quảng Thế (和氣廣世) đã từng cung thỉnh ông đến chùa này để thuyết giảng Kinh Pháp Hoa cũng như mở Đàn Quán Đảnh. Vào năm 806 (niên hiệu Đại Đồng [大同] nguyên niên), sau khi trở về nước, Không Hải (空海, Kūkai) cũng tiến hành lễ Quán Đảnh của hai bộ Thai Tạng tại chùa này; sự việc Tối Trừng và đệ tử ông đăng đàn thọ pháp Quán Đảnh được ghi lại trong cuốn Quán Đảnh Lịch Danh (灌頂歷名) do chính tay Không Hải viết. Đến năm 824 (niên hiệu Thiên Trường [天長] nguyên niên), Hòa Khí Thanh Ma Lữ (和氣清麻呂, Waki-no-Kiyomaro, 733-799) dời Thần Nguyện Tự (神願寺) đến Cao Hùng Sơn Tự, lấy tên là Thần Hộ Quốc Tộ Chơn Ngôn Tự (神護國祚眞言寺, Jingokokusoshingon-ji, gọi tắt là Thần Hộ Tự), trở thành ngôi chùa được cấp ngạch của triều đình và là đạo tràng Trấn Hộ Quốc Gia. Tượng thờ chính, Dược Sư Như Lai, ở Kim Đường rất nghiêm nghị, là tượng Phật có đặc trưng của nền văn hóa đầu thời Bình An (平安, Heian). Trong hai lần chùa bị hỏa hoạn vào năm 994 (niên hiệu Chánh Lịch [正曆] thứ 5) và 1149 (niên hiệu Cửu An [久安] thứ 5), may thay tượng Phật vẫn còn nguyên vẹn; nhưng cảnh quan của chùa thì bị suy tàn. Vào mùa Thu năm 1168 (niên hiệu Nhân An thứ 3), đau xót trước trước cảnh điêu tàn của chùa khi đến viếng thăm, Văn Giác (文覺, Bunkaku) có dâng lời thỉnh cầu Hậu Bạch Hà Viện (後白河院) hỗ trợ phục hưng chùa, nhưng thất bại. Đến năm 1182 (niên hiệu Thừa An [承安] thứ 3), được sự trợ duyên của Tướng Quân Nguyên Lại Triều (源賴朝, Minamoto-no-Yoritomo), mục đích phục hưng chùa được hoàn thành. Quần thể kiến trúc hiện tồn có Đại Sư Đường (大師堂, còn gọi là Nạp Lương Phòng [納涼房]) được tái kiến dưới Thời Đại Đào Sơn (桃山時代, Momoyama-jidai); Tỳ Sa Môn Đường (毘沙門堂), Ngũ Đại Đường (五大堂), Minh Vương Đường (明王堂), Lầu Chuông, Kim Đường (金堂), Tháp Đa Bảo (多寳塔). Quốc bảo của chùa có các tượng Nguyên Lại Triều, Bình Trùng Thạnh (平重盛, Taira-no-Shigemori), Đằng Nguyên Quang Năng (藤原光能, Fujiwara-no-Mitsuyoshi), Thích Ca Như Lai, Dược Sư Như Lai, Ngũ Đại Hư Không Bồ Tát (五大虛空菩薩), đồ hình Lưỡng Giới Mạn Trà La (兩界曼茶羅, còn gọi là Cao Hùng Mạn Trà La [高雄曼茶羅]), danh sách Quán Đảnh (thủ bút của Không Hải), Tứ Thập Ngũ Cá Điều Khởi Thỉnh Văn (四十五箇條起請文) của Văn Giác, Phạn Chung, v.v.
(清水寺, Kiyomizu-dera hay Seisui-ji): ngôi chùa trung tâm của Bắc Pháp Tướng Tông, tọa lạc tại số 1-294 Kiyomizu (清水), Higashiyama-ku (東山區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); hiệu núi là Âm Vũ Sơn (音羽山), nơi tham bái hành hương thứ 16 trong suốt 33 nơi tham bái chính ở vùng Tây Quốc (西國, Saikoku). Tượng thờ chính của chùa là Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音). Vào năm 796, ngôi Quan Âm Tự (觀音寺) được dời đến vùng đất này, rồi đệ tử của Báo Ân Đại Sư (報恩大師) là Diên Trấn (延鎭) mới làm Tổ khai sơn chùa, còn hào tộc Điền Thôn Ma Lữ (田村麻呂) thì có công khai sáng chùa. Mấy năm sau các đường vũ của chùa được dựng lên và chùa trở thành ngôi chùa sắc nguyện của Hoàn Võ Thiên Hoàng (桓武天皇, Kammu Tennō), với tên gọi là Thanh Thủy Tự. Vào năm 811, chùa trở thành đạo tràng Trấn Hộ Quốc Gia, triều đình và hoàng thất quy y theo rất nhiều, nên chùa rất hưng thạnh. Sau đó, chùa phụ thuộc vào Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) ở vùng Nam Đô, chuyên tu cả Chơn Ngôn và Pháp Tướng, nhưng do chùa bị lôi cuốn vào cuộc phân tranh với Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji), nên cũng bao lần bị đốt cháy. Sau cuộc loạn Bình Nguyên (平源) thì chùa hoàn toàn suy thối, nhưng trong khoảng thời gian niên hiệu Kiến Cửu (建久, 1190-1198) thì chùa lại được tái kiến. Vào thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi) thì Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji) cúng dường đất xây chùa nên các đường vũ mới được tạo dựng nên. Sau đó chùa lại trải qua đến ba lần bị cháy rụi, rồi đến năm 1633 thì được Tướng Quân Đức Xuyên Gia Quang (德川家光, Tokugawa Iemitsu) tái kiến lại. Hiện tại có Thành Tựu Viện (成就院), Thái Sản Tự (泰産寺), Từ Tâm Viện (慈心院), Lai Nghênh Viện (來迎院), v.v. Chánh điện của chùa được tái kiến lại do sự hỗ trợ của Đức Xuyên Gia Quang, vẫn còn bảo trì cho đến ngày nay. Đây là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất ở kinh đô Kyoto.
(禪林寺, Zenrin-ji): còn gọi là Thánh Chúng Lai Nghênh Sơn (聖眾來迎山), tục xưng là Vĩnh Quán Đường (永觀堂), là ngôi chùa trung tâm của Phái Tây Sơn (西山派) thuộc Tịnh Độ Tông; hiện tọa lạc tại Yōgandō-chō (永觀堂町), Sakyō-ku (左京區), Kyoto-shi (京都市). Vào năm 855 (niên hiệu Tề Hành [齊衡] thứ 2), Chơn Thiệu (眞紹) cải biến ngôi sơn trang của Đằng Nguyên Quan Hùng (藤原關雄) thành Vô Lượng Thọ Viện (無量壽院), làm đạo tràng cầu nguyện Trấn Hộ Quốc Gia. Sau đó, vào năm 863 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 5), chùa được ban sắc phong của triều đình với tên gọi là Thiền Lâm Tự; đến năm 877 (niên hiệu Nguyên Khánh [元慶] nguyên niên), Ngự Nguyện Đường (御願堂) được xây dựng, lãnh vức của chùa cũng được mở rộng thêm. Chư vị danh đức như Tông Duệ (宗叡), Thâm Giác (深覺), Tĩnh Biến (靜遍) thay nhau làm cho tông phong của chùa hưng thạnh; nhưng trong khoảng thời gian niên hiệu Thừa Lịch (承曆, 1077-1080), khi Luật Sư Vĩnh Quán (永觀) của Tam Luận Tông đến trú trì chùa, kiến lập Đông Nam Viện (東南院) để giảng thuyết về Tam Luận và tuyên dương pháp môn Niệm Phật. Tượng thờ chính của chùa là A Di Đà Phật có câu chuyện liên quan đến Vĩnh Quán. Sau đó, Tịnh Âm (淨音) của Phái Tây Sơn thuộc Tịnh Độ Tông đến đây trú trì, cải đổi chùa thành đạo tràng Niệm Phật; và từ đó trở đi, chùa trở thành thánh địa của phái này. Trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁), chùa cũng bị suy tàn, nhưng đến thời đại Giang Hộ thì phục hưng lại. Bảo vật của chùa liên quan đến Tịnh Độ Giáo có rất nhiều như Sơn Việt A Di Đà Đồ (山越阿彌陀圖), Lai Nghênh Đồ (來迎圖), Đương Ma Mạn Trà La Đồ (當麻曼荼羅圖), Dung Thông Niệm Phật Duyên Khởi (融通念佛緣起), Thích Ca Tam Tôn, 3 bức Thập Đại Đệ Tử, 16 bức Thập Lục La Hán, v.v.
(常曉, Jōgyō, ?-866): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời Bình An, húy là Thường Hiểu, thông xưng là Tiểu Lật Thê Luật Sư (小栗栖律師), Nhập Đường Căn Bản Đại Sư (入唐根本大師). Ban đầu ông theo Phong An (豐安) ở Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji) học về Tam Luận, đến năm 815 thì thọ giới, rồi sau đó thọ phép Quán Đảnh với Không Hải (空海, Kūkai). Vào năm 829, ông làm Đạo Sư cho Ngự Trai Hội, rồi năm 838 thì sang nhà Đường cầu pháp với tư cách là Lưu Học Tăng học về Tam Luận, rồi được Linh Tiên (靈仙), vị tăng sang nhà Đường trước ông, phó chúc lại các di phẩm tại Hoài Nam (淮南). Sau ông thọ phép Quán Đảnh với Văn Tế ở Thê Linh Tự (栖靈寺), Dương Châu (揚州), theo học Tam Luận với Nguyên Chiếu (元照) ở Hoa Lâm Tự (華林寺), và đến năm 839 thì trở về nước. Năm sau, ông cho an trí tượng Thái Nguyên Soái Minh Vương (太元帥明王) tại Pháp Lâm Tự (法琳寺), vùng Vũ Trị (宇治, Uji), rồi được sắc chỉ cho phép lập Tu Pháp Viện (修法院) để Trấn Hộ Quốc Gia, và cùng năm đó thì tiến hành pháp tu Thái Nguyên Soái tại Thường Ninh Điện (常寧殿) trong cung nội. Trước tác của ông để lại có Tôn Thắng Phật Đảnh Thứ Đệ (尊勝佛頂次第), Nhập Đường Căn Bổn Đại Sư Ký (入唐根本大師記), Tấn Quan Thỉnh Lai Lục (進官請來錄), A Tra Bà Câu Thứ Đệ (阿吒婆倶次第) 1 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập