Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trai đàn »»
(榜): trong nghi thức Trai đàn của Phật Giáo cũng như Đạo Giáo, đây là một loại văn thư dùng niêm yết, với ý nghĩa thông báo trước cho mọi người biết về trình tự pháp sự, chi tiết hành lễ, thành phần tham dự, trình tự khoa nghi, chức vị của chư vị trong đàn tràng, v.v. Loại này vẫn thường dùng rất phổ biến để niêm yết, thông tri các tin tức, v.v., như Bảng Văn (榜文), Bảng Thiếp (榜帖), Phóng Bảng (放榜), Bảng Đơn (榜單). Trong Nho Lâm Ngoại Sử (儒林外史) hồi thứ 2 có câu: “Đệ kim niên chánh nguyệt sơ nhất nhật mộng kiến khán hội thí bảng (弟今年正月初一日夢見看會試榜, vào ngày mồng một tháng Giêng năm nay, đệ mơ thấy gặp bảng thi đỗ).” Trong Công Văn Đàn Tràng, thường có các loại Bảng như Tiết Thứ Bảng (節次榜), Chẩn Tế Trai Đàn Bảng (賑濟齋壇榜), Huyết Hồ Tứ Phương Bảng Cáo (血湖四方榜吿), v.v.
(普庵咒): nguyên danh là Phổ Am Đại Đức Thiền Sư Thích Đàm Chương Thần Chú (普庵大德禪師釋談章神咒), còn gọi là Chú Phổ An (普安咒), hoặc Thích Đàm Chương (釋談章), lần đầu tiên thấy xuất hiện trong bản cầm phổ Tam Giáo Đồng Thanh (三敎同聲, 1592). Căn cứ vào văn ký tải của Dương Luân Bá Nha Tâm Pháp (楊掄伯牙心法) cho biết rằng: “Tư khúc tức Phổ Am Thiền Sư chi chú ngữ, hậu nhân dĩ luật điệu nghĩ chi (斯曲卽普庵禪師之咒語,後人以律調擬之也, khúc này là chú ngữ của Thiền Sư Phổ Am, người đời sau lấy luật điệu mô phỏng theo).” Chú này được xem như là Tổ Sư Chú (祖師咒), rất ít thấy ở Trung Quốc và không rõ nguyên nhân sáng tác thế nào. Trong lúc sinh tiền, Thiền Sư Phổ Am Ấn Túc (普庵印肅, 1115-1169) thường làm những điều linh nghiệm như bẻ cây trị bệnh, chặt cây ma quái, cầu mưa, v.v. Hơn nữa, ông lại rất tinh thông Phạn văn, từng lấy Phạn văn phiên âm thành chú, người đời gọi đó là Phổ Am Chú (普庵咒). Thần chú này có thần lực làm cho an định mười phương và tòng lâm, nên thường được tụng tại các tự viện vào mỗi dịp đầu và giữa tháng. Thậm chí thần chú này còn có công năng xua đuổi các loài muỗi, trùng, rắn rít, v.v. Trong khoảng niên hiệu Vạn Lịch (萬曆, 1573-1620) nhà Minh, Thiền Sư Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615) mới đưa thần chú này vào bản Chư Kinh Nhật Tụng (諸經日誦). Trong bản Thiền Môn Nhật Tụng (禪門日誦) được khắc ấn đầu tiên vào khoảng niên hiệu Đạo Quang (道光, 1821-1850) của vua Tuyên Tông (宣宗, tại vị 1820-1850) nhà Thanh, cũng có thâu lục thần chú này. Chú Phổ Am có kết cấu rất nghiêm cẩn, dễ đọc tụng và ghi nhớ. Thần chú này có nhiều tổ hợp đơn âm, cấu thành một loại luật tắc tự nhiên, giống như sự giao hòa hỗ tương của ba yếu tố Thiên-Địa-Nhân, khiến cho người nghe tự nhiên thể nhập vào cảnh giới linh không, thanh tịnh, và có tinh thần cảm ứng đạo giao, có cầu có ứng qua hình tượng Thiền Sư Phổ Am. Tương truyền thần chú này có công năng có thể tiêu tai, giải trừ ách nạn, khiến cho các loài côn trùng, chuột, muỗi, kiến, rắn, rít, v.v., phải tránh xa, các hung thần ác sát đều xa lánh. Nội dung của thần chú như sau: “Nam Mô Phật Đà Da. Nam Mô Đạt Ma Da. Nam Mô Tăng Già Da. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam Mô Phổ Am Tổ Sư Bồ Tát. Nam Mô Bách Vạn Hỏa Thủ Kim Cang Vương Bồ Tát. Án, ca ca kê kê cu cu kê; cu kê cu; kiêm kiều kê; kiều kê kiêm. Ca ca kê kê cu cu kê kiều kiêm, kiêm, kiêm, kiêm kiêm kiêm; nghiệm nghiêu nghê, nghiêu nghê nghiệm; ca ca kê kê cu cu da; dụ dụ, dụ dụ, dụ dụ, dụ dụ dụ. Nghiên, giới. Già già chi chi châu châu chi; châu chi châu; chiêm chiêu chi, chiêu chi chiêm. Già già chi chi châu châu chi chiêu chiêm, chiêm, chiêm, chiêm chiêm chiêm; nghiệm nghiêu nghê; nghiêu nghê nghiệm. Già già chi chi châu châu da; dụ dụ, dụ dụ, dụ, dụ, dụ dụ dụ. Thần, nhạ. Tra tra tri tri đô đô tri; đô tri đô; đảm đa tri; đa tri đảm. Tra tra tri tri đô đô tri đa đảm, đảm, đảm, đảm đảm đảm; nam na ni; na ni nam. Tra tra tri tri đô đô da; nô nô, nô nô, nô, nô, nô nô nô. Đát, na. Đa đa đế đế đa đa đế; đa đế đa, đàm đa đế; đa đế đàm. Đa đa đế đế đa đa đế đa đàm, đàm, đàm, đàm đàm đàm; nam na ni; na ni nam. Đa đa đế đế đa đa da; nô nô, nô nô, nô, nô, nô nô nô. Đàn, na. Ba ba bi bi ba ba bi; ba bi ba; phạn ba bi; ba bi phạn. Ba ba bi bi ba ba bi ba phạn, phạn, phạn, phạn phạn phạn; phạn ma mê; ma mê phạn. Ba ba bi bi ba ba da; Mẫu mẫu, mẫu mẫu, mẫu, mẫu, mẫu mẫu mẫu. Phạn, ma. Án, ba đa tra; già ca da; dạ lan ha; a sắt tra; tát hải tra; lậu lô lậu lô tra; già ca dạ, ta ha. Vô số Thiên Long Bát Bộ, bách vạn Hỏa Thủ Kim Cang, tạc nhật phương ngung, kim nhật Phật địa, Phổ Am đáo thử, bách vô cấm kỵ (南無佛陀耶、南無達摩耶、南無僧伽耶、南無本師釋迦牟尼佛、南無大悲觀世音菩薩、南無普庵祖師菩薩。唵、迦迦雞雞倶倶雞、倶雞倶、兼喬雞、喬雞兼。迦迦雞雞倶倶雞喬兼、兼、兼、兼兼兼、驗堯倪、堯倪驗。迦迦雞雞倶倶耶、喻喻、喻喻、喻、喻、喻喻喻。研、界。遮遮支支朱朱支、朱支朱、占昭支、昭支占。遮遮支支朱朱支昭占、占、占、占占占、驗堯倪、堯倪驗。遮遮支支朱朱耶、喻喻、喻喻、喻、喻、喻喻喻。神、惹。吒吒知知都都知、都知都、擔多知、多知擔。吒吒知知都都知多擔、擔、擔、擔擔擔、喃那呢、那呢喃。吒吒知知都都耶、奴奴、奴奴、奴、奴、奴奴奴。怛、那。多多諦諦多多諦、多諦多、談多諦、多諦談。多多諦諦多多諦多談、談、談、談談談、喃那呢、那呢喃。多多諦諦多多耶、奴奴、奴奴、奴、奴、奴奴奴。檀、那。波波悲悲波波悲、波悲波、梵波悲、波悲梵。波波悲悲波波悲波梵、梵、梵、梵梵梵、梵摩迷、摩迷梵。波波悲悲波波耶、母母、母母、母、母、母母母。梵、摩。唵、波多吒、遮迦耶、夜闌訶、阿瑟吒、薩海吒、漏嚧漏嚧吒、遮迦夜、娑訶。無數天龍八部、百萬火首金剛、昨日方隅、今日佛地、普庵到此、百無禁忌).” Trong Thiền Môn của Việt Nam, thần chú này cũng được dùng để trì tụng đặc biệt trong các lễ nghi quan trọng như tang lễ, khánh thành tân gia, Trai Đàn Chẩn Tế, Giải Oan Bạt Độ, v.v.
(九壘): Đạo Giáo chia thế giới dưới lòng đất (thế giới u minh, hay Địa Ngục) làm 9 tầng, gọi là Cửu Lũy; trong đó mỗi Lũy có 4 tầng, cọng thành 36 tầng, mỗi Lũy đều có 1 vị Thổ Hoàng (土皇) cai quản. Theo Động Huyền Linh Bảo Hà Đồ Ngưỡng Tạ Tam Thập Lục Thổ Hoàng Trai Nghi (洞玄靈寶河圖仰謝三十六土皇齋儀), tên gọi Cửu Lũy gồm:
(1) Sắc Nhuận Địa (色潤地) có vị Thổ Hoàng thứ nhất họ Tần (秦), húy là Hiếu Cảnh Thung (孝景椿); vị thứ 2 họ Hoàng (黃), Húy Xương Thượng Văn (昌上文); vị thứ 3 họ Thanh (青), húy Huyền Văn Cơ (玄文基); vị thứ 4 họ Phỉ (蜚), húy là Trung Trận Hoàng (忠陣皇).
(2) Cang Sắc Địa (剛色地) có vị Thổ Hoàng thứ 5 họ Thú (戍), húy là Thần Văn Quang (神文光); vị thứ 6 họ Úc (郁), húy là Hoàng Mẫu Sanh (黃母生); vị thứ 7 họ Huyền (玄), húy là Càn Đức Duy (乾德維); vị thứ 8 họ Trường (長), húy là Hoàng Minh (皇明).
(3) Thạch Lạp Sắc Trạch Địa (石臘色澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 9 họ Trương (張), húy là Duy Thần (維神); vị thứ 10 họ Châu (周), húy là Bá Thượng Nhân (伯上人); vị thứ 11 họ Chu (朱), húy là Minh Xa Tử (明車子); vị thứ 12 họ Canh (庚), húy là Văn Kính Sĩ (文敬士).
(4) Nhuận Trạch Địa (潤澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 13 họ Cổ (賈), húy là Vân Tử Cao (雲子高); vị thứ 14 họ Tạ (謝), húy là Bá Vô Nguyên (伯無元); vị thứ 15 họ Kỷ (己), húy là Văn Thái Trận (文泰陣); vị thứ 16 họ Hành (行), húy là Cơ Chánh Phương (機正方).
(5) Kim Túc Trạch Địa (金粟澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 17 họ Hoa (華), húy là Diên Kỳ Minh (延期明); vị thứ 18 họ Hoàng (黃), húy là Linh Ngã Dung (齡我容); vị thứ 19 họ Vân (雲), húy là Thám Vô Uyên (探無淵); vị thứ 20 họ Tương (蔣), húy là Thông Bát Quang (通八光).
(6) Kim Cang Thiết Trạch Địa (金剛鐵澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 21 họ Lý (李), húy là Thượng Thiếu Quân (上少君); vị thứ 22 họ Phạm (范), húy là Lai Lực An (來力安); vị thứ 23 họ Trương (張), húy là Quý Quý Nguyên (李季元); vị thứ 24 họ Vương (王), húy là Tứ Nữ Dung (駟女容).
(7) Thủy Chế Trạch Địa (水制澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 25 họ Đường (唐), húy là Sơ Sanh Ánh (初生映); vị thứ 26 họ Ngô (吳), húy là Chánh Pháp Đồ (正法圖); vị thứ 27 họ Hán (漢), húy là Cao Văn Triệt (高文徹); vị thứ 28 họ Kinh (京), húy là Trọng Long Thủ (仲龍首).
(8) Đại Phong Trạch Địa (大風澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 29 họ Cát (葛), húy là Huyền Thăng Quang (玄升光); vị thứ 30 họ Hoa (華), húy là Mậu Vân Trường (茂雲長); vị thứ 31 họ Dương (羊), húy là Chơn Động Huyền (眞洞玄); vị thứ 32 họ Châu (周), húy là Thượng Kính Nguyên (尚敬原).
(9) Động Uyên Vô Sắc Cang Duy Địa (洞淵無色剛維地) có vị Thổ Hoàng thứ 33 họ Cực (極), húy là Vô Thượng Huyền (無上玄); vị thứ 34 họ Thăng (升), húy là Linh Nguyên Hạo (靈元浩); vị thứ 35 họ Triệu (趙), húy là Thượng Bá Huyền (上伯玄); vị thứ 36 họ Nông (農), húy là Lặc Vô Bá (勒無伯).
Trong tác phẩm Vô Thượng Hoàng Lục Đại Trai Lập Thành Nghi (無上黃籙大齋立成儀) do Tương Thúc Dư (蔣叔輿) nhà Nam Tống biên soạn có thêm vào hai chữ Hậu Thổ (后土) trước mỗi danh hiệu của các vị Thổ Hoàng để cho biết rằng đạo giáo dưới thời kỳ này xem Thổ Hoàng là những vị thần linh thuộc hạ của Hậu Thổ. Tại điện thờ Tứ Ngự đều có an trí thần tượng hay thần vị của 36 vị Thổ Hoàng này. Trong các Trai đàn cúng tế lớn đều có dâng cúng 36 vị Thiên Đế cũng như 36 vị Thổ Hoàng.
(九天應元雷聲普化天尊): còn gọi là Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Chơn Vương (九天應元雷聲普化眞王), tức Lôi Thần (雷神), Lôi Tổ (雷祖), Thiên Lôi (天雷). Về lai lịch, Vô Thượng Cửu Tiêu Ngọc Thanh Đại Phạm Tử Vi Huyền Đô Lôi Đình Ngọc Kinh (無上九霄玉清大梵紫微玄都雷霆玉經) cho rằng Lôi Tổ là hóa thân của Ngọc Thanh Chơn Vương (玉清眞王), con thứ 9 của Phù Lê Nguyên Thỉ Thiên Tôn (浮黎元始天尊). Cũng có thuyết cho rằng Hoàng Đế Hiên Viên (軒轅) sau khi lên cõi tiên thì trở thành Lôi Tinh (雷精), thần chủ quản về sấm sét, mưa. Lôi Tổ là phong hiệu của ông, cư trú tại Thần Tiêu Ngọc Phủ (神霄玉府), trong Bích Tiêu Phạm Khí (碧霄梵氣), cách Lôi Thành (雷城) khoảng 2.300 dặm. Lôi Thành là nơi Thiên Đình làm sấm, bên trái có Ngọc Xu Ngũ Lôi Sứ Viện (玉樞五雷使院), bên phải có Ngọc Phủ Ngũ Lôi Sứ Viện (玉府五雷使院). Trước Thiên Tôn có trống sấm 36 mặt, do 36 vị thần quản lý. Khi làm sấm, Lôi Tổ đánh một tiếng trống, tức thời Lôi Công (雷公), Lôi Sư (雷師) phát ra tiếng sấm. Trong Lôi Bộ có 36 thành viên, mỗi người đều có công trạng và được phong thần. Tiểu thuyết Phong Thần Diễn Nghĩa (封神演義) nhà Minh cho Văn Trọng (聞仲) là Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn, thống lãnh bộ hạ 24 bộ hạ kéo mây góp mưa, làm sấm. Trong số đó, tại các đền thờ Đạo Giáo thường có tôn thờ các vị Thiên Tướng như Luật Lịnh Đại Thần Đặng Nguyên Soái Trung (律令大神鄧元帥忠), Ngân Nha Diệu Mục Tân Thiên Quân Hoàn (銀牙耀目辛天君環), Phi Tiệp Báo Ứng Trương Sứ Giả Tiết (飛捷報應張使者節), Tả Phạt Ma Sứ Cẩu Nguyên Soái Chương (左伐魔使苟元帥章), Hữu Phạt Ma Sứ Tất Nguyên Soái Hoàn (右伐魔使畢元帥環). Bên cạnh đó, lại có Đào Thiên Quân Vinh (陶天君榮), Bàng Thiên Quân Hồng (龐天君洪), Tần Thiên Quân Hoàn (秦天君完), Triệu Thiên Quân Giang (趙天君江), Đổng Thiên Quân Toàn (董天君全), Viên Thiên Quân Giác (袁天君角), v.v. Từ ngàn xưa, người ta đã sùng bái Lôi Công, Lôi Thần; nhưng mãi đến cuối thời Bắc Tống (北宋, 960-1127) mới hình thành việc thiết trí ra Lôi Bộ do Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn quản lãnh. Trong phần Lễ Chí (禮志) của Minh Sử (明史) có giải thích rằng: “Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn giả, Đạo gia dĩ vi tổng ty Ngũ Lôi, hựu dĩ lục nguyệt nhị thập tứ nhật vi Thiên Tôn hiện thị chi nhật, cố tuế dĩ thị nhật khiển quan nghệ Hiển Linh Cung trí tế (雷聲普化天尊者、道家以爲總司五雷、又以六月二十四日爲天尊現示之日、故歲以是日遣官詣顯靈宮致祭, Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn, Đạo Giáo cho rằng người tổng quản Ngũ Ty, lại lấy ngày 24 tháng 6 làm ngày Thiên Tôn thị hiện; cho nên hằng năm vào ngày này sai các quan đến Hiển Linh Cung cúng tế).” Vì vậy, cứ mỗi năm vào ngày 24 tháng 6 Âm Lịch, tín đồ Đạo Giáo đến các đền thờ dâng hương, cầu phước, tiêu trừ tai họa. Trong nghi lễ Trai đàn của Chánh Nhất Phái (正一派) thuộc Đạo Giáo có thiết bài vị của Lôi Tổ, và trong khoa nghi cũng có văn triệu thỉnh chư vị Thiên Quân trong Lôi Bộ. Như trong lòng văn sớ trên, khi tiến hành tụng kinh cầu nguyện giải Trùng Tang, Thần Sát thì cần phải tuyên sớ cung thỉnh Thiên Lôi giáng lâm đàn tràng chứng minh, gia hộ để được giải nạn, hạn ách, tiêu tai cát tường.
(地藏菩薩本願經): còn gọi là Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh (地藏本願經), Địa Tạng Bổn Hạnh Kinh (地藏本行經), Địa Tạng Bổn Thệ Lực Kinh (地藏本誓力經); gọi tắt là Địa Tạng Kinh (地藏經). Đây là kinh điển quan trọng tán dương nguyện lực cao cả, vĩ đại của Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) như có đề cập trong kinh là: “Địa Ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề (地獄未空誓不成佛、眾生度盡方證菩提, Địa Ngục chưa hết thề không thành Phật, chúng sanh độ sạch mới chứng Bồ Đề).” Kinh được thâu lục vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (大正新脩大藏經, Taishō Vol. 13, No. 412). Do vì nguyên lưu của kinh không được rõ ràng, sau khi được thâu lục vào Đại Tạng Kinh dưới thời nhà Minh (明, 1368-1662), học giả Phật Giáo hoài nghi rằng có bộ phận của kinh không phải do được truyền nhập từ Ấn Độ vào, mà do chế tác tại Trung Quốc. Về dịch giả, phần đầu kinh có ghi là “Đường Vu Điền Quốc Tam Tạng Sa Môn Thật Xoa Nan Đà dịch (唐于闐國三藏沙門實叉難陀譯, Tam Tạng Sa Môn Thật Xoa Nan Đà [s: Śikṣānanda, 529-645, tức Giới Hiền] của nước Vu Điền nhà Đường dịch).” Nhưng bản nhà Minh thì lại ghi là Pháp Đăng (法燈), Pháp Cự (法炬) dịch. Trên thực tế, dịch giả và niên đại dịch kinh này vẫn chưa xác định rõ. Như trong Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋敎錄, Taishō Vol. 55, No. 2154) do Trí Thăng (智昇) của Sùng Phước Tự (崇福寺) nhà Đường, cũng như Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋敎目錄, Taishō Vol. 55, No. 2157) do Sa Môn Viên Chiếu (圓照) ở Tây Minh Tự (西明寺), Tây Kinh (西京) biên soạn, cho biết rằng Thật Xoa Nan Đà dịch được 19 bộ kinh điển, nhưng lại không thấy đề cập đến bộ kinh Địa Tạng này. Đại Sư Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615) nhà Minh lại y cứ vào lời bạt đầu kinh mà cho là Thật Xoa Nan Đà dịch. Tuy nhiên, đại đa số các bản lưu thông thời nhà Minh lại ghi là do Pháp Đăng và Pháp Cự dịch. Trong khi đó, hai nhân vật này không rõ thuộc thời đại nào. Tại Việt Nam, bản thông dụng do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Việt dịch cũng căn cứ vào bản Hán dịch của Pháp Sư Pháp Đăng. Kinh này được đề cập đến đầu tiên trong Địa Tạng Bồ Tát Tượng Linh Nghiệm Ký (地藏菩薩像靈驗記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1638), tác phẩm được thâu tập vào khoảng niên hiệu Đoan Củng (端拱, 988-989) nhà Bắc Tống, do Sa Môn Truyền Giáo Thường Cẩn (常謹) ghi lời tựa vào năm Kỷ Sửu (989) cùng niên hiệu trên. Bản này có trích dẫn nội dung của Phẩm Phân Thân Công Đức (分身功德品) và cho biết rằng Phạn bản của kinh được Sa Môn Trí Hựu (知祐) của Tây Ấn Độ mang đến Thanh Thái Tự (清泰寺), Trung Quốc vào khoảng niên hiệu Thiên Phước (天福, 936-948) của vua Cao Tổ Thạch Kính Đường (高祖石敬瑭, tại vị 936-942) nhà Hậu Tấn, thời Ngũ Đại. Thêm vào đó, tác phẩm Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục (三寶感應要略錄, Taishō Vol. 51, No. 2084) do Thích Phi Trọc (釋非濁) thâu lục, cũng có đề cập đến nội dung của Phẩm Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông (忉利天宮神通品), từ đó mới biết được rằng kinh này đã được lưu hành dưới thời Bắc Tống. Gần đây, tại Tây Hạ, người ta có phát hiện bản văn tiếng Tây Hạ của Địa Tạng Kinh Tàn Bản, và đây cũng là chứng cứ cho biết rằng trước thời nhà Tống, Kinh Địa Tạng đã được truyền vào Nhật Bản rồi. Về nội dung, kinh được hình thành bởi 13 phẩm chính:
(1) Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông Phẩm (忉利天宮神通品),
(2) Phân Thân Tập Hội Phẩm (分身集會品),
(3) Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên Phẩm (觀眾生業緣品),
(4) Diêm Phù Chúng Sanh Nghiệp Cảm Phẩm (閻浮眾生業感品),
(5) Địa Ngục Danh Hiệu Phẩm (地獄名號品),
(6) Như Lai Tán Thán Phẩm (如來讚歎品),
(7) Lợi Ích Tồn Vong Phẩm (利益存亡品),
(8) Diêm La Vương Chúng Tán Thán Phẩm (閻羅王眾讚歎品),
(9) Xưng Phật Danh Hiệu Phẩm (稱佛名號品),
(10) Giảo Lượng Bố Thí Công Đức Duyên Phẩm (校量布施功德緣品),
(11) Địa Thần Hộ Pháp Phẩm (地神護法品),
(12) Kiến Văn Lợi Ích Phẩm (見聞利益品) và
(13) Chúc Lụy Nhân Thiên Phẩm (囑累人天品).
Các bản chú giải liên quan đến kinh có Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Khoa Văn (地藏本願經科文, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 382), 1 quyển, của Tần Khê Thanh Liên Đại Sư (秦谿青蓮大師); Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú (地藏本願經科註, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 384), 6 quyển, của Thanh Liên Bí Sô Linh Thừa (青蓮苾芻靈乘) ở Cổ Diêm Khuông Am (古鹽匡菴); Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Luân Quán (地藏本願經綸貫, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 383), 1 quyển, cũng do Thanh Liên Bí Sô Linh Thừa soạn, v.v. Đối với tín ngưỡng dân gian, Kinh Địa Tạng đóng vai trò quan trọng trong việc cầu siêu độ cho những vong linh thân nhân quá vãng. Cho nên, tại Việt Nam, vào dịp Lễ Vu Lan, Lễ Chung Thất Trai Tuần, lễ Húy Nhật, Đại Trai Đàn Chẩn Tế, v.v., kinh này được trì tụng rất phổ biến.
(華[花]壇): từ mỹ xưng của đàn tràng, Trai đàn; vì tại các đàn tràng thường được trang trí nhiều phẩm vật dâng cúng, đặc biệt là hoa, rất trang nghiêm, rực rỡ, nên có tên như vậy. Như trong Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển 1 có đoạn: “Kim tắc la liệt hoa đàn, xiển dương Phật sự, hương phần bảo triện, đằng ngũ sắc chi vân hà, chúc trán kim liên, xán nhất thiên chi tinh đẩu (今則羅列華壇、闡揚佛事、香焚寶篆、騰五色之雲霞、燭綻金蓮、燦一天之星斗, nay tất la liệt hoa đàn, xiển dương Phật sự, hương xông triện báu, tỏa năm sắc ấy mây lành, nến thắp sen vàng, sáng một trời muôn sao tỏ).”
(法壇): đàn tràng cử hành pháp sự cầu đảo. Như trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 45, có đoạn: “Chỉ kiến na phụ nhân kiều tố sơ trang, lai đáo pháp đàn thượng, chấp trước thủ lư, niêm hương lễ Phật (只見那婦人喬素梳妝、來到法壇上、執着手爐、拈香禮佛, chỉ thấy nhiều phụ nữ ăn mặc đơn giản, đến trên pháp đàn, tay cầm thủ lư, dâng hương lạy Phật).” Hay trong Tục Bổ Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1524) quyển 19, phần Minh Ô Tư Pháp Vương Truyện (明烏斯法王傳), lại có đoạn: “Vi hoàng khảo tỷ, thiết tiến tự pháp đàn, cảm tháp ảnh kim quang chi thụy (爲皇考妣、設薦祀法壇、感塔影金光之瑞, vì cha mẹ đã qua đời của nhà vua, thiết pháp đàn cúng siêu độ, cảm điềm lành hào quang sáng chói nơi bóng tháp).” Hoặc trong Thích Môn Kê Cổ Lược Tục Tập (釋鑑稽古略續集, Taishō Vol. 49, No. 2038) tập 3, phần Văn Tông Văn Hoàng Đế (太宗文皇帝), cũng có đoạn: “Nhị nguyệt mạng Tây tăng Thượng Sư Cáp Lập Ma, ư Linh Cốc Tự khải kiến pháp đàn, tiến tự hoàng khảo hoàng tỷ; Thượng Sư suất thiên hạ tăng già, cử dương Phổ Độ Đại Trai Khoa (二月命西僧尚師哈立麻、於靈谷寺啟建法壇、薦祀皇考皇妣、尚師率天下僧伽、舉揚普度大齋科, vào tháng hai, Hoàng Đế hạ mệnh cho vị Tây tăng là Thượng Sư Cáp Lập Ma, kiến lập pháp đàn tại Linh Cốc Tự, cúng siêu độ cho song thân nhà vua; Thượng Sư điều khiển tăng chúng khắp thiên hạ, cử hành Đại Khoa Nghi Phổ Độ Trai Đàn).”
(關煞): là dụng ngữ thuật số, ngày xưa nhà Tinh Số (chiêm tinh gia bói toán về số mạng con người) cho rằng con người gặp tai nạn do vận mạng quyết định, đó là “Quan Sát”. Con người cho rằng các em nhỏ khi chưa đến tuổi thành niên, thường gặp 36 Quan Sát và 72 sao Thiên Cương (天罡), dễ sanh nhiều bệnh tật, tai họa và chết yểu. 36 Quan Sát gồm:
(1) Thiên Nhật Quan (千日關), người sanh ở tuổi Dần, Thân, Tỵ thuộc năm Ngọ, sự tai họa rơi từ trên cao xuống, sanh ra trong vòng 1.000 ngày không nên đến nhà thờ thần linh của bà ngoại, không nên ngồi xe đi phương xa, chủ yếu bị bệnh kinh phong, nôn ọe sữa, không phạm những điều trên thì sẽ bảo đảm bình an;
(2) Lôi Công Quan (雷公關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Ngọ; ngày Ất, Mậu gặp giờ Tuất; ngày Bính, Đinh, Nhâm, Quý gặp giờ Tý; ngày Canh, Tân gặp giờ Dần, khi nghe tiếng sấm sét, tiếng trống đánh, chớ đến gần giếng nước, hay đồ vật bằng sắt, đề phòng ngồi cao té ngã, em bé vui đùa bò lên cao, như vậy sẽ nguy hiểm, chớ ẵm bé lên chỗ cao đùa giỡn, vậy mới bảo đảm bình an;
(3) Lạc Tỉnh Quan (落井關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Tỵ; sanh ngày Ất, Canh gặp giờ Tý; sanh ngày Bính, Tân gặp giờ Thân; sanh ngày Đinh, Nhâm gặp giờ Tuất, chớ đến gần bên giếng, bên sông, nước, đi thuyền bè, đến chơi nơi chỗ nào có huyệt động sâu đều nguy hiểm, có tai họa về nước, chủ yếu chớ nên gần;
(4) Kê Phi Quan (雞飛關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Tỵ, Dậu, Sửu; sanh ngày Ất, Bính, Đinh, Tuất gặp giờ Tý; ngày Canh gặp giờ Hợi, Mão, Mùi; ngày Tân, Nhâm, Quý gặp giờ Dần, Ngọ, Tuất, tránh nhìn thấy sát sanh, giết hại gà, vịt, cá thì sợ, đề phòng bệnh kinh phong khi gà bay qua quá đầu và mổ lên đầu, cần phải thận trọng thì sẽ tránh được chuyện không hay;
(5) Thủ Mạng Quan (取命關), là những người sanh ngày Giáp, Ất, Bính, Đinh gặp giờ Thân, Tý, Thìn; ngày Mậu, Kỷ, Canh gặp giờ Hợi, Mão, Mùi; ngày Tân, Nhâm, Quý gặp giờ Dần, Ngọ, Tuất, đề phòng chỗ cao nguy hiểm, chớ nhìn người mất hung dữ, không nên đến gần nơi tang lễ, những đền miếu mới xây, đàn tràng Giải Oan Bạt Độ vào dịp Trung Nguyên;
(6) Bạch Hổ Quan (白虎關), là những người sanh năm Kim gặp giờ Mão, Tuất; năm Mộc gặp giờ Thìn, Dậu; năm Hỏa gặp giờ Tý, Mùi, Thân; năm Thủy, Thổ gặp giờ Sửu, Dần, Ngọ, suốt đời nhiều tai hoạn máu me, đề phòng mất chân, phải nên thận trọng ở những chỗ cao nguy hiểm, đối với mạng người nữ cần phải rất thận trọng khi sinh đẻ, để tránh mất mác cả mẹ lẫn con, coi chừng bị bệnh sởi, đậu mùa;
(7) Thiết Xà Quan (鐵蛇關), là những người sanh năm Kim gặp giờ Mão, Tuất; năm Mộc gặp giờ Dậu, Thìn; năm Hỏa gặp giờ Sửu, Dần, Ngọ, ngựa đi trên đường cần phải thận trọng, chớ đến gần để tránh nguy hiểm, coi chừng phát sinh bệnh sởi, đậu mùa, dễ bị động vật cắn;
(8) Đoạn Trường Quan (斷膓關), là những người sanh ngày Giáp, Ất gặp giờ Ngọ, Mùi; ngày Bính, Đinh gặp giờ Thìn, Tỵ; ngày Mậu gặp giờ Ngọ; ngày Kỷ gặp giờ Mùi; ngày Canh, Tân gặp giờ Dần; ngày Nhâm, Quý gặp giờ Sửu, kỵ nhìn thấy giết heo, dê, chớ vào chỗ đồ tể;
(9) Đoản Mạng Quan (短命關), là những người sanh năm Thân, Tý, Thìn gặp giờ Tỵ; năm Tỵ, Dậu, Sửu gặp giờ Dần; năm Dần, Ngọ, Tuất gặp giờ Thìn; năm Hợi, Mão, Mùi gặp giờ Mùi, đề phòng nói lảm nhảm buổi tối, hay kinh sợ;
(10) Hòa Thượng Quan (和尚關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu; năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi gặp giờ Dần, Thân, Tỵ, Hợi, chớ vào các đàn tràng cúng chay (Trai đàn), không nên vào nhà đám ma, chớ vào chùa gặp Hòa Thượng, tăng ni, nếu không lưu tâm sẽ bị tai ương một đời, nên tránh không nên theo mẹ vào đền miếu dâng hương;
(11) Thiên Điếu Quan (天吊關), là những người sanh năm Thân, Tý, Thìn gặp giờ Tỵ, Ngọ; năm Tỵ, Dậu, Sửu gặp giờ Tý, Mão; năm Dần, Ngọ, Tuất gặp giờ Thìn, Ngọ; năm Hợi, Mão, Mùi gặp giờ Ngọ, Thân, qua núi qua sông bất lợi, đi đêm trên đường bất an, đồng thời có nhiều tai nạn cấp bách, họa hoạn;
(12) Dạ Đề Quan (夜啼關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Ngọ; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Dậu; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Tý; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Mão, ban đêm không nên ra ngoài du ngoạn, nhìn mặt trời lặn hướng Tây cũng không tốt, buổi tối không nên nhìn ánh sáng đèn để tránh con nít khóc nhè đêm;
(13) Mai Nhi Quan (埋兒關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Sửu; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp giờ Mão; năm Dần, Thân, Tỵ Hợi gặp giờ Thân, kỵ nhìn thấy nhập liệm, tống táng, khi nhỏ đã khó nuôi, nên lạy thần minh để xin làm con nuôi mới bảo toàn tánh mạng;
(14) Ngũ Quỷ Quan (五鬼關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Thìn; năm Sửu gặp giờ Mão; năm Dần gặp giờ Dần; năm Mão gặp giờ Sửu; năm Thìn gặp giờ Tý; năm Tỵ gặp giờ Hợi; năm Ngọ gặp giờ Tuất; năm Mùi gặp giờ Dậu; năm Thân gặp giờ Thân; năm Dậu gặp giờ Mùi; năm Tuất gặp giờ Ngọ, năm Hợi gặp giờ Tỵ, không nên đến gần đàn tràng Giải Oan Bạt Độ, nếu đến gần sẽ sanh tai tật, kỵ nhìn thấy gỗ làm quan tài, mộ địa;
(15) Thiên Cẩu Quan (天狗關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Tuất; năm Sửu gặp giờ Hợi; năm Dần gặp giờ Tý; năm Mão gặp giờ Sửu; năm Thìn gặp giờ Dần; năm Tỵ gặp giờ Mão; năm Ngọ gặp giờ Thìn; năm Mùi gặp giờ Tỵ; năm Thân gặp giờ Ngọ; năm Dậu gặp giờ Mùi; năm Tuất gặp giờ Thân; năm Hợi gặp giờ Dậu, Thiên Cẩu ăn mặt trời, không nên nhìn, sợ nghe tiếng chó sủa, em bé thường có khuôn mặt phá tướng, bị thương tích, sanh ra trong vòng 40 ngày, xuất hành đi xa không lợi, cũng không nên đi đêm, để bảo đảm một năm bốn mùa được bình an;
(16) Quỷ Môn Quan (鬼門關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Dậu; năm Sửu gặp giờ Ngọ; năm Dần gặp giờ Mùi; năm Mão gặp giờ Thân; năm Thìn gặp giờ Hợi; năm Tỵ gặp giờ Tuất; năm Ngọ gặp giờ Sửu; năm Mùi gặp giờ Dần; năm Thân gặp giờ Mão; năm Dậu gặp giờ Tý; năm Tuất gặp giờ Tỵ; năm Hợi gặp giờ Thìn, không thể đi xa, suốt đời nơi nào có miếu âm cung thì chớ nên vào, đồng thời cũng không nên vào nhà hung dữ;
(17) Chàng Mạng Quan (撞命關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Sửu; năm Sửu gặp giờ Mùi; năm Dần gặp giờ Tý; năm Mão gặp giờ Tỵ; năm Thìn gặp giờ Thìn; năm Tỵ gặp giờ Ngọ; năm Ngọ gặp giờ Ngọ; năm Mùi gặp giờ Sửu; năm Thân gặp giờ Ngọ; năm Dậu gặp giờ Dậu; năm Tuất gặp giờ Mùi; năm Hợi gặp giờ Hợi, khó nuôi con, thân thể suy nhược, nhiều bệnh, có hiện tượng chết yểu;
(18) Thang Hỏa Quan (湯火關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Ngọ; năm Sửu, Thân, Hợi gặp giờ Mùi; năm Dần gặp giờ Tỵ; năm Mão gặp giờ Tý; năm Ngọ, Dậu gặp giờ Dần, chủ yếu chú ý về lửa, nước nóng, dầu, không nên đến gần nhà bếp, rất dễ bị thương tích;
(19) Trực Nạn Quan (直難關), là những người sanh tháng Mão, Dần (1, 2) gặp giờ Ngọ; tháng Thìn, Tỵ (3, 4) gặp giờ Mùi; tháng Ngọ, Mùi (5, 6) gặp giờ Mão, Tuất; tháng Thân, Dậu (7, 8) gặp giờ Tỵ, Thân; tháng Tuất, Hợi (9, 10) gặp giờ Dần, Mão; tháng Tý, Sửu (11, 12) gặp giờ Thìn, Dậu, thận trọng đề phòng đao khí, vật bén nhọn làm tổn thương;
(20) Thâm Thủy Quan (深水關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Dần, Thân, chớ đến gần bên sông, hồ nước, đề phòng tai họa về nước, phạm cha mẹ đời trước, không lạy vào dịp Thanh Minh (清明, khoảng đầu tháng 3 Âm Lịch), Đoan Ngọ (端午, mồng 5 tháng 5 Âm Lịch), Thất Tịch (七夕, mồng 7 tháng 7 Âm Lịch), Trung Thu (中秋, rằm tháng 8 Âm Lịch);
(21) Đoạn Kiều Quan (斷橋關), là những người sanh tháng 1, 2 gặp giờ Dần, Mão, chớ qua cầu dài, thuyền nông, chớ đi thuyền qua cầu tre;
(22) Tứ Trụ Quan (四柱關), là những người sanh năm Tỵ, Hợi, tháng 1, 2 gặp giờ Thìn, Tỵ, chớ đến gần trước mặt công trình xây dựng, Động Thổ, kỵ ngồi xe con nít;
(23) Kim Tỏa Quan (金鎖關), là những người sanh tháng 1, 2 gặp giờ Thân, Mão; tháng 1, 7 gặp giờ Thân; tháng 2, 8 gặp giờ Dậu; tháng 3, 9 gặp giờ Tuất; tháng 4, 10 gặp giờ Hợi; tháng 5, 11 gặp giờ Tý; tháng 6, 12 gặp giờ Sửu, coi chừng dây tiền, mảnh sắt, vàng, đồng rơi vào miệng, hoặc sinh tật bệnh chết yểu;
(24) Bách Nhật Quan (百日關), là những người sanh tháng 1, 4, 7, 10 gặp giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; tháng 2, 5, 8, 11 gặp giờ Dần, Thân, Tỵ, Hợi; tháng 3, 6, 9, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu, sanh ra trong vòng 100 ngày, không nên đến nhà bà ngoại, sợ gặp tai họa, không nên ra khỏi nhà, kỵ đi xa, sợ trúng kinh phong;
(25) Vô Tình Quan (無情關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Tý, Dần, Dậu; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Tỵ, Tuất, Hợi; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Sửu, Thân; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, trong thời gian còn nhỏ ít nên đến nhà bà ngoại, tránh cho em nhỏ nhìn thấy người mài dao, nên lạy thần thánh làm cha nuôi, gọi cha mẹ là chú, cô, dì;
(26) Cấp Cước Quan (急腳關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Tý, Hợi; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Mão, Mùi; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Dần, Tuất; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Sửu, Thìn, chớ nên đi xa, chớ xem lễ Thượng Lương, Động Thổ, xây dựng;
(27) Dục Bồn Quan (浴盆關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Thân, ba buổi sáng kỵ tắm rửa thân thể, khi tắm rửa nên thận trọng;
(28) Tướng Quân Tiễn (將軍箭), là những người sanh năm Thìn, Dậu, Tuất gặp giờ Mùi, tất sẽ làm tổn thương người thân ruột thịt, không bắn người khác cũng như chính mình, chớ vào miếu thờ Tướng Quân;
(29) Huyết Quang Quan (血光關), là những người sanh vào giờ Sửu tháng 1, giờ Mùi tháng 2, giờ Dần tháng 3, giờ Thân tháng 4, giờ Mão tháng 5, giờ Dậu tháng 6, giờ Thìn tháng 7, giờ Tuất tháng 8, giờ Tỵ tháng 9, giờ Hợi tháng 10, giờ Ngọ tháng 11, giờ Tý tháng 12, dễ bị tai họa chảy máu, hay họa về xe và trúng thương tích, nên dùng tiền bổn mạng và tiền trị nguy hại về xe để khắc chế;
(30) Thủy Hỏa Quan (水火關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Mùi, Tuất; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Sửu, Thìn; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Dậu; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Sửu, chủ yếu chú ý về nước nóng, lửa, không nên đến gần nhà bếp, gần nước, lửa;
(31) Diêm Vương Quan (閻王關), là những người sanh tháng 7, 8, 9, 10, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, Dần, Mão; tháng 1, 2, 3 gặp giờ Sửu, Mùi; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Thìn, Tuất; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Tý, Ngọ; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Dần, Mão, không nên đến gần miếu âm cung, đền Thành Hoàng (城隍);
(32) Tứ Quý Quan (四季關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Sửu, Tỵ; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Thìn, Thân; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Hợi, Mùi; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Dần, Tuất, một đời nhiều bệnh, trước khí tiết của bốn mùa, chớ nên đi xa để đề phòng tai ương;
(33) Tứ Trụ Quan (四柱關), là những người sanh giờ Thìn, Tỵ, tháng 1, 2 thuộc năm Tỵ, Hợi, em nhỏ nếu phạm quan sát này, cha mẹ không sống lâu với mình, kỵ ngồi xe ngựa, lan can, ghế tre;
(34) Đa Ách Quan (多厄關), người nam sinh năm thuộc Kim, gặp tháng 5, 6; sinh năm thuộc Mộc, tháng 2, 3; sinh năm thuộc Thủy, tháng 8, 9; sinh năm thuộc Hỏa, tháng 11, 12; sinh năm thuộc Thổ, tháng 1, 4, phạm loại Quan Sát này; nữ sinh năm thuộc Kim, tháng 8, 9; sinh năm thuộc Mộc, tháng 11, 12; sinh năm thuộc Thủy, tháng 2, 3; sinh năm thuộc Hỏa, tháng 5, 6; sinh năm thuộc Thổ, tháng 1, 4, phạm loại Quan Sát này tai ách liên tục hằng năm;
(35) Kiếp Sát Quan (劫煞關), là những người sinh năm Thân, Tý Thìn, thuộc tháng 4; năm Tỵ Dậu, Sửu thuộc tháng 1; năm Dần, Ngọ, Tuất thuộc tháng 10; năm Hợi, Mão Mùi thuộc tháng 7, nên thận trọng đề phòng tiền tài hao tổn;
(36) Cơ Bại Quan (基敗關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 thuộc giờ Mùi, Tuất, Hợi; tháng 4, 5, 6 thuộc giờ Tý, Thìn, Tỵ; tháng 7, 8, 9 thuộc giờ Sửu, Thân, Dậu; tháng 10, 11, 12 thuộc giờ Dần, Mão, Ngọ, sau khi sinh ra, trạng huống thân thể khác lạ, khó nuôi, kỵ đào đất, nên lạy thần minh xin làm con nuôi, chú ý trị liệu về ruột, mới có thể chuyển nguy thành an.
Trong tác phẩm Dụ Thế Minh Ngôn (喻世明言) của Bằng Mộng Long (馮夢龍, 1574-1646) quyển 28 Lý Tú Khanh Nghĩa Kết Hoàng Trinh Nữ (李秀卿義結黃貞女) có câu: “Ấu niên gian đa nương dữ ngã toán mạng, thuyết hữu Quan Sát nan dưỡng, vi thử xuyên phá lưỡng nhĩ (幼年間爹娘與我算命、說有關煞難養、爲此穿破兩耳, lúc còn nhỏ cha mẹ xem mạng số cho tôi, bảo rằng bị Quan Sát khó nuôi, vì đó mà phá lũng hai tai).”
(s, p: Piṇḍola-bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮): gọi đủ là Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ (賓頭盧頗羅墮誓), gọi tắt là Phả La Đọa (s: Bharadvāja, 頗羅墮), Tân Đầu Lô (賓頭盧) hay Tân Đầu (賓頭); là người đứng đầu trong 16 vị La Hán. Tôn giả Tân Đầu Lô trụ thế lâu dài, hiện tướng tóc bạc mày dài, nên có tên gọi là Trường Mi Tăng (長眉僧) hay Trường Mi Sa Môn (長眉沙門). Tên Tân Đầu Lô ý dịch là Bất Động (不動), họ Phả La Đọa nghĩa là Lợi Căn (利根). Ông vâng lời đức Phật sống lâu trên cõi đời mạt pháp để thọ nhận cúng dường của chúng sanh, giúp cho họ tạo phước điền; nên ông có tên là Phước Điền Đệ Nhất (福田第一). Nguyên lai ông là vị đại thần của vua Ưu Điền (s, p: Udayana, 優填). Đức vua thấy ông siêng năng tinh tấn, nên khuyên ông xuất gia với Phật. Sau khi chứng quả A La Hán, ông trở về nước, thuyết pháp cho nhà vua nghe. Do đó, vua rất kính trọng ông, sớm tối đều đến hỏi han học đạo. đương thời có một vị Đại Thần Bà La Môn ngoại đạo không tin Phật pháp, khi thấy vua Ưu Điền đến tham vấn, Tân Đầu Lô chỉ ngồi một bên mà không đứng dậy chào nghinh đón vua, nhân đó người này dùng kế ly gián xúi giục nhà vua. Vua bèn bảo rằng: “Ngày mai khi ta đến tham vấn, nếu ông ấy không đứng dậy nghinh tiếp, ta sẽ giết ngay.” Hôm sau, khi Tân Đầu Lô thấy đức vua từ xa đến, bèn đứng dậy đón tiếp và mở lời chào hỏi trước. Thấy vậy, nhà vua ngạc nhiên hỏi duyên cớ vì sao. Tôn Giả đáp: “Tôi làm vậy vì nhà vua đó !” Vua hỏi: “Sao lại vì ta ?” Đáp: “Trước đây đức vua đến với thiện tâm, hôm nay Ngài đến với ác tâm; nếu tôi không đứng dậy đón tiếp thì Ngài sẽ giết tôi. Ai giết vị La Hán thì sẽ đọa vào Địa Ngục. Vậy nếu tôi đứng dậy đón Ngài thì Ngài sẽ mất vương vị; nhưng thà rằng để Ngài mất vương vị còn hơn là đọa vào Địa Ngục. Đó là lý do vì sao hôm nay tôi đứng dậy đón Ngài.” Nghe vậy, đức vua hỏi: “Khi nào ta mất vương vị ?” Đáp: “Trong 7 ngày sau.” Quả nhiên 7 ngày sau nhà vua bị nước bên cạnh bắt đi làm tù nhân. Lúc bấy giờ có một vị Trưởng Giả Thọ Đề (樹提), dùng loại gỗ Chiên Đàn (旃檀), làm thành một bình bát, đem đặt trên đầu cây sào cao và lớn tiếng bảo rằng: “Bất luận người nào, nếu có thể lấy được bát này mà chẳng dùng gậy thang, bát này thuộc về người ấy.” Khi ấy Tân Đầu Lô hiện thần thông lấy bình bát đi. Biết được chuyện này, đức Thế Tôn liền quở trách ông rằng: “Tỳ Kheo có thể lạm dụng thần thông để lấy bình bát ngoại đạo được sao ?” Và hạ lệnh cho ông suốt đời không được trú tại cõi Diêm Phù Đề (s: Jambudvīpa, p: Jambudīpa, 閻浮提), cho nên ông đến trú tại Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲). Về sau, chúng đệ tử thương nhớ Tôn Giả, khẩn cầu đức Phật cho phép ông trở lại cõi Diêm Phù Đề. Nhưng đức Phật lại không cho phép ông nhập Niết Bàn, mà phải thường trụ trên thế gian, hộ trì chánh pháp, thọ nhận sự cúng dường của chúng sanh thời mạt pháp. Vì vậy, tại Trai Đường của các tự viện, thường có một chỗ ngồi ở hàng đầu phía Tây, tức là chỗ của Hòa Thượng Thủ Tòa (首座, trong Thiền Tông, là tên gọi của vị đứng đầu trong chúng), nhưng lại không có ai ngồi. Tuy nhiên tại chỗ đó vẫn thường xuyên có thiết dọn thức ăn, vật uống, chén đũa, v.v., để cúng dường Tôn Giả. Khi cúng dường Trai Tăng, Tôn Giả sẽ hiện thân Tỳ Kheo đến thọ nhận cúng dường. Cho nên khi chú nguyện cúng dường thường có câu: “Nam Mô Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà Tôn Giả tác đại chứng minh.” Tương truyền có một phú ông nọ phát tâm cúng dường Trai Tăng cho 1000 vị tăng với mục đích cầu phước và mong được La Hán đến thọ nhận. Ông thiết lễ Trai đàn trong 3 ngày, đến tối thứ 3 ông nằm mộng thấy một lão Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, trên trán nỗi 3 cục u ghê sợ hiện đến bảo phú ông rằng: “Tôi là Tân Đầu Lô đây !” “Ồ, ngài là Tân Đầu Lô sao ? Ngài có đến dự cúng dường không ?” Tôn Giả đáp: “Có chứ ! Ngày thứ nhất, tôi đến thì người giữ cửa không cho vào. Tôi bảo là tôi đến để ban phước cho chủ nhà này. Người canh cổng không tin, bảo rằng áo quần tôi lam lũ thế này, lấy gì có phước mà ban cho người khác. Nói xong người ấy dùng gậy đánh tôi, làm cho trán tôi u lên một cục. Đến ngày thứ hai, tôi lại bị đánh u thêm một cục nữa. Qua ngày thứ ba, tôi tưởng là ngày cuối cùng có thể vào được, nhưng cũng bị đánh thêm lần nữa.” Phú ông tỉnh dậy, biết được sự thật, vô cùng tiếc nuối không có phước duyên để đón tiếp Thánh tăng. Lại có một ông quan huyện, nghe đồn cúng dường Trai Tăng nhất định sẽ có Thánh tăng Tân Đầu Lô quang lâm thọ cúng dường. Ông bèn thiết trai cúng dường tại Thiên Đồng Tự (天童寺) ở Ninh Ba (寧波). Đến thời thọ trai buổi trưa, ông chợt thấy một vị Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, già khụm, nước miệng nước mũi chảy nhễ nhại, chẳng chút oai nghi nào, bước đi ngã nghiêng, tiến về phía chỗ ngồi của vị Thủ Tòa. Thông thường vị trí này luôn dành để cúng dường cho Thánh tăng. Ông quan huyện đến gần xem, nhìn kỹ thấy toàn thân từ trên xuống dưới của vị Tỳ Kheo ấy nhơ nhớp không thể chịu được. Ông bèn dùng tay xách lỗ tai vị kia kéo xuống ngồi hàng ghế cuối cùng. Sau khi thọ trai xong, quan huyện hỏi Thiên Đồng Thiền Sư xem thử hôm nay Thánh tăng có đến tham dự không ? Thiền Sư trả lời có. Nghe vậy, quan huyện mừng rỡ hỏi xem đó là ai ? Đáp: “Đó chính là vị Tỳ Kheo mà ông xách lỗ tai.” Lão quan huyện kinh ngạc, run bắn người thốt lên rằng: “Quả là có mắt mà không tròng. Ta đã làm nhục Thánh tăng rồi ! Tội lỗi tày trời !” Theo Đại Tống Tăng Sử Lược (大宋僧史略) quyển 3, phần Phương Đẳng Giới Đàn (方等戒壇) cho biết rằng khi Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) ở Chung Nam Sơn (終南山) kiến lập Linh Cảm Giới Đàn tại Tinh Xá Thanh Quan Thôn (清官村), có vị tăng lông mày dài đến trước Giới Đàn tán thán. Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 3 có đoạn: “Hàng phục ngoại đạo, lý hành chánh pháp, sở vị Tân Đầu Lô Tỳ Kheo thị (降伏外道、履行正法、所謂賓頭盧比丘是, hàng phục ngoại đạo, thực hành chánh pháp, đó gọi là Tỳ Kheo Tâm Đầu Lô).” Cũng lại trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 44, đức Phật thọ ký cho 4 vị Thanh Văn, trong đó có Tân Đầu Lô rằng: “Ngô kim niên dĩ suy hao, niên hướng bát thập dư, nhiên kim Như Lai hữu tứ đại Thanh Văn, kham nhiệm du hóa, trí tuệ vô tận, chúng đức cụ túc. Hà đẳng vi tứ ? Sở vị Đại Ca Diếp Tỳ Kheo, Quân Đồ Bát Tỳ Kheo, Tân Đầu Lô Tỳ Kheo, La Vân Tỳ Kheo. Nhữ đẳng tứ đại Thanh Văn yếu bất bát Niết Bàn, tu ngô pháp một tận, nhiên hậu nãi đương bát Niết Bàn (吾今年已衰耗、年向八十餘、然今如來有四大聲聞、堪任遊化、智慧無盡、眾德具足、云何爲四、所謂大迦葉比丘、君屠缽漢比丘、賓頭盧比丘、羅云比丘、汝等四大聲聞要不般涅槃、須吾法沒盡、然後乃當般涅槃, năm nay ta đã suy yếu, tuổi đã hơn tám mươi, tuy nhiên nay Như Lai có bốn vị đại Thanh Văn, có thể đảm nhiệm việc du hóa, trí tuệ vô tận, các đức đầy đủ. Thế nào là bốn ? Đó là Tỳ Kheo Đại Ca Diếp, Tỳ Kheo Quân Đồ Bát, Tỳ Kheo Tân Đầu Lô, Tỳ Kheo La Vân. Các người, bốn đại Thanh Văn này chủ yếu không nhập Niết Bàn, đến khi pháp của ta diệt hết, sau đó mới nhập Niết Bàn).”
(水宮): cung điện thần thoại ở trong nước, hay ngôi điện vũ bên nước. Như trong Tập Dị Ký (集異記), phần Tương Sâm (蔣琛) của Tiết Dụng Nhược (薛用弱, ?-?) nhà Đường có câu: “Hành Điện thu vị vãn, Thủy Cung phong sơ lương (行殿秋未晚、水宮風初涼, Hành Điện thu chưa muộn, Thủy Cung gió mát tươi).” Hay trong bài thơ Đề Tào Nga Miếu Bích (題曹娥廟壁) của Dương Trác (楊焯, ?-?) nhà Minh lại có câu: “Hán An niên đại việt Giang Đông, giang thượng linh kỳ ánh Thủy Cung (漢安年代越江東、江上靈旗映水宮, niên đại Hán An vượt Giang Đông, trên sông cờ xí hiện Thủy Cung).” Trong truyền thuyết dân gian Việt Nam có câu chuyện Công Chúa Thủy Cung cũng khá lý thú. Chuyện kể rằng ngày xưa, có một nàng công chúa xinh đẹp con của vua Thuỷ Tề, một hôm hóa thành con cá bơi ngược dòng sông để du ngoạn. Chẳng may, cá mắc phải lưới của một người thuyền chài, cá công chúa bị bắt, thả vào gầm thuyền, bị đói cả ngày không có gì ăn. May có người con trai ông thuyền chài ngồi ăn, làm rớt cơm xuống, cá công chúa mới khỏi chết đói. Trông thấy cô cái xinh đẹp, người con trai chủ thuyền bắt lên chơi, rồi anh tuột tay làm rơi cá xuống sông. Nhờ vậy, công chúa được trở về Thủy Cung an toàn. Tuy nhiên, từ ngày trở về cung điện, nàng đâm ra tương tư, nhớ đến người con trai ở trần gian đã vô tình cứu mình. Công chúa sinh ốm bệnh tương tư. Vua cha là Thủy Vương hỏi duyên cớ, nàng thật tình thưa lại đầu đuôi câu chuyện, rồi xin phép vua cha đội lốt làm người lên ở trên mặt đất để kết duyên vợ chồng cùng chàng trai nọ. Lúc bấy giờ, chàng trai đang ở Hang Non Nước, thuộc Tỉnh Ninh Bình ngày nay. Sau khi cha mẹ đã qua đời, chàng ngày ngày đi câu cá để kiếm sống. Một hôm, nàng công chúa Thủy Cung tìm đến gặp, làm quen, rồi hai bên lấy nhau thành vợ chồng. Tuy họ sống trong cảnh nghèo túng, nhưng rất hạnh phúc và hết sức thương yêu nhau. Chàng và nàng sống giữa hòn đảo Non Nước vắng vẻ, cách biệt đời sống dân gian. Vợ chồng có tình duyên đằm thắm, cho đến một ngày kia, nàng đưa chồng cùng về thăm Thuỷ Cung. Từ đó trở đi, không còn ai thấy bóng dáng hai người nữa. Dân gian ngày nay có truyền câu ca dao: “Chung quanh những chị em người, giữa Hòn Non Nước mình tôi với chàng” để nhắc đến mối tình hi hữu của nàng công chúa, con của Thần Nước, với anh chàng đánh cá ở miền Bắc Việt Nam.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập