Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tông Phong Diệu Siêu »»
(大德寺, Daitoku-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đại Đức Tự (大德寺派) thuộc Lâm Tế Tông, hiệu núi là Long Bảo Sơn (龍寶山), hiện tọa lạc tại số 53 Daitokuji-cho (大德寺町), Murasakino (紫野), Kita-ku (北區), Kyoto-shi (京都市), Kyoto-fu (京都府). Người đời thường gọi là Tử Dã Đại ĐứcTự (紫野大德寺, Murasakunodaitoku-ji), tên gọi chính thức là Long Bảo Sơn Đại Đức Thiền Tự (龍寶山大德禪寺). Chùa được sáng lập vào năm đầu (1319) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), và vị Tổ khai sơn chùa là Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超). Diệu Siêu là người vùng Bá Ma (播磨, Harima, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]), ban đầu ông làm đệ tử của vị Luật Sư Giới Tín (戒信), nhưng sau đó thì lại theo học đạo với Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), rồi được vị này thọ ký cho. Đến năm 1308, khi Nam Phố Thiệu Minh qua đời, thì ông đến sống ở Vân Cư Am (雲居庵). Khi ấy vị trấn thủ vùng Bá Ma là Hộ Tắc Thôn (護則村) nghe như vậy, bèn kiến lập một tòa Pháp Đường ở vùng Tử Dã (紫野, Murasakino), rồi cung thỉnh Diệu Siêu đến ở đó. Sau Hậu Đế Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) nghe được uy đức của ông, bèn thỉnh vào cung cấm mà tham vấn yếu chỉ của Thiền, rồi ban cho đất đai mà xây dựng ngôi già lam, lấy tên gọi là Long Bảo Sơn Đại Đức Tự (龍寶山大德寺). Kế đến Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇) lại sắc phong cho chùa là Đạo Tràng Kỳ Nguyện, và xếp vào một trong năm ngôi chùa nổi tiếng vùng Kyoto. Vào năm thứ 2 (1453) niên hiệu Hưởng Đức (享德), do bị hỏa hoạn lớn nên hơn phân nữa chùa bị cháy tan, rồi sau đó gặp phải binh hỏa của vụ Loạn Ứng Nhân (應仁). Về sau, vào năm thứ 6 (1474) niên hiệu Văn Minh (文明), Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純) mới nỗ lực tái hưng lại ngôi chùa này. Đến trong khoảng niên hiệu Khoan Văn (寛文) thì ngôi già lam hầu như đã được phục hồi lại y như cũ. Trong khuôn viên chùa hiện có 24 ngôi tháp, gồm những ngôi mộ của những bậc danh tướng đương thời, ngoài ra còn có rất nhiều bia tháp, mộ phần khác nữa. Quần thể kiến trúc chùa gồm Sắc Sứ Môn (勅使門), Tam Môn (三門), Phật Điện (佛殿), Pháp Đường (法堂) và khá nhiều ngôi viện nhỏ như Dưỡng Đức Viện (養德院), Long Nguyên Viện (龍源院), Hoàng Mai Viện (黃梅院), Đại Từ Viện (大慈院), Thoại Phong Viện (瑞峰院), Hưng Lâm Viện (興臨院), Chánh Thọ Viện (正受院), Tam Huyền Viện (三玄院), Chân Châu Viện (眞珠院), Đại Tiên Viện (大仙院), Phương Xuân Viện (芳春院), Tụ Quang Viện (聚光院), Tổng Kiến Viện (總見院), Cao Đồng Viện (高桐院), Ngọc Lâm Viện (玉林院), Long Quang Viện (龍光院), Tùng Nguyên Viện (松源院), v.v. Hiện chùa còn lưu giữ khá nhiều bảo vật thuộc hạng quốc bảo cũng như tài sản văn hóa quan trọng như Đường Môn, Phương Trượng, đồ hình Quan Âm Vượn Hạc vẽ trên lụa với ngòi bút tài tình của họa sĩ Mục Khê (牧谿), tượng Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師) màu trên lụa, v.v.
(妙心寺, Myōshin-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Diệu Tâm Tự thuộc Lâm Tế Tông, hiệu là Chánh Pháp Sơn (正法山), hiện tọa lạc tại Hanazonomyōshinji-chō (花園妙心寺町), Sakyō-ku (左京區), Tokyo-shi (東京市). Tượng thờ chính là Thích Ca Như Lai. Vào năm 1342 (Lịch Ứng [曆應] 5), Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇) đến tham Thiền với Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師, tức Tông Phong Diệu Siêu [宗峰妙超]), Tổ khai sơn Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji), rồi lấy Ly Cung của mình mà xây dựng nên ngồi Thiền tự này. Đây chính là nguồn gốc của ngôi chùa này, và người khai sơn là Quan Sơn Huệ Huyền (關山慧玄), cao đệ của Đại Đăng Quốc Sư. Đại Sư Quan Sơn Vô Tướng là người đúng như tên gọi, không chấp trước vào ngôn từ chữ nghĩa, cũng chẳng để lại ngữ lục gì cả, không tu tạo đường vũ già lam, mà chỉ chuyên tào tạo nhân tài, và đã tạo thành cơ sở phát triển cho Lâm Tế Tông hiện tại. Trong vụ Loạn Ứng Nhân (應仁の亂), chùa bị đốt cháy tan tành, nhưng rồi lại được vị Tổ đời thứ 6 của chùa là Tuyết Giang Tông Thâm (雪江宗深) tái kiến lại. Bốn vị đệ tử nổi tiếng của Tuyết Giang là Cảnh Giang (景江), Ngộ Khê (悟溪), Đặc Phương (特芳), Đông Dương (東陽), mỗi người lập thành một phái khác, thành 4 phái là Long Tuyền (龍泉), Đông Hải (東海), Linh Vân (靈雲) và Thánh Trạch (聖澤). Từ đó, họ mở rộng phái của mình đi khắp toàn quốc. Đến năm 1509 (Vĩnh Chánh [永正] 6), nhờ sự ngoại hộ của vị Ni Lợi Trinh (利貞), phu nhân của Tề Đằng Lợi Quốc (齊藤利國) ở Mỹ Nùng (美濃, Mino), nên khuôn viên chùa được mở rộng trên phạm vị rộng lớn. Hiện chùa có đến 57 ngôi viện, tất cả đều là nơi cầu nguyện của hai dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi) và Đức Xuyên (德川, Tokugawa) xưa kia, chùa trực thuộc có đến 3.500 ngôi, khoảng 10.000 vị tăng. Sắc Sứ Môn, Sơn Môn, Đại Phương Trượng, Nhà Kho, Khai Sơn Đường, đều là những kiến trúc được xếp vào hạng tài sản văn hóa quan trọng của nhà nước. Nổi tiếng nhất là đại hồng chung, được xem như là tối cổ và được xếp vào hạng quốc bảo. Ngoài ra còn có 2 bức thủ bút của Đại Đăng Quốc Sư, rồi trên trần nhà của Pháp Đường có bức tranh hoành tráng, nổi tiếng của nhà danh họa Thú Dã Thám U (狩野探幽).
(臨濟宗, Rinzai-shū): tông phái tôn Lâm Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄, Rinzai Gigen) làm tổ, một trong Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗) của Trung Quốc. Trải qua 11 đời từ vị sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨[摩]) cho đến Nghĩa Huyền, từ đó trải qua 7 đời truyền thừa và xuất hiện Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓). Môn hạ của Thạch Sương có Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南) và Dương Kì Phương Hội (楊岐方會), từ đó phát sanh ra hai phái Hoàng Long (黃龍), Dương Kì (楊岐). Đối với Thiền Tông Trung Quốc, nếu thêm 2 phái này vào trong 5 tông phái Vân Môn (雲門), Pháp Nhãn (法眼), Tào Động (曹洞), Lâm Tế (臨濟), Quy Ngưỡng (溈仰) thì gọi là Ngũ Gia Thất Tông. Trừ Phái Hoàng Long của Minh Am Vinh Tây (明庵榮西) ra, Lâm Tế Tông đuợc truyền vào Nhật tất cả đều thuộc về hệ thống của Phái Dương Kì. Hàng cháu đời thứ 4 của Dương Kì Phương Hội có xuất hiện Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤); thế rồi từ môn hạ của Viên Ngộ có Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) và Hổ Kheo Thiệu Long (虎丘紹隆), từ đó ra đời hai phái Đại Huệ (大慧) và Hổ Kheo (虎丘). Hơn nữa, từ môn hạ của Mật Am Hàm Kiệt (密庵咸傑)—pháp hệ của Hổ Kheo—phát sinh dòng phái môn lưu của Tùng Nguyên Sùng Nhạc (松源崇岳), Phá Am Tổ Tiên (破庵祖先) và Tào Nguyên Đạo Sanh (曹源道生). Trước hết, người truyền thừa Thiền nhà Tống sang Nhật Bản đầu tiên là Duệ Sơn Giác A (叡山覺阿), vị tăng đã từng tham vấn Hạt Đường Huệ Viễn (瞎堂慧遠)—pháp từ của Viên Ngộ Khắc Cần. Tiếp theo đó là Minh Am Vinh Tây (明庵榮西), người đã sang nhà Tống lần thứ hai và kế thừa dòng pháp của Hư Am Hoài Sưởng (虛庵懷敞). Dòng pháp của Giác A bị dứt tuyệt; riêng Phái Hoàng Long (黃龍派) của Minh Am Vinh Tây vẫn kéo dài cho đến hiện tại thong qua hai chùa Thọ Phước Tự (壽福寺, Jufuku-ji) và Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji). Người đồng thời đại với Vinh Tây là Đại Nhật Năng Nhẫn (大日能忍) thì trú tại Tam Bảo Tự (三寶寺, Sampō-ji), Nhiếp Tân (攝津, Settsu), nhân đọc các thư tịch Thiền mà độc ngộ, tự xưng là Đạt Ma Tông (達磨宗) và mở rộng giáo hóa khắp nơi, nhưng ông lại bị phê phán là “không thầy ngộ một mình”. Từ đó, ông giao phó cho đệ tử đem chỗ sở ngộ của ông sang nhà Tống trình lên cho Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光)—đệ tử của Đại Huệ Tông Cảo—để nhận ấn khả. Sau đó, môn lưu của ông được giáo đoàn của Vĩnh Bình Đạo Nguyên (永平道元, Eihei Dōgen) hấp thu rồi đi đến đoạn tuyệt. Thiên Hựu Tư Thuận (天祐思順), v.v., sang nhà Tống cầu pháp, trải qua 13 năm trường, rồi được ấn khả của Kính Tẩu Cư Giản (敬叟居簡)—đệ tử của Chuyết Am Đức Quang, đến trú trì Thắng Lâm Tự (勝林寺) vùng Thảo Hà (草河), nhưng môn lưu của ông chẳng phát triển được chút nào. Viên Nhĩ (圓爾)—người theo học môn lưu của Vinh Tây, sang nhà Tống cầu pháp và đến tham yết Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範) thuộc Phái Phá Am—cũng trở về nước vào năm thứ 2 (1241) niên hiệu Nhân Trị (仁治), khai sáng Thừa Thiên Tự (承天寺, Shōten-ji) và Sùng Phước Tự (崇福寺, Sūfuku-ji) ở vùng Bác Đa (博多, Hakata), rồi kiến lập Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) ở kinh đô Kyōto, được hàng công võ quy y theo và nỗ lực xây dựng cơ sở để phát triển một môn phái lớn. Đạo Hựu (道祐) ở Diệu Kiến Đường (妙見堂) vùng Lạc Bắc (洛北, Rakuhoku), Tánh Tài Pháp Thân (性才法身)—vị tổ khai sơn Viên Phước Tự (圓福寺) ở Tùng Đảo (松島, Matsushima), v.v., cũng là những người đồng môn của Viên Nhĩ. Kế đến, Vô Bổn Giác Tâm (無本覺心)—vị tổ khai sơn Tây Phương Tự (西方寺, Saihō-ji) ở Do Lương (由良), Kỷ Y (紀伊, Kii)—cũng đã từng được Thối Canh Hành Dũng (退耕行勇), Đạo Nguyên (道元), Thiên Hựu Tư Thuận (天祐思順) động viên và sang nhà Tống cầu đạo, thọ pháp với Vô Môn Huệ Khai (無門慧開)—người thuộc dòng phái của Đạo Giả Đạo Ninh (道者道寧), nhân vật huynh đệ với Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤), và trở về nước. Một loạt những người như vậy đều xuất thân từ hai tông Hiển Mật, đã truyền vào Nhật tôn giáo mới của nhà Tống để bổ sung thêm cho Phật Giáo cũ, nhưng lại mai danh ẩn tích ở các địa phương chứ không xuất hiện nơi chốn đô hội, và ý thức khai sáng giáo đoàn mới cũng rất mong manh. Tiếp theo, xuất hiện những vị tăng do vì tránh tình hình bất an dưới thời nhà Tống đã vượt biển sang Nhật Bản để tìm lẽ sống. Tỷ dụ như trường hợp của Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) sang Nhật vào năm thứ 4 (1246) niên hiệu Khoan Nguyên (寬元). Sau khi sống qua Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) ở vùng Bác Đa và Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Senyū-ji) ở kinh đô Kyōto, Lan Khê xuống vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), được Tướng Quân Bắc Điều Thời Lại (北條時頼, Hōjō Tokiyori) quy y theo và làm tổ khai sơn Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji). Đó là cuộc truyền thừa Thiền thuần túy, thoát xác khỏi các tông Hiển Mật. Thêm vào đó, thông qua môi giới của Viên Nhĩ, có đồng môn Ngột Am Phổ Ninh (兀庵普寧) sang Nhật, nhờ sự hộ trì của Thời Lại; nhờ vậy Thiền lâm Nhật Bản dần dần được chỉnh đốn, sản sinh ra nhiều môn đệ và các vị tăng Nhật Bản sang nhà Tống cầu pháp tăng thêm nhiều. Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明) và Cự Sơn Chí Nguyên (巨山志源)—những người truyền thừa dòng pháp của Phái Tùng Nguyên (松源派) cùng trở về nước, rồi Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念)—đồng hàng huynh đệ với Vô Tượng Tĩnh Chiếu (無象靜照) cũng thuộc Phái Tùng Nguyên—quy quốc, được Tướng Quân Bắc Điều Thời Tông (北條時宗, Hōjō Tokimune) và anh em Tông Chính (宗政) quy y theo. Hơn nữa, đáp lời thỉnh cầu của Thời Tông, Tây Giản Tử Đàm (西礀子曇) cũng đáp thuyền sang Nhật; nhưng sau khi Lan Khê Đạo Long viên tịch, ông lại trở về nước. Sau đó, có Vô Học Tổ Nguyên (無學祖元) và Kính Đường Giác Viên (鏡堂覺圓) sang Nhật. Được Tướng Quân Bắc Điều Thời Tông tín nhiệm và quy y theo, Vô Học trở thành tổ khai sơn của Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) ở vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura). Giống như Vô Học và Kính Đường, có Tiều Cốc Duy Tiên (樵谷惟僊)—người thuộc Phái Tùng Nguyên—trở về nước và truyền trao dòng pháp mới. Trong khi đó, có vị tăng sang Nhật là Linh Sơn Đạo Ẩn (靈山道隱). Đến thời nhà Nguyên, có hai nhân vật làm sứ tiết hòa bình của hai triều Văn Vĩnh (文永), Hoằng An (弘安) và làm Thông Sự hướng dẫn cho Tây Giản Tử Đàm (西礀子曇), là Nhất Sơn Nhất Ninh (一山一寧) và Đông Lí Đức Hội (東里德會) của Phái Tào Nguyên (曹源派) cũng sang Nhật. Tiếp theo đó, có mấy người thuộc Phái Tào Nguyên lên thuyền sang Nhật như Thanh Chuyết Chánh Trừng (清拙正澄) theo lời thỉnh cầu của tướng quân Bắc Điều Cao Thời (北條高時, Hōjō Takatoki); Minh Cực Sở Tuấn (明極楚俊), Trúc Tiên Phạn Tiên (竺仙梵僊), v.v., theo lời mời của dòng họ Đại Hữu (大友) ở vùng Phong Hậu (豐後). Đồng môn với Trúc Tiên có Nguyệt Lâm Đạo Kiểu (月林道皎), Thạch Thất Thiện Cửu (石室善玖) thì sang nhà Tống cầu pháp và trở về nước. Trong hệ thống Thiền nhà Nguyên, tông phong của các vị tăng theo Thiền Niệm Phật rất thịnh hành; vì mến mộ tông phong của Trung Phong Minh Bổn (中峰明本) trên Thiên Mục Sơn (天目山), nên nhiều tăng sĩ Nhật Bản đã đến đây cầu pháp và trở về nước. Tỷ dụ như Viễn Khê Tổ Hùng (遠溪祖雄), Cổ Tiên Ấn Nguyên (古先印元), Phục Am Tông Kỷ (復庵宗己), Nghiệp Hải Bổn Tịnh (業海本淨), Minh Tẩu Tề Triết (明叟齊哲), Vô Ẩn Nguyên Hối (無隱元晦), Quan Tây Nghĩa Nam (關西義南), v.v. Bên cạnh đó, còn có mấy người kế thừa dòng pháp của Thiên Nham Nguyên Trường (千岩元長)—đệ tử của Trung Phong—như Đại Chuyết Tổ Năng (大拙祖能), Bích Nham Vi Xán (碧巖囗璨). Những người cùng dòng pháp của Vạn Phong Thời Úy (萬峰時蔚)—người đồng môn với Đại Chuyết và Bích Nham—có Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) thuộc Phái Hoàng Bá (黃檗派). Tông phong mang tính ẩn dật chính là đặc trưng dưới thời đại này. Giống như những người kế thừa Thiền Niệm Phật, môn hạ của Phái Phá Am (破庵派) có Vô Văn Nguyên Tuyển (無文元選)—nhân vật kế thừa dòng pháp của Cổ Mai Chánh Hữu (古梅正友), hay Tịch Thất Nguyên Quang (寂室元光)—pháp tôn của Lan Khê Đạo Long. Họ thọ nhận tông phong phái này, trở về nước và truyền bá khắp các địa phương. Về Phái Đại Huệ, Trung Nham Viên Nguyệt (中巖圓月), Đông Truyền Chánh Tổ (東傳正祖), Vô Sơ Đức Thỉ (無初德始), v.v., truyền bá dòng pháp mới; riêng Ngu Trung Châu Cập (愚中周及) thì truyền thừa dòng pháp của Tức Hưu Khế Liễu (卽休契了) và hình thành nên một phái mới. Xưa nay, những người cầu pháp ở ngoại quốc có 24 dòng, 46 dòng hay 59 dòng; trong đó trừ 4 dòng của Tào Động Tông (曹洞宗, Sōtō-shū) ra, còn lại 55 dòng thuộc về Lâm Tế Tông. Trong số những nhà truyền pháp thuộc các dòng này, trừ những người bảo trì Thiền Niệm Phật mang tính ẩn dật ra, đại bộ phận các môn lưu đều được hàng công võ quy y theo, thường sống tại 5 ngôi danh sát lớn ở kinh đô Kyōto, Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) và hình thành nên Phái Ngũ Sơn (五山派) với giáo đoàn phức hợp, đa dạng. Đó là hai chùa Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji) cũng như Thọ Phước Tự (壽福寺, Jufuku-ji) của Vinh Tây; Tịnh Diệu Tự (淨妙寺, Jōmyō-ji) của Thối Canh Hành Dũng (退耕行勇); Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) của Viên Nhĩ; Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji) của Lan Khê Đạo Long; Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) của Vô Học Tổ Nguyên; Tịnh Trí Tự (淨智寺, Jōchi-ji) của Ngột Am Phổ Ninh (兀庵普寧) và Nam Châu Hoằng Hải (南洲宏海); Vạn Thọ Tự (萬壽寺, Manju-ji) của Đông Sơn Trạm Chiếu (東山湛照); Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji) của Vô Quan Huyền Ngộ (無關玄悟); Thiên Long Tự (天龍寺, Tenryū-ji) và Tướng Quốc Tự (相國寺, Sōkoku-ji) của Mộng Song Sơ Thạch (夢窻疎石), v.v. Ngoài Phái Ngũ Sơn chịu dưới sự quản chế của chính quyền Mạc Phủ, có xuất hiện Bạt Đội Đắc Thắng (拔隊得勝) và Từ Vân Diệu Ý (慈雲妙意)—pháp tôn của Vô Bổn Giác Tâm (無本覺心), người đi về bố giáo ở các địa phương ngay từ ban đầu. Bạt Đội sáng lập Hướng Nhạc Tự (向嶽寺, Kōgaku-ji) ở vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai); còn Từ Vân thì khai sáng Quốc Thái Tự (國泰寺, Kokutai-ji) ở Việt Trung (越中, Ecchū) và hình thành nên một dòng phái riêng. Ngoài ra, Vô Văn Nguyên Tuyển kiến lập Phương Quảng Tự (方廣寺, Hōkō-ji) ở Áo Sơn (奥山, Okuyama), Viễn Giang (遠江). Tịch Thất Nguyên Quang là hàng pháp tôn của Lan Khê Đạo Long, không có mối quan hệ gì với Phái Ngũ Sơn, chuyên tâm giáo hóa ở các địa phương và xây dựng Vĩnh Quang Tự (永光寺, Eikō-ji) ở vùng Cận Giang (近江). Những Thiền tăng tại các địa phương có Ngu Trung Châu Cập thoát ly khỏi Phái Mộng Song của Ngũ Sơn; ông khai sáng Phật Thông Tự (佛通寺, Buttsū-ji) ở An Nghệ (安芸), được sự ủng hộ đắc lực của dòng họ Tiểu Tảo Xuyên (小早川) và hình thành giáo đoàn nhỏ. Tại trưng ương kinh đô, trong số những người không chịu sự thống chế của chính quyền Mạc Phủ có Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超)—môn hạ của Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), vị tăng truyền dòng pháp của mình dưới thời đại Liêm Thương. Bên cạnh đó, còn xuất hiện đệ tử của Tông Phong là Quan Sơn Huệ Huyền (關山慧玄). Tông Phong thì khai sáng Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji) ở vùng Tử Dã (紫野, Murasakino); Quan Sơn thì kiến lập Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji) ở Hoa Viên (花園, Hanazono) và trở thành sơ tổ của chùa này.Cả hai thầy trò đều được Hoa Viên Pháp Hoàng (花園法皇, Hanazono Hōkō) thâm tín quy y theo. Đối với Thiền lâm Ngũ Sơn, những ngôi chùa Hướng nhạc, Quốc Thái, Phương Quảng, Vĩnh Nguyên, Phật Thông, Đại Đức, Diệu Tâm được gọi là Lâm Hạ Thiền Lâm (林下禪林), vẫn duy trì tông phong từ ngàn xưa, khắc kỷ, đạm bạc mà không hề nhận sự ủng hộ của chính quyền Mạc Phủ. Chính nhân tài của Ngũ Sơn cũng lưu nhập vào hệ thống này, làm cho hưng thạnh; cuối cùng nhờ những nhà Đại Danh thời Chiến Quốc (戰國, Sengoku) quy y theo, hơn nữa những ngôi chùa con ở các địa phương thuộc Phái Ngũ Sơn đã quy hướng về Phái Diệu Tâm Tự (妙心寺派) của Quan Sơn. Cuộc biến động cải cách vào cuối thời nhà Minh và đầu nhà Thanh đã đưa đẩy Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦), Đạo Giả Siêu Nguyên (道者超元), v.v., sang Nhật, đem lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với Thiền lâm trong nước. Từ các phái nhỏ xuất hiện Cổ Nguyệt Thiền Tài (古月禪才), Tuyệt Đồng Bất Nhị (絕同不二), v.v., những nhân vật thuộc Phái Linh Vân (靈雲派) trong Diệu Tâm Tây Phái (妙心西派); cho nên các Tăng Đường ở địa phương được phục hưng và làm cho hồi phục quy cũ tu hành của tập đoàn. Thêm vào đó, từ Phái Thánh Trạch (聖澤派) trong Diệu Tâm Tây Phái lại xuất hiện Bạch Ẩn Huệ Hạc (白隱慧鶴)—người kế thừa dòng pháp của Đạo Kính Huệ Đoan (道鏡慧端); nhờ vậy đã quét sạch những tệ hại lâu năm và vãn hồi được tông phong. Vào năm thứ 7 (1874) niên hiệu Minh Trị (明治, Meiji), qua bản cáo bố của Bộ Tuyên Giáo, hai tông Lâm Tế và Tào Động được độc lập. Đến năm thứ 9 cùng niên hiệu trên, từ Lâm Tế Tông, môn hạ của Ẩn Nguyên Long Kỷ cũng được độc lập với tên gọi là Hoàng Bá Tông (黃檗宗, Ōbaku-shū), trở thành thế chân vạc ba phái Thiền Tông. Trong những Bản Sơn (本山, Honzan, ngôi chùa tổ) các phái của Lâm Tế Tông có 14 phái với các chùa như Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji), Thiên Long Tự (天龍寺, Tenryū-ji), Tướng Quốc Tự (相國寺, Sōkoku-ji), Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji), Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji), Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji), Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), Hướng Nhạc Tự (向嶽寺, Kōgaku-ji), Quốc Thái Tự (國泰寺, Kokutai-ji), Phương Quảng Tự (方廣寺, Hōkō-ji), Vĩnh Nguyên Tự (永源寺, Eigen-ji) và Phật Thông Tự (佛通寺, Buttsū-ji). Vị Quản Trưởng (管長, Kanchō) thống lãnh trong phái, đặt đạo tràng chuyên môn để đào tạo đàn hậu tấn.
(南浦紹明, Nampo Shōmyō, 1235-1308): vị tăng của Phái Dương Kì và Tùng Nguyên thuộc Lâm Tế Tông Nhật Bản, tự là Nam Phố (南浦), họ là Đằng Nguyên (藤原), xuất thân vùng Tuấn Hà (駿河, Suruga, thuộc Shizuoka-ken). Ban đầu ông theo học với Tịnh Biện (淨辨) ở Kiến Tuệ Tự (建穗寺), sau đó theo hầu Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) ở Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji) vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura). Vào năm 1259 (năm đầu niên hiệu Chánh Nguyên [正元]), ông nhập Tống cầu pháp, đi tham bái khắp chốn tùng lâm, cuối cùng nhờ gặp được Hư Đường Trí Ngu (虛堂智愚) mà triệt để đại ngộ và kế thừa dòng pháp của vị này. Vào năm 1267 (năm thứ 4 niên hiệu Văn Vĩnh [文永]), ông trở về nước, làm Tạng Chủ (藏主) dưới trướng của Đạo Long. Ông đã từng sống và di chuyển trong vòng 33 năm giữa hai chùa Hưng Đức Tự (興德寺, Kōtoku-ji) và Sùng Phước Tự (崇福寺, Sūfuku-ji) ở Thái Tể Phủ (太宰府) thuộc vùng Trúc Tiền (筑前, Chikuzen, thuộc Fukuoka-ken [福岡縣]). Đến năm 1305 (năm thứ 3 niên hiệu Gia Nguyên [嘉元]), nhận chiếu chỉ của nhà vua, ông lên kinh đô Kyoto, trú tại Vạn Thọ Tự (萬壽寺, Manju-ji). Bên cạnh đó, ông còn trùng hưng Gia Nguyên Tự (嘉元寺, Kagen-ji) ở vùng Đông Sơn (東山) và trở thành tổ khai sơn chùa này. Vào năm 1307 (năm thứ 2 niên hiệu Đức Trị [德治]), ông xuống vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), dừng chân nghỉ tại Chánh Quán Tự (正觀寺, Shōkan-ji). Sau đó, nhận lời thỉnh cầu của Tướng Quân Bắc Điều Trinh Thời (北條貞時, Hōjō Sadatoki), ông đến trú trì Kiến Trường Tự. Vào năm 1308 (năm đầu niên hiệu Diên Khánh [延慶]), ông thị tịch, hưởng thọ 74 tuổi đời và 60 hạ lạp. Đến năm sau ông được Hậu Vũ Đa Pháp Hoàng (後宇多法皇, Gouta Jōō, 1247-1287) ban cho thụy hiệu là Viên Thông Đại Ứng Quốc Sư (圓通大應國師). Môn hạ của ông có những nhân vật nổi tiếng như Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超), Thông Ông Kính Viên (通翁鏡圓), Nguyệt Đường Tông Quy (月堂宗規), Diệu Tông Tông Hưng (妙宗宗興), v.v. Lớp dưới của phái này thì được gọi là Đại Ứng Môn Phái (大應門派). Hiện tại các phái của Lâm Tế Tông Nhật Bản đều thuộc hệ thống này.
(月林道皎, Gatsurin Dōkō, 1293-1351): vị Thiền Tăng của Phái Dương Kì (楊岐) và Tùng Nguyên (松源) thuộc Lâm Tế Tông, húy là Diệu Hiểu (妙曉), Đạo Kiểu (道皎); đạo hiệu là Nguyệt Lâm (月林), thụy hiệu là Phổ Quang Đại Tràng Quốc Sư (普光大幢國師); hiệu là Độc Bộ Tẩu (獨歩叟), Viên Minh Tẩu (圓明叟), Phật Từ Tri Giám Đại Sư (佛慈知鑑大師); xuất thân vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro, thuộc Kyoto); con của Trung Nạp Ngôn Cửu Ngã Cụ Phòng (中納言久我具房). Lúc còn tuổi thơ, ông đã theo mẹ đến Bình Truyền Tự (平泉寺) làm thị giả và học về giáo học, đến năm 16 tuổi thì xuống tóc xuất gia, làm môn đệ của Cao Phong Hiển Nhật (高峰顯日) ở Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji). Sau khi Thầy mình qua đời, ông đến tham bái Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超) ở Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji). Sau đó ông đã quy y cho Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇). Vào mùa xuân năm thứ 2 (1322) niên hiệu Nguyên Hanh (元亨), ông sang nhà Nguyên cầu pháp, đến tham bái Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂) và kế thừa dòng pháp của vị này. Vua Văn Tông (文宗) nhà Nguyên có ban cho ông hiệu là Phật Từ Tri Giám Đại Sư. Đến năm 1330, ông quay trở về nước. Ông nhận lời quy y cho vị Lãnh Chúa vùng Mai Tân (梅津, Umezu) là Thanh Cảnh (清景), cải đổi ngôi chùa của Thiên Thai Tông thành Trường Phước Thiền Tự (長福禪寺), và làm vị Tổ khai sơn chùa này. Đến ngày 25 tháng 2 năm thứ 2 niên hiệu Quán Ứng (觀應), ông thị tịch, hưởng thọ 59 tuổi đời và 44 hạ lạp. Ông được ban thụy hiệu là Phổ Quang Đại Tràng Quốc Sư. Bộ Nguyệt Lâm Kiểu Thiền Sư Ngữ Lục (月林皎禪師語錄), 2 quyển, hiện vẫn còn.
(松源派, Shōgen-ba): tên một phái kết hợp dòng Thiền của Phái Dương Kì (楊岐派) thuộc Tông Lâm Tế Trung Quốc, trực thuộc pháp hệ của Hổ Kheo Thiệu Long (虎丘紹隆). Tùng Nguyên Sùng Nhạc (松源崇岳), người kế thừa dòng pháp của Mật Am Hàm Kiệt (密庵咸傑), là vị Tổ khai sáng phái này. Môn hạ của Sùng Nhạc có hai vị Tăng kiệt xuất là Vô Minh Huệ Tánh (無明慧性), Vận Am Phổ Nham (運庵普巖); thêm vào đó, còn có Diệt Ông Văn Lễ (滅翁文禮), Tuyết Đậu Trọng Khiêm (雪竇仲謙), Yểm Am Thiện Khai (掩庵善開), v.v. Hơn nữa, sau này môn hạ của Huệ Tánh lại có Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆), rồi môn hạ của Phổ Nham có Hư Đường Trí Ngu (虛堂智愚) xuất hiện. Hư Đường là người dẩn đầu để tạo ra những nhân vật quan trọng của Lâm Tế Tông Nhật Bản như Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超), Quan Sơn Huệ Huyền (關山慧玄), v.v. Và những Thiền Tăng nổi tiếng như Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念), Vô Tượng Tĩnh Chiếu (無象靜照), Tây Giản Tử Đàm (西礀子曇), Nguyệt Lâm Đạo Kiểu (月林道皎), Thạch Thất Thiện Cửu (石室善玖), Trúc Tiên Phạn Tiên (竺仙梵僊), Minh Cực Sở Tuấn (明極楚俊), Ngu Trung Châu Cập (愚中周及), v.v., đều xuất thân từ phái này cả.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.119 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập