Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiện tín »»
(朱雀):
(1) Tên của một loại thần điểu, như trong Mộng Khê Bút Đàm (夢溪筆談) quyển 7 có câu: “Tứ phương thủ tượng, Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; duy Châu Tước mạc tri hà vật, đản vị điểu nhi châu giả, vũ tộc xích tường thượng, tập tất phụ mộc, thử hỏa chi tượng dã; hoặc vị chi trường cầm (四方取象、蒼龍、白虎、朱雀、龜蛇、唯朱雀莫知何物、但謂鳥而朱者、羽族赤而翔上、集必附木、此火之象也、或謂之長离, bốn phương có các hình tượng là Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; chỉ có Châu Tước không biết thuộc vật nào; có người bảo rằng chim màu đỏ là loại có lông đỏ mà bay liệng trên cao; khi tập trung thì nương vào cây; loại này tượng trưng cho lửa; hoặc bảo nó là loài chim dài).”
(2) Tên gọi chung của bảy ngôi sao ở phương Nam, gồm: Tỉnh (井), Quỷ (鬼), Liễu (柳), Tinh (星), Trương (張), Dực (翼) và Chẩn (軫). Cho nên, trong Thái Thượng Hoàng Lục Trai Nghi (太上黃籙齋儀) quyển 44 của Đạo Giáo gọi Nam Phương Châu Thôi Tinh Quân (南方朱崔星君) là Tỉnh Tú Thiên Tỉnh Tinh Quân, Quỷ Tú Thiên Quỹ Tinh Quân, Liễu Tú Thiên Trù Tinh Quân, Tinh Tú Thiên Khố Tinh Quân, Trương Tú Thiên Bình Tinh Quân, Dực Tú Thiên Đô Tinh Quân, Chẩn Tú Thiên Nhai Tinh Quân (井宿天井星君、鬼宿天匱星君、柳宿天廚星君、星宿天庫星君、張宿天秤星君、翼宿天都星君、軫宿天街星君).
(3) Một trong Tứ Linh (四靈), là vị thần thủ hộ phương Nam trong thần thoại cổ đại Trung Quốc, còn gọi là Châu Điểu (朱鳥), cũng gọi là Phụng Hoàng (鳳凰) hay Huyền Điểu (玄鳥). Châu là màu đỏ, tượng trưng cho lửa, phương Nam thuộc lửa, nên có tên Phụng Hoàng. Châu Tước cũng thuộc một dạng của Bất Tử Điểu (不死鳥) ở phương Tây, vì vậy có tên là Khiếu Hỏa Phụng Hoàng (叫火鳳凰). Trong Bắc Cực Thất Nguyên Tử Diên Bí Quyết (北極七元紫延秘訣) của Đạo Giáo có đề cập đến hiệu của Châu Tước là “Lăng Quang Thần Quân (陵光神君).” Trong Đạo Môn Thông Giáo Tất Dụng Tập (道門通敎必用集) quyển 7 có giải thích rằng: “Nam phương Châu Thôi, tùng cầm chi trưởng, đan huyệt hóa sanh, bích lôi lưu hưởng, kỳ thái ngũ sắc, thần nghi Lục Tượng, lai đạo ngã tiền (南方朱崔、從禽之長、丹穴化生、碧雷流響、奇彩五色、神儀六象、來導吾前, Châu Thôi phương Nam, từ loài chim lớn lên, hóa sanh trong hang đỏ, sấm xanh vang tiếng, năm sắc kỳ diệu, dung nghi vượt Sáu Loài, dẫn đến trước ta).” Đạo Giáo dùng tên Châu Tước làm thuật ngữ luyện đan, như trong Vân Cấp Thất Hy (雲笈七羲) quyển 72 có dẫn bài Cổ Kinh (古經), cho rằng: “Châu Thôi giả, Nam phương Bính Đinh Hỏa Chu Sa dã; bào dịch thành long, kết khi thành điểu; kỳ khí đằng nhi vi thiên, kỳ chất trận nhi vi địa; sở dĩ vi đại đan chi bổn dã; kiến hỏa tức phi, cố đắc Châu Thôi chi xưng dã; Thanh Long đích phương vị thị Đông, đại biểu Xuân quý; Bạch Hổ đích phương vị thị Tây, đại biểu Thu quý; Châu Tước đích phương vị thị Nam, đại biểu Hạ quý; Huyền Võ đích phương vị thị Bắc, đại biểu Đông quý (朱崔者、南方丙丁火朱砂也、刨液成龍、結氣成鳥、其氣騰而爲天、其質陣而爲地、所以爲大丹之本也、見火卽飛、故得朱崔之稱也、青龍的方位是東、代表春季、白虎的方位是西、代表秋季、朱雀的方位是南、代表夏季、玄武的方位是北、代表冬季, Châu Thôi là Chu Sa, Bính Đinh, thuộc Hỏa; biến chất dịch thành rồng, kết khí thành chim; khí của nó bốc lên làm trời, chất của nó dàn trận thành đất, nên được gọi là nguồn gốc của màu đỏ huyết; thấy lửa thì bay, nên có tên gọi Châu Thôi; phương vị của Thanh Long là Đông, đại diện cho mùa Xuân; phương vị của Bạch Hổ là Tây, đại diện cho mùa Thu; phương vị của Châu Tước là Nam, đại diện cho mùa Hạ; phương vị của Huyền Võ là Bắc, đại diện cho mùa Đông).”
(4) Tên gọi của một trong Lục Thú (六獸) hay Lục Thần (六神), gồm: Thanh Long (青龍), Châu Tước (朱雀), Câu Trần (勾陳), Đằng Xà (騰蛇), Bạch Hổ (白虎) và Huyền Võ (玄武).
(5) Tên của một trong 12 vị Thiên Tướng, gồm: Thanh Long (青龍), Bạch Hổ (白虎), Huyền Võ (玄武), Châu Tước (朱雀), Quý Nhân (貴人), Đằng Xà (螣蛇), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Thiên Không (天空), Thái Thường (太常), Thái Âm (太陰) và Thiên Hậu (天后). (6) Tên gọi của một trong 8 vị thần, gồm: Trực Phù (直符), Đằng Xà (螣蛇), Thái Âm (太陰), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Châu Tước (朱雀), Cửu Địa (九地) và Cửu Thiên (九天).
(斷橋妙倫, Donkyō Myōrin, 1201-1261): vị tăng của Phái Dương Kì và Phái Phá Am thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Đoạn Kiều (斷橋), hay còn gọi là Tùng Sơn Tử (松山子), người Hoàng Nham Tùng Sơn (黃巖松山), Đài Châu (台州, Tỉnh Triết Giang), họ là Từ (徐). Năm lên 18 tuổi, ông xuất gia ở Quảng Huệ Viện (廣慧院) vùng Vĩnh Gia (永嘉, Tỉnh Triết Giang), rồi sau đó du phương hành cước. Đầu tiên ông đến tham vấn Cốc Nguyên Nguyên Đạo (谷源源道), có chỗ sở ngộ, sau đó gặp được Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範) ở Tuyết Đậu Sơn (雪竇山) và cuối cùng kế thừa dòng pháp của vị này. Khi Sư Phạm chuyển đến Kính Sơn (徑山) và Dục Vương Sơn (育王山) thì ông đi theo hầu. Vào tháng 3 năm đầu (1242) niên hiệu Thuần Hựu (淳祐), ông đến trú trì Thoại Phong Kỳ Viên Tự (瑞峰祇園寺) ở Đài Châu, rồi sống qua một số chùa khác như Thoại Nham Tịnh Độ Thiền Tự (瑞巖淨土禪寺), Quốc Thanh Tự (國清寺) ở Thiên Thai Sơn (天台山, Tỉnh Triết Giang), Tịnh Từ Tự (淨慈寺) ở Phủ Lâm An (臨安府, Tỉnh Triết Giang). Vào ngày 25 tháng 4 năm thứ 2 (1261) niên hiệu Cảnh Định (景定), ông thị tịch, hưởng thọ 61 tuổi đời và 44 hạ lạp. Hai vị thị giả của ông là Văn Bảo (文寳) và Thiện Tĩnh (善靖) biên tập bộ Đoạn Kiều Hòa Thượng Ngữ Lục (斷橋和尚語錄) 2 quyển.
(戒名, Kaimyō): trong Phật Giáo, người xuất gia thọ trì giới luật, thệ nguyện suốt đời không phạm đến các giới điều ấy, và dấu ấn chứng tỏ đã được truyền trao giới pháp chính là Giới Danh. Đối với hàng tu sĩ xuất gia từ Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼) cho đến Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼); và đối với hàng cư sĩ tại gia thì Giới Danh cũng giống nhau mà thôi. Tại Nhật Bản, có truyền thống sau khi qua đời, người chết được ban cho Giới Danh như Thích …, … Viện, … Cư Sĩ (Đại Tỷ), v.v., cùng với tục danh; như Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) có Giới Danh là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện An Quốc Viện Điện Đức Liên Xã Sùng Dự Đạo Hòa Đại Cư Sĩ (東照大權現安國院殿德蓮社崇譽道和大居士) hay An Quốc Viện Điện Đức Liên Xã Sùng Dự Đạo Hòa Đại Cư Sĩ (安國院殿德蓮社崇譽道和大居士); Võ Tướng Võ Điền Tín Huyền (武田信玄, Takeda Shingen) có Giới Danh là Pháp Tánh Viện Cơ Sơn Tín Huyền (法性院機山信玄). Trường hợp tu sĩ xuất gia, Giới Danh được gọi là Pháp Danh (法名, Hōmyō). Pháp Danh của Tăng Ni có thêm vào hiệu Phòng như Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (法然房源空), Phật Pháp Phòng Đạo Nguyên (佛法房道元), Thiện tín Phòng Thân Loan (善信房親鸞), v.v. Cho nên, hiệu Phòng ấy trở thành thông xưng, và cũng có trường hợp như vậy mà được thăng cách thành hiệu Thượng Nhân (上人, Shōnin), như Pháp Nhiên Thượng Nhân (法然上人, Hōnen Shōnin), v.v. Đối với Phật Giáo Nhật Bản, Giới Danh thường được ban cho cư sĩ tại gia khi qua đời, và từ đó có tập quán khắc Giới Danh này vào bia mộ cũng như Bài Vị (牌位).
(蕅益智旭, Gueki Chikyoku, 1599-1655): vị tăng sống dưới thời nhà Minh, người Mộc Độc (木瀆), Huyện Ngô (呉縣, Tỉnh Giang Tô), họ là Chung (鍾), tên Tế Minh (際明), tự Ngẫu Ích (蕅益), hiệu Bát Bất Đạo Nhân (八不道人). Hồi nhỏ ông học Nho học, từng soạn ra Tịch Phật Luận (闢佛論) khoảng 10 thiên. Đến năm lên 17 tuổi, nhân đọc bộ Tự Tri Lục (自知錄) và Trúc Song Tùy Bút (竹窗隨筆) của Liên Trì Châu Hoằng (蓮池袾宏), mới biết mình đã phạm phải sai lầm lớn, bèn đem cuốn Tịch Phật Luận đốt đi. Năm 20 tuổi, ông tụng Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh (地藏本願經), phát khởi chí nguyện xuất gia. Năm 23 tuổi, ông phát 48 lời nguyện, tự đặt tên là Đại Lãng Ưu Bà Tắc (大朗優婆塞). Nhân nghe giảng Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂首楞嚴經), ông sanh tâm nghi ngờ các vấn đề như làm sao có sự giác ngộ lớn, làm thế nào sanh khởi hư không cùng với thế giới, cho nên cuối cùng ông quyết chí xuất gia. Đến năm 24 tuổi, ông theo xuất gia với Tuyết Lãnh (雪嶺), đệ tử của Hám Sơn (憨山), đổi tên là Trí Húc. Trong khoảng thời gian mùa hạ và thu, ông đến nghe giảng về Duy Thức Luận (唯識論) ở Vân Thê Tự (雲棲寺), bỗng nhiên chỗ nghi ngờ càng mâu thuẩn hơn với tông chỉ của Phật Đảnh Kinh. Ông bèn đến Kinh Sơn ngồi Thiền, bỗng nhiên ngộ được rằng hai tông tánh và tướng vốn không xung đột và mâu thuẩn lẫn nhau. Đến năm 26 tuổi, ông thọ Bồ Tát giới, rồi năm sau thì đọc hết Luật tạng. Nhân vì bệnh tình nguy ngập, ông chuyên tâm cầu được vãng sanh về Tịnh Độ. Đến năm 30 tuổi, thể theo lời thỉnh cầu của đạo hữu Tuyết Hàng (雪航), ông đến Long Cư Tự (龍居寺) giảng thuyết về Luật. Sau ông đến Kim Lăng (金陵), rất đau xót trước những sa sút, suy đồi về tông môn, nên từ đó ông quyết chí hoằng truyền Luật. Năm 32 tuổi, nhân muốn chú thích Kinh Phạm Võng (梵綱經), nên ông tham cứu tường tận giáo nghĩa Thiên Thai. Năm sau, ông đến Linh Phong Tự (靈峰寺) vùng Triết Giang (浙江), rồi sống qua các nơi như Cửu Hoa (九華), Ôn Lăng (溫陵), Thạch Thành (石城), Thịnh Khê (晟溪), Tân An (新安), v.v., chuyên tâm hoằng dương giáo nghĩa Thiên Thai và chú thích các kinh luận. Đến năm 56 tuổi, nhân lúc ngọa bệnh tại Linh Phong, ông có soạn ra Tây Trai Tịnh Độ Thi (西齋淨土詩) cùng với 9 bộ khác, gọi chung là 10 bộ trọng yếu của Tịnh Độ. Sau khi lành bệnh, ông viết ra 2 cuốn Duyệt Tạng Tri Tân (閲藏知津) và Pháp Hải Quán Lạn (法海觀瀾). Đến tháng 10, bệnh cũ tái phát, ông để lại di chúc, truyền trao câu kệ cầu sanh Tịnh Độ. Vào tháng giêng năm thứ 12 niên hiệu Thuận Trị (順治), ông ngồi xếp bằng an nhiên chấp tay hướng về phương Tây mà thị tịch, hưởng thọ 57 tuổi đời và 34 hạ lạp. Ông là người rất nghiêm trì giới luật, ghét bỏ danh lợi, chuyên tâm hoằng dương Luật tạng, lúc sanh tiền thường xuyên lấy việc đọc tạng kinh luật và trước tác làm sự nghiệp. Giáo nghĩa các tông Pháp Tướng, Thiền, Luật, Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Tịnh Độ ông đều thông suốt, nhưng lại thiên nặng về Thiên Thai và chủ trương tam giáo Nho Lão Phật nhất trí với nhau. Trừ các tông phái Phật Giáo ra, ông còn nghiên cứu cả Nho Giáo và Cơ Đốc Giáo, cho nên phạm vi trước tác của ông rất rộng rãi. Thiền pháp của ông vốn kế thừa Văn Tự Thiền của Diên Thọ (延壽), Phạn Kỷ (梵琦), Chơn Khả (眞可), nhưng tất cả đều hội quy về Thiên Thai Giáo Quán. Ông cũng có cái nhìn độc đáo về giáo nghĩa Thiên Thai. Về Luật Tông, ông chú trọng thật tiễn hành trì giới luật. Tuy nhiên, Thiền, Giáo và Luật học của ông cuối cùng đều quy về Tịnh Độ với chủ trương Thiền Tịnh hợp nhất. Tổng kết tư tưởng của ông là Tam Học nhiếp quy về một niệm, và lấy niệm Phật để thống nhiếp toàn bộ giáo lý của một đời đức Thích Ca. Đến cuối thời nhà Thanh, hầu hết các nhà Thiên Thai đều lấy kinh luận và kinh sớ của ông làm y cứ để thuyết giảng, hình thành nên Phái Linh Phong (靈峰派) với chủ trương “dung hợp Thiền Giáo Luật quy nhập Tịnh Độ” và kéo dài mãi cho đến ngày nay. Sau khi qua đời, đệ tử Thành Thời (成時) phong cho ông thụy là Thỉ Nhật Đại Sư (始日大師), ngoài đời gọi ông là Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư, được sùng kính như là vị tổ thứ 9 của Tịnh Độ Tông. Ông cùng với Hám Sơn (憨山), Tử Bá (紫柏), Liên Trì (蓮池) được gọi là tứ đại cao tăng thời nhà Minh. Đệ tử của ông có Chiếu Nam (照南), Linh Thịnh (靈晟), Tánh Đản (性旦), Đẳng Từ (等慈), v.v.Trước tác của ông có rất nhiều, hơn 40 bộ như Lăng Nghiêm Kinh Huyền Nghĩa (楞嚴經玄義) 2 quyển, Lăng Nghiêm Kinh Văn Cú (楞嚴經文句) 10 quyển, A Di Đà Kinh Yếu Giải (阿彌陀經要解) 1 quyển, Kim Cang Kinh Phá Không Luận (金剛經破空論) 1 quyển, Phạm Võng Kinh Hợp Chú (梵綱經合注) 7 quyển, Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (毘尼事義集要) 17 quyển, Tướng Tông Bát Yếu Trực Giải (相宗八要直解) 8 quyển, Duyệt Tạng Tri Tân (閲藏知津) 48 quyển, Chu Dịch Thiền Giải (周易禪解) 10 quyển, Tứ Thư Ngẫu Ích Giải (四書蕅益解) 4 quyển, v.v. Đệ tử Thành Thời biên tập di văn của ông thành Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận (蕅益大師宗論) gồm 10 quyển, và ngày nay được biên tập thành Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập (蕅益大師全集).
(幻住派, Genjū-ha): tên gọi chung của những người kế thừa pháp hệ của Trung Phong Minh Bổn (中峰明本) thuộc Phái Phá Am của Lâm Tế Tông. Viễn Khê Tổ Hùng (遠溪祖雄), Phục Am Tông Dĩ (復菴宗已), Cổ Tiên Ấn Nguyên (古先印元), Vô Ẩn Nguyên Hối (無隱元晦), Nghiệp Hải Bổn Tịnh (業海本淨), Minh Tẩu Tề Triết (明叟齊哲), Đại Chuyết Tổ Năng (大拙祖能), v.v., là những nhân vật thuộc phái này. Người cháu đời thứ 4 của Cổ Tiên là Nguyệt Chu Thọ Quế (月舟壽桂) ở Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji). Đặc sắc của phái này là có tính cách ẩn dật của vị khai Tổ Trung Phong, kế thừa tư tưởng Thiền Tịnh Nhất Trí. Ban đầu phái này tách lìa với Phái Ngũ Sơn mà hoạt động giáo hóa ở các địa phương, nhưng đến dòng pháp hệ của Viễn Khê thì có Nhất Hoa Thạc Điền (一華碩田) xuất hiện, làm cho Phái Huyễn Trú có thể tiến về thâm nhập vào năm ngôi chùa lớn ở kinh đô; cho nên, tại các chùa như Tam Thánh (三聖), Kiến Nhân (建仁), Nam Thiền (南禪), Kiến Trường (建長), Viên Giác (圓覺), v.v., đều có chân của phái này, và cho đến thời kỳ Giang Hộ thì phái này đã phát triển rất rực rỡ.
(法華宗, Hokkeshū) tức Nhật Liên Tông (日蓮宗, Nichirenshū): theo pháp chế hiện tại thì đây là đoàn thể tôn giáo lấy Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở vùng Thân Diên (身延, Minobu) làm Đại Bản Sơn; nhưng nếu xét về mặt lịch sử thì đây là tên gọi chung của tập đoàn tôn giáo vốn kế thừa và thực hiện giáo lý của Nhật Liên dưới thời đại Liêm Thương. Với ý nghĩa đó, Pháp Hoa Tông là tên gọi do các tông phái khác gọi về Nhật Liên Tông, hay cũng là tiếng tự xưng, và phần nhiều cách gọi này được dùng phổ biến hơn. Năm 1282, Nhật Liên (日蓮, Nichiren) chỉ danh 6 người đệ tử chân truyền của ông là Nhật Chiêu (日昭, Nisshō, 1221-1323), Nhật Lãng (日朗, Nichirō, 1245-1320), Nhật Hưng (日興, Nikkō, 1246-1333), Nhật Hướng (日向, Nikō, 1253-1314), Nhật Đảnh (日頂, Nicchō, 1252-1317 hay 1328?) và Nhật Trì (日持, Nichiji, 1250-?), với tên gọi là Lục Lão Tăng (六老僧). Sau đó, các môn phái được hình thành Dòng Phái Nhật Chiêu (日昭門流, tức Dòng Phái Banh [浜門流]), Dòng Phái Nhật Lãng (日朗門流, tức Dòng Phái Tỷ Xí Cốc [比企谷門流]), Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Phú Sĩ [富士門流]), Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流, Dòng Phái Thân Diên [身延門流]). Sau khi Nhật Liên qua đời, xuất hiện thêm Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Trung Sơn [中山門流]). Thật thể của Nhật Liên Tông thời Trung Đại chính là những môn phái vừa nêu trên. Các môn phái mở rộng vùng giáo tuyến của mình ở vùng Đông Quốc, rồi sau đó dần dần tiến về phía kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động giáo hóa cho giáo đoàn. Những nhân vật có công trong việc này là Nhật Tượng (日像, Nichizo, 1269-1342) thuộc Dòng Phái Tứ Điều (四條門流) vốn lấy Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji) làm trung tâm; Nhật Tĩnh (日靜, Nichijō, 1298-1369) của Dòng Phái Lục Điều (六條門流), lấy Bổn Quốc Tự (本國寺 hay 本圀寺, Honkoku-ji) làm trung tâm. Kế thừa dòng phái này có Nhật Tôn (日尊, Nisson, ?-1603) của Dòng Phái Phú Sĩ; rồi Nhật Thân (日親, Nisshin, 1407-1488) và Nhật Chúc (日祝, Nisshū, 1437-1513) của Dòng Phái Trung Sơn. Họ không những tiếp cận hàng công gia khanh tướng, mà còn lấy tầng lớp thương gia, công nhân và nông dân làm môn đồ; nhờ vậy đã tạo dựng được rất nhiều tự viện khắp nơi. Bên cạnh đó, những cuộc luận tranh về lập trường Tích Môn hay Bổn Môn của Kinh Pháp Hoa, cũng như điểm hay dở trong kinh bắt đầu được triển khai. Về phía Dòng Phái Lục Điều, Nhật Trận (日陣, Nichijin, 1339-1419) sáng lập ra Bổn Thiền Tự (本禪寺, Honzen-ji), rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Trận (日陣門流, tức Dòng Phái Bổn Thành Tự [本成寺, Honjō-ji]). Còn về phía Dòng Phái Tứ Điều, hai chùa Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji) và Diệu Liên Tự (妙蓮寺, Myōren-ji) chia rẽ nhau; Nhật Long (日隆, Nichiryū, 1385-1464) thì chủ trương tính hay dở của kinh, lấy Bổn Hưng Tự (本興寺) ở vùng Ni Khi (尼崎, Amazaki) và Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji) ở kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động truyền đạo, rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Bát Phẩm [八品門流]). Trường hợp Nhật Thập (日什, Nichijū, 1314-1392) thì khai cơ Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji) và sáng lập ra Dòng Phái Nhật Thập (日什門流, tức Dòng Phái Diệu Mãn Tự [妙滿寺門流]). Nhật Thân sáng lập Bổn Pháp Tự (本法寺, Hompō-ji), còn Nhật Chúc thì có Đảnh Diệu Tự (頂妙寺, Chōmyō-ji), và hình thành Dòng Phái Quan Tây Trung Sơn (關西中山門流). Những ngôi già lam này mở rộng phạm vi hoạt dộng ở vùng Tây Quốc, còn ở kinh đô Kyoto thì có được 21 ngôi chùa. Dưới thời đại Chiến Quốc, Nhật Liên Tông đã cùng với với dân chúng trong thôn xóm hình thành đội tự vệ. Trước uy lực mạnh mẽ như thế này, các giáo đoàn của những tông phái khác tập trung lại với nhau tại Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji), hợp với các nhà Đại Danh có thế lực, dòng võ lực đàn áp Nhật Liên Tông. Từ đó, xảy ra vụ Loạn Thiên Văn Pháp Hoa (天文法華の亂) vào năm thứ 5 (1536) niên hiệu Thiên Văn (天文). Khi ấy, các chùa ở kinh đô đều phải lánh nạn đi nơi khác, và sau mới được phép cho trở về. Đến thời Trung Đại, chủ trương gọi là “Bất Thọ Bất Thí (不授不施, Không Nhận Không Cho)” của Nhật Liên Tông bị những nhà lãnh đạo chính quyền đương thời như Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga), Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) chống đối kịch liệt. Cho nên xảy ra các vụ pháp nạn lớn, nhiều tăng lữ cũng như tín đồ phải hy sinh trong mấy lần pháp nạn này. Đến thời Cận Đại, tổ chức giáo dục chư tăng được thiết lập. Về mặt xuất bản cũng rất thịnh hành, các bức di văn của Nhật Liên từ đó được lưu hành rộng rãi. Truyện Nhật Liên cũng được lưu bố khắp nơi, cho nên xuất hiện các tác phẩm như Nhật Liên Thánh Nhân Chú Họa Tán (日蓮上人註畫讚), Nhật Liên Đại Thánh Nhân Ngự Truyền Ký (日蓮大上人御傳記), v.v. Đặc sắc lớn của Nhật Liên Tông thời Cận Đại là triển khai cuộc vận động Phật Giáo tại gia, trong đó cuộc vận động Quốc Trụ Hội (國柱會) của Điền Trung Trí Học (田中智學) là đối ứng với sự hưng thịnh của quốc gia Minh Trị (明治, Meiji); rồi Bổn Đa Nhật Sanh (本多日生) tổ chức thành Thiên Tình Hội (天晴會), thâu nạp toàn tầng lớp trí thức và quân nhân. Trong khi đó, nhóm Sơn Điền Tam Lương (山田三良) thì thành lập Pháp Hoa Hội (法華會). Vào thời kỳ Đại Chánh (大正, Taishō), Chiêu Hòa (昭和, Shōwa), tôn giáo tân hưng thuộc hệ Nhật Liên Tông bắt đầu triển khai. Sau thời chiến, một số hội khác ra đời như Linh Hữu Hội (靈友會, Reiyūkai), Lập Chánh Giao Thành Hội (立正佼成會, Risshōkōseikai), Sáng Giá Học Hội (創価學会, Sōkagakkai), v.v., và Nhật Liên Tông trở thành tôn giáo đại chúng. Căn cứ vào tài liệu Nhật Bản Sử Từ Điển (日本史辭典, Nihonshijiten) của Triêu Vĩ Trực Hoằng (朝尾直弘, Asao Naohiro), Vũ Dã Tuấn Nhất (宇野俊一, Uno Shunichi), Điền Trung Trác (田中琢, Tanaka Migaku), nhà xuất bản Giác Xuyên Thư Điếm (角川書店, 1996) cho biết rằng hiện tại Nhật Liên Tông có một số dòng phái chính (theo thứ tự tên dòng phái, chùa trung tâm) như: (1) Môn Lưu Banh (浜門流), Diệu Pháp Tự (妙法寺, Myōhō-ji, Kamakura); (2) Môn Lưu Lãng (朗門流), Diệu Bổn Tự (妙本寺, Myōhon-ji, Kamakura), Bổn Môn Tự (本門寺, Honmon-ji, Musashi); (3) ; (4) Môn Lưu Tảo Nguyên (藻原門流), Diệu Quang Tự (妙光寺, Myōkō-ji, Kamifusa); (5) Môn Lưu Lục Điều (六條門流), Bổn Quốc Tự (本國寺, Honkoku-ji, Kyōto); (6) Môn Lưu Trung Sơn (中山門流), Bổn Diệu Pháp Hoa Kinh Tự (本妙法華經寺, Honmyōhokkekyō-ji, Shimofusa); (7) Môn Lưu Tứ Điều (四條門流), Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji, Kyoto); (8) Phái Bất Thọ Bất Thí (不受不施派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (9) Môn Phái Bất Thọ Bất Thí Giảng (不受不施派講門派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (10) Môn Lưu Phú Sĩ (富士門流), Đại Thạch Tự (大石寺, Daiseki-ji, Suruga); (11) Phái Bổn Thành Tự (本成寺派), Bổn Thành Tự (本成寺, Honjō-ji, Echigo); (12) Phái Diệu Mãn Tự (妙滿寺派), Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji, Kyoto); (13) Phái Bát Phẩm (八品派), Bổn Hưng Tự (本興寺, Honkō-ji, Settsu), Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji, Kyoto); (14) Phái Bổn Long Tự (本隆寺派), Bổn Long Tự (本隆寺, Honryū-ji, Kyoto).
(佛宮): cung điện thờ Phật, tức chỉ cho tự viện Phật Giáo; tương đương với Phạm cung (梵宮), Phạm vũ (梵宇), Phạm sát (梵刹). Như trong Tử Bá Tôn Giả Toàn Tập (紫柏尊者全集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1452) quyển 28 có bài thơ Quá Hướng Thành Quảng Phước Tự (過向城廣福寺) rằng: “Vạn thốc vân sơn ủng Phật cung, tuyền đề tảo tỉnh thảo lai phong, tịch dương khư lạc hướng thành Bắc, kỉ độ chung thanh tống vãn phong (萬簇雲山擁佛宮、璇題藻井草萊封、夕陽墟落向城北、幾度鐘聲送晚風, vạn cụm núi mây ôm Phật cung, biển ngọc phù điêu cỏ xanh um, bóng chiều thành cũ xuôi về Bắc, mấy độ chuông chùa theo gió ngân).” Hay trong Quảng Thanh Lương Truyện (廣清涼傳, Taishō Vol. 51, No. 2099) quyển Hạ có câu: “Nhân tức sáng hưng Phạm vũ, đế cấu Phật cung, thập hữu thất niên bất hạ phong đảnh, Thiền tụng tinh cần, thốn âm vô phế (因卽創興梵宇、締搆佛宮、十有七年不下峰頂、禪誦精勤、寸陰無廢, nhân đó mà sáng lập Phạm vũ, xây dựng Phật điện, trong vòng mười bảy năm không xuống đỉnh núi, hành Thiền tinh tấn, thời gian không bỏ phí).”
(佛宮): cung điện thờ Phật, tức chỉ cho tự viện Phật Giáo; tương đương với Phạm cung (梵宮), Phạm vũ (梵宇), Phạm sát (梵刹). Như trong Tử Bá Tôn Giả Toàn Tập (紫柏尊者全集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1452) quyển 28 có bài thơ Quá Hướng Thành Quảng Phước Tự (過向城廣福寺) rằng: “Vạn thốc vân sơn ủng Phật cung, tuyền đề tảo tỉnh thảo lai phong, tịch dương khư lạc hướng thành Bắc, kỉ độ chung thanh tống vãn phong (萬簇雲山擁佛宮、璇題藻井草萊封、夕陽墟落向城北、幾度鐘聲送晚風, vạn cụm núi mây ôm Phật cung, biển ngọc phù điêu cỏ xanh um, bóng chiều thành cũ xuôi về Bắc, mấy độ chuông chùa theo gió ngân).” Hay trong Quảng Thanh Lương Truyện (廣清涼傳, Taishō Vol. 51, No. 2099) quyển Hạ có câu: “Nhân tức sáng hưng Phạm vũ, đế cấu Phật cung, thập hữu thất niên bất hạ phong đảnh, Thiền tụng tinh cần, thốn âm vô phế (因卽創興梵宇、締搆佛宮、十有七年不下峰頂、禪誦精勤、寸陰無廢, nhân đó mà sáng lập Phạm vũ, xây dựng Phật điện, trong vòng mười bảy năm không xuống đỉnh núi, hành Thiền tinh tấn, thời gian không bỏ phí).”
(歸元直指集, Kigenjikishishū): 4 quyển, trước tác của Thiên Y Tông Bổn (天衣宗本, ?-?) nhà Minh, san hành vào năm thứ 32 (1553) niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖), trùng san vào năm thứ 4 (1570) niên hiệu Càn Long (乾隆) bản 2 quyển có lời tựa của Lộc Viên Cư Sĩ Vạn Biểu (鹿園居士萬表), là tập thâu lục 97 thiên gồm những thuyết xưa nay liên quan đến tư tưởng Thiền Tịnh Nhất Trí. Cuối quyển 2 có Tây Phương Bách Vịnh (西方百詠), cuối quyển 4 có Sơn Cư Bách Vịnh (山居百詠).
(親鸞, Shinran, 1173-1262): vị tăng sống vào đầu thời kỳ Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), vị tổ sư khai sáng ra Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản, con đầu của Hoàng Thái Hậu Cung Đại Tấn Nhật Dã Hữu Phạm (宮大進日野有範), thông xưng là Xước Không (綽空), Thiện tín (善信). Ban đầu ông đầu sư với Từ Viên (慈圓), sau trở thành đệ tử của Pháp Nhiên (法然, Hōnen). Vào năm 1207 (năm đầu niên hiệu Thừa Nguyên [承元]), do vì pháp môn niệm Phật bị đàn áp nên ông bị lưu đày đến địa phương Việt Hậu (越後, Echigo), và trong khoảng thời gian này ông tự xưng là kẻ ngu ngốc và sống cuộc đời phi tăng phi tục. Cũng chính trong giai đoạn này, ông đã cưới vị Ni Huệ Tín (慧信) làm vợ. Đến năm 1211 (năm đầu niên hiệu Kiến Lịch [建曆]), ông được xá tội, và năm sau ông trở về kinh đô. Nơi đây ông gặp Thường Lục Quốc Đạo Điền Hương (常陸國稻田郷) ở vùng Quan Đông (關東, Kantō), lấy giáo nghĩa Tín Tâm Vi Bổn (信心爲本, tín tâm làm gốc) và tiến hành truyền đạo bố giáo. Các tác phẩm của ông để lại cho hậu thế có Giáo Hành Tín Chứng (敎行信証), Duy Tín Sao Văn Ý (唯信抄文意), Tịnh Độ Văn Loại Tụ Sao (淨土文類聚抄), Ngu Ngốc Sao (愚禿抄), v.v. Ôngđược ban cho thụy hiệu là Kiến Chơn Đại Sư (見眞大師).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.163 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập