Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Chỉ có hai thời điểm mà ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Đó là lúc ta sinh ra đời và lúc ta nhắm mắt xuôi tay.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tòa hạ »»
(覺皇): vua giác ngộ; đức Phật được xem như là vị vua giác ngộ, nên Giác Hoàng còn là tên gọi khác của Phật. Như trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, CBETA No. 1277) quyển 3 có đoạn: “Như Cam Lồ nhi ốc tâm, tợ Đề Hồ nhi quán đảnh, hà tất cánh tầm Di Lặc Phật, chỉ kim hạnh đổ Thích Ca sư, cung đối Giác Hoàng, liêu ngâm Phật vận, tín sĩ kiền thành, cung thân thiết bái (如甘露而沃心、似醍醐而灌頂、何必更尋彌勒佛、只今幸睹釋迦師、恭對覺皇、聊吟佛韻、信士虔誠、躬身設拜, như Cam Lồ mà rưới tâm, tựa Đề Hồ mà rưới đầu, đâu cần đi tìm Di Lặc Phật, chỉ nay may gặp Thầy Thích Ca, đối trước Giác Hoàng, cùng ngâm lời Phật, tín đồ lòng thành, cúi mình vái lạy).” Hay trong Từ Bi Thủy Sám Pháp (慈悲水懺法) quyển Hạ có câu: “Giác Hoàng Tòa hạ, huân tu Tam Muội huyền văn, kim đối đệ tam quyển, công đức châu long (覺皇座下、薰脩三昧玄文、今對第三卷、功德周隆, dưới tòa Giác Hoàng, chuyên tu Tam Muội văn mầu, nay đến quyển thứ ba, công đức trọn vẹn).” Trong Chánh Pháp Nhãn Tạng (正法眼藏, Shōbōgenzō) quyển 72 của Thiền Sư Đạo Nguyên (道元, Dōgen, 1200-1253), vị tổ sáng lập ra Tào Động Tông Nhật Bản, cũng có câu: “Đương Giác Hoàng giải chế chi thời, thị pháp tuế châu viên chi nhật, cửu tuần vô nạn, nhất chúng hàm an (當覺皇解制之時、是法歳周圓之日、九旬無難、一眾咸安, lúc Giác Hoàng giải hạ kết chế, là đúng ngày tuổi hạ tròn đầy, chín tuần chẳng nạn, toàn chúng đều yên).”
(夏臘, 夏臈): còn gọi là Tăng Lạp (僧臘), Pháp Lạp (法臘), Pháp Tuế (法歲), Pháp Hạ (法夏), Giới Lạp (戒臘), Tọa Lạp (坐臘), Tọa Hạ Pháp Lạp (坐夏法臘); chỉ cho số năm An Cư Kiết Hạ của vị Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘) sau khi thọ giới Cụ Túc. Mỗi năm từ ngày 16 tháng 4 cho đến ngày rằm tháng 7 âm lịch, trong vòng 3 tháng, các tòng lâm có tổ chức An Cư Kiết Hạ, lấy ngày cuối cùng của thời gian ấy làm ngày kết thúc của một năm; tức là ngày thọ thêm 1 tuổi. Cho nên, các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼), sau khi thọ giới xong, vào dịp kết thúc kỳ An Cư Kiết Hạ, sẽ được tăng thêm 1 tuổi nữa. Tùy theo tuổi Hạ ít nhiều mà phân làm Thượng Lạp (上臘), Trung Lạp (中臘) và Hạ Lạp (下臘), để phân định cao thấp, tôn ty thượng hạ. Người có tuổi Hạ cao nhất được gọi là Nhất Lạp (一臘), Cực Lạp (極臘), Lạp Mãn (臘滿). Trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1456) quyển 21 có đoạn: “Sở trú giả Pháp Lạp, cố cổ chi cao tăng, viết Thế Thọ, hựu viết Pháp Lạp; cái bất câu tuế niên, nhi dĩ sơ nhập thọ trì giới phẩm, tam nguyệt An Cư, giới thể vô khuy vi nhất lạp, do dĩ lạp bất dĩ niên, cố hữu niên cao nhi lạp thiểu giả, hữu đồng niên nhi kì thọ giả (所住者法臘、故古之高僧、曰世壽、又曰法臘、蓋不拘歲年、而以初入受持戒品、三月安居、戒體無虧爲一臘、由以臘不以年、故有年高而臘少者、有童年而耆壽者, Pháp Lạp của người cư trú, chư vị cao tăng xưa gọi là Thế Thọ, hay còn gọi là Pháp Lạp; vì không kể tuổi đời, mà lấy việc mới vào thọ trì giới phẩm, ba tháng An Cư, giới thể không bị thiếu là một Lạp, do vì lấy Hạ Lạp mà không lấy tuổi đời; cho nên có người tuổi đời cao mà Hạ Lạp ít, có người tuổi đời ít mà tuổi thọ cao).” Trong Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Hạ lại giải thích rõ rằng: “Hạ Lạp, tức Thích thị Pháp Tuế dã; phàm tự trưởng ấu, tất vấn, Hạ Lạp đa giả vi trưởng (夏臘、卽釋氏法歲也、凡序長幻、必問、夏臘多者爲長, Hạ Lạp là Pháp Tuế nhà Phật; phàm muốn biết thứ tự lớn nhỏ, cần phải hỏi, Hạ Lạp nhiều là lớn).” Hay trong Báo Ân Luận (報恩論, 卍 Xuzangjing Vol. 62, No. 1205) quyển Thượng có đề cập rằng: “Phàm xuất gia nhị chúng, Đông Hạ nhập Lan Nhã giảng học, Xuân Thu quy gia dưỡng phụ mẫu, cố tăng gia tự xỉ xưng Hạ Lạp, bất xưng niên (凡出家二眾、冬夏入蘭若講學、春秋歸家養父母、故僧家序齒稱夏臘、不稱年, phàm hai chúng xuất gia, mùa Đông và Hạ thì vào chùa tu học, đến mùa Xuân và Thu thì về nhà phụng dưỡng cha mẹ; nên tuổi tác của tăng sĩ được gọi là Hạ Lạp, không gọi là năm [tuổi đời]).” Trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳, q.16, Taishō Vol. 50, No. 2061) quyển 16, phần Đường Giang Châu Hưng Quả Tự Thần Thấu Truyện (唐江州興果寺神湊傳) cũng có đoạn: “Nguyên Hòa thập nhị niên cửu nguyệt cấu tật, nhị thập lục nhật nghiễm nhiên tọa chung vu tự, thập nguyệt thập cửu nhật môn nhân phụng toàn thân biếm vu tự Tây đạo Bắc phụ Nhạn Môn phần tả, nhược tăng Thuyên táng cận Quách Văn chi mộ dã, xuân thu thất thập tứ, Hạ lạp ngũ thập nhất (元和十二年九月遘疾、二十六日儼然坐終于寺、十月十九日門人奉全身窆于寺西道北祔雁門墳左、若僧詮葬近郭文之墓也、春秋七十四、夏臘五十一, vào tháng 9 năm thứ 12 [817] niên hiệu Nguyên Hòa, ông nhuốm bệnh, đến ngày 26 thì nghiễm nhiên ngồi thị tịch tại chùa; vào ngày 19 tháng 10, môn nhân đem toàn thân của ông an táng ở phía Tây chùa, sau hợp táng ở bên trái đồi Nhạn Môn, giống như vị tăng Đạo Thuyên an táng gần mộ của Quách Văn vậy; ông hưởng thọ 74 tuổi đời và 51 Hạ lạp).”
(鶴駕): cỗ xe hạc, cỡi hạc. Có mấy nghĩa khác nhau.
(1) Căn cứ tác phẩm Liệt Tiên Truyện (列仙傳), phần Vương Tử Kiêu (王子喬) cho biết rằng xưa kia Vương Tử Kiêu, tức là Thái Tử Tấn của Chu Linh Vương (周靈王, ?-545 ttl.) thường cỡi hạc trắng đậu trên đỉnh núi của họ Câu (緱). Cho nên, về sau người ta thường gọi xa giá của Thái Tử là hạc giá. Như trong bài thơ Văn Hoa Kỷ Sự (文華紀事) của Lý Đông Dương (李東陽, 1447-1516) nhà Minh có câu: “Hạc giá tạm đình đương điện ngọ, long nhan nhất cố mãn trì xuân (鶴駕暫停當殿午、龍顏一顧滿墀春, xe hạc tạm dừng trước điện cổng, long nhan ngoảnh lại đầy thềm xuân).”
(2) Cỗ xe của tiên nhân. Như trong bài Lão Thị Bi (老氏碑) của Tiết Đạo Hành (薛道衡, 540-609) nhà Tùy có đoạn: “Luyện hình vật biểu, quyển tích phương ngoại, nghê thường hạc giá, vãng lai Tử Phủ (鍊形物表、卷跡方外、蜺裳鶴駕、往來紫府, rèn hình thành vật, cuộn dấu ngoài xa, nghê thường cỡi hạc, tới lui Tử Phủ).”
(3) Cách gọi khác của cái chết, từ giã cõi đời, cỡi hạc mà đi. Như trong bài Trịnh Thái Tử Bi Minh (鄭太子碑銘) của Lô Chiếu Lân (盧照鄰, 632-695) nhà Đường có đoạn: “Nghê tinh dương Hán, do tầm hủ cốt chi linh; hạc giá đình không, thượng yết tiên nhân chi mộ (霓旌揚漢、猶尋朽骨之靈、鶴駕停空、尚謁先人之墓, cờ tiên dương khắp, để tìm cốt mục vong linh, xe hạc dừng không, tham yết người xưa lăng mộ).” Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên Tục Lược (五燈會元續略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1566) quyển 4 có đoạn: “Ngọc mai phá tuyết, hồng diệp điêu sương, thích quan gia trừ đạm chi thần, nãi hạc giá tiên du chi nhật (玉梅破雪、紅葉凋霜、適官家除禫之辰、迺鶴駕仙遊之日, mai ngọc phá tuyết, lá đỏ khắc sương, đúng nhà quan tang hết lúc này, là cỡi hạc về tiên ngày ấy).” Hay trong bài Du Kim Hoa Động Thiên (遊金華洞天) của Hư Đường Hòa Thượng Ngữ Lục (虛堂和尚語錄, Taishō Vol. 47, No. 2000) quyển 7 có đoạn: “Sưu sưu nhai lựu tĩnh biên văn, đáo thử tiên phàm chỉ xích phân, hạc giá triều chơn hà nhật phản, động môn chung nhật tỏa hàn vân (颼颼崖溜靜邊聞、到此仙凡咫尺分、鶴駕朝眞何日返、洞門終日鎖寒雲, vù vù khe nước nghe lắng trầm, đến chốn tiên phàm cách mấy phân, cỡi hạc quy chơn ngày nao lại, cửa động suốt buổi ngút mây hàn).”
(六供): Theo Đinh Phúc Bảo Phật Học Đại Từ Điển (丁福保佛學大詞典), căn cứ vào Tăng Đường Thanh Quy (僧堂清規) 3 do Diện Sơn Thụy Phương (面山瑞方, Menzan Zuihō, 1683-1769), tăng sĩ Tào Động Tông của Nhật Bản soạn, Lục Cúng là 6 phẩm vật dâng cúng lên chư Phật của Thiền lâm; gồm (1) hoa (華), (2) hương lô (香爐, lò hương), (3) chúc (燭, đèn nến), (4) thang (湯, nước nóng), (5) quả (果) và (6) trà (茶). Đối với Mật Tông, Lục Cúng cũng là pháp tu cúng dường căn bản, gồm (1) hoa (花), (2) linh (鈴), (3) thiêu hương (燒香, hương đốt), (4) phạn thực (飯食, thức ăn), (5) đồ hương (塗香, hương xoa), và (6) đăng minh (燈明, đèn). Sáu vật cúng này tượng trưng cho Sáu Trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp. Sáu vật này còn biểu tượng cho Lục Độ (s: ṣaḍ-pāramitā, ṣaṭ-pāramitā, 六度), tức Lục Độ Ba La Mật (六度波羅蜜), gồm Bố Thí Ba La Mật (s, p: dāna-pāramitā, 布施波羅蜜), Trì Giới Ba La Mật (s: śīla-pāramitā, p: sīla-pāramitā, 持戒波羅蜜), Nhẫn Nhục Ba La Mật (s: kṣānti-pāramitā, p: khantī-pāramitā, 忍辱波羅蜜), Tinh Tấn Ba La Mật (s: vīrya-pāramitā, p: virya-pāramitā, 精進波羅蜜), Thiền Định Ba La Mật (s: dhyāna-pāramitā, p: jhāna-pāramitā, 禪定波羅蜜) và Trí Tuệ Ba La Mật (s: prajñā-pāramitā, p: paññā-pāramitā, 智慧波羅蜜). Theo bài tán “Nhân duyên tự tánh sở xuất sanh, sở hữu chủng chủng vi diệu, hoa hương đăng đồ quả nhạc, phụng hiến Thượng Sư Tam Bảo tôn, duy nguyện từ bi ai nạp thọ (因緣自性所出生、所有種種微妙、華香燈塗果樂、上獻上師三寶尊、惟願慈悲納受, nhân duyên tự tánh vốn sanh ra, vốn có các thứ mầu nhiệm, hoa hương đèn dầu quả nhạc, dâng cúng Thượng Sư Tam Bảo trên, cúi xin từ bi thương thọ nhận)” vốn thường được dùng trong các buổi lễ Cúng Ngọ hay trong đàn Lục Cúng Hoa Đăng (六供華燈), được tìm thấy trong Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080), Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển Hạ, Du Già Diệm Khẩu Chú Tập Toản Yếu Nghi Quỹ (瑜伽燄口註集纂要儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1084) quyển Hạ, v.v.; Lục Cúng ở đây là hoa, hương, đèn, dầu, quả và âm nhạc. Như vậy, cho dầu định nghĩa về Lục Cúng có khác nhau đi chăng nữa, một số vật dâng cúng quan trọng không thể thiếu được như hoa quả, thức ăn, nước uống, đèn, hương, v.v. Như Mật Giáo giải thích về ý nghĩa và tầm quan trọng của 5 loại vật dâng cúng như sau:
(1) Hoa là tâm của chư Phật; khi hoa khai mở thì tượng trưng cho vạn đức mật vận (萬德密運, muôn đức âm thầm chuyển vận), là công đức viên mãn của chư Phật. Lấy hoa dâng cúng chư Phật tức là làm cho trang nghiêm tâm của chính mình.
(2) Hương là một loại thể giới tánh. Dùng hương dâng cúng các đấng Như Lai có nghĩa là trang nghiêm Giới Thể (戒體) của chính mình. Sự trang nghiêm của ngoại tướng kết hợp với sự trang nghiêm của nội tướng, hợp nhất thành trang nghiêm Năm Phần Pháp Thân.
(3) Đèn là ánh sáng chiếu soi của chư Phật, tức chính là trí tuệ nội tâm. Lấy hết thảy ánh sáng mà dâng cúng lên các đấng Như Lai thì sẽ được ánh sáng chiếu rọi khắp, ánh sáng cùng giao nhau, chiếu tận đến bờ bên kia của trí tuệ và hiển hiện công đức trang nghiêm của trí tuệ nội tâm.
(4) Trà bản nguyên là loại nước thanh tịnh, biểu thị cho Pháp Tánh (法性). Lấy trà dâng cúng Phật, tức là mười phương các đức Như Lai ứng hóa vào thân ta, dùng loại “nước thanh tịnh của Pháp Tánh” để trước rửa sạch khí bất tịnh của tự thân, biến thành Pháp Tánh Thân (法性身), Vô Cấu Thân (無垢身, thân không dơ bẩn) và trở thành trang nghiêm Pháp Tánh.
(5) Quả tượng trưng cho thức ăn, lấy sự viên mãn to lớn của thức ăn vi diệu biểu thị cho một loại viên thành. Loại Thiền ý có vị thù thắng như vậy, có nghĩa lý vô cùng thâm sâu; cho nên dâng cúng thức ăn và quy y chư Phật thì sẽ có được thiện quả, tượng trưng cho sự viên thành pháp vị. Đó là một loại “quả công đức trang nghiêm nội tâm.”
Trong Niệm Tụng Kết Hộ Pháp Phổ Thông Chư Bộ (念誦結護法普通諸部, Taishō Vol. 18, No. 904) có nêu một số câu thần chú khi dâng cúng các phẩm vật. Như Chơn Ngôn dùng cho hương đốt là: “Án bạt chiết la đỗ bệ a (唵跋折羅杜鞞阿).” Chơn Ngôn dùng cho rãi hoa là: “Án bạt chiết la bổ sắt bệ án (唵跋折羅補瑟鞞唵).” Chơn Ngôn dâng cúng đèn là: “Án bạt chiết la lô kế nễ (唵跋折羅盧計你).” Chơn Ngôn cho hương xoa là: “Án bạt chiết la kiền đề già (唵跋折羅犍提伽).” Trong Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Uy Nỗ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm Cúng Dường Niệm Tụng Nghi Quỹ Pháp Phẩm (聖賀野紇哩縛大威怒王立成大神驗供養念誦儀軌法品, Taishō Vol. 20, No. 1072A) có đoạn rằng: “Mỗi nhật thủ chủng chủng thời hoa tán đàn thượng, thiêu hương đồ hương đăng minh ẩm thực cập quả tử, gia trì phân bố tứ biên cúng dường, tùy lực sở biện trần thiết trang nghiêm, mỗi nhập đạo tràng kiền thành tác lễ, phát lộ sám hối tùy hỷ khuyến thỉnh hồi hướng phát nguyện (每日取種種時花散壇上、燒香塗香燈明飲食及果子、加持分布四邊供養、隨力所辦陳設莊嚴、每入道塲虔誠作禮、發露懺悔隨喜勸請迴向發願, mỗi ngày lấy các thứ hoa hiện thời rãi trên đàn, hương đốt, hương xoa, đèn sáng, thức ăn uống và bánh kẹo, gia trì phân chia bốn phía cúng dường, tùy sức bày biện, thiết trí trang nghiêm, mỗi khi vào đạo tràng thì chí thành đảnh lễ, phát lộ sám hối, tùy hỷ cung thỉnh, hồi hướng và phát nguyện).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Đại Trai Phổ Lợi Đạo Tràng Tánh Tướng Thông Luận (法界聖凡水陸大齋普利道塲性相通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1498) quyển 4 có nêu rõ 6 loại điệp cho Lục Cúng là: “Lục cúng điệp, hương nhất, hoa nhất, quả nhất, đồ nhất, tiểu thực nhất, pháp bảo nhất (六供牒、香一、華一、果一、塗一、小食一、法寶一, sáu loại điệp dâng cúng gồm hương một tờ, hoa một tờ, quả một tờ, đồ thoa một tờ, thức ăn một tờ, pháp bảo một tờ).” Trong Ư Mật Sấm Thí Thực Chỉ Khái (於密滲施食旨槩, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1082) lại có đoạn rằng: “Nhiên chư Phật tức ngã Hóa Thân, cố Quan Âm, phóng quang dĩ thỉnh chư Phật dã, Phật chí tắc thân Lục Cúng dĩ cúng dường chi, thử Phổ Hiền hạnh dã (然諸佛卽我化身、故觀音、放光以請諸佛也、佛至則伸六供以供養之、此普賢行也, như vậy chư Phật là Hóa Thân của ta, cho nên đức Quan Âm phóng hào quang để thỉnh chư Phật; khi Phật đến thì bày sáu món cúng mà cúng dường Ngài, đây là hạnh của đức Phổ Hiền).” Đàn Lục Cúng trong lòng văn Sớ nêu trên là Lục Cúng Hoa Đăng (六供華燈), một trong bộ ba của nghi thức Chạy Đàn: Lục Cúng, Khai Tịch và Bạt Độ (hay Chẩn Tế). Múa Lục Cúng Hoa Đăng là một điệu múa cổ xưa của Phật Giáo do các vị sư Ấn Độ truyền vào Việt Nam. Sau khi du nhập vào xứ Đàng Trong tại Thuận Hóa-Phú Xuân, được các vị Tổ sư trong chốn Thiền môn xứ Huế tiếp thu và phát triển lên đến đỉnh cao nghệ thuật, điệu múa Lục Cúng Hoa Đăng từ đó trở thành là một loại hình âm nhạc đặc thù của Phật Giáo xứ Huế. Điệu múa này được diễn múa theo sáu lần dâng cúng; tương ứng với mỗi lần cúng là một lễ vật cúng dường lên đức Phật gồm: hoa, hương, đèn, trà, quả, nhạc. Vì vậy môi trường diễn xướng của điệu múa này luôn được trình diễn trong những hoàn cảnh đặc biệt như lễ An Vị Phật, lễ Lạc Thành Chùa hay lễ hội, vía Phật. Hình thức này cũng được thể hiện với ý nghĩa nguyện cầu cho những người đã khuất giải thoát oan khiên trong các trai đàn Chẩn Tế, Giải Oan Bạt Độ, v.v. Do đó, điệu múa Lục Cúng Hoa Đăng tồn tại với thời gian theo sự phát triển của văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Đến thời vua Minh Mạng (1820-1840), Lục Cúng Hoa Đăng đã được tiếp thu và cải biên thành một loại hình âm nhạc cung đình, trở thành một điệu múa đặc sắc được lưu truyền cho đến ngày nay. Trong quá trình tiến hành Lục Cúng Hoa Đăng, có một số bài tán theo các điệu tán cổ xưa trong kho tàng âm nhạc Phật Giáo như tán trạo, tán rơi, tán xấp và có cả Thài—một điệu tán rất cổ xưa—để dâng cúng trong nghi lễ cúng Phật cũng như chư Tổ, như bài Nhân Duyên ở trên, hay bài La Liệt (羅列) được đề cập trong Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển Hạ: “La liệt hương hoa kiến bảo đàn, trùng trùng Phật cảnh nhất hào đoan, tâm dung diệu lí hư không tiểu, đạo khế chơn như pháp giới khoan, tướng hảo từ bi thu nguyệt mãn, hóa thân đằng xứ mộ vân phiền, hương yên đôi lí chiêm ứng hiện, vạn tượng sum la hải ấn hàm (羅列香花建寶壇、重重佛境一毫端、心融妙理虛空小、道契眞如法界寬、相好慈悲秋月滿、化身騰處暮雲繁、香煙堆裏瞻應現、萬象森羅海印含, la liệt hương hoa lập báu đàn, hàng hàng cảnh Phật sợi lông bằng, tâm thâu lí mầu hư không nhỏ, đạo hợp chơn như pháp giới tròn, tướng tốt từ bi trăng thu rọi, hóa thân khắp chốn mây chiều tan, trong làn mây khói chư Phật hiện, vạn pháp bao la biển trí hàm).” Hoặc bài Phật [Phù] Diện (佛面) được tìm thấy trong Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080), Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển Thượng, Du Già Diệm Khẩu Chú Tập Toản Yếu Nghi Quỹ (瑜伽燄口註集纂要儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1084) quyển Thượng, v.v.: “Phật diện do như tịnh mãn nguyệt, diệc như thiên nhật phóng quang minh, viên quang phổ chiếu ư thập phương, hỷ xả từ bi giai cụ túc (佛面猶如淨滿月、亦如千日放光明、圓光普照於十方、喜捨慈悲皆具足, mặt Phật giống như trăng tròn lắng, cũng như ngàn trời tỏa hào quang, ánh sáng chiếu khắp cõi mười phương, hỷ xả từ bi thảy đầy đủ)”, v.v.
(法臘、法臈): chỉ số năm thọ An Cư mùa Hạ của tăng sĩ sau khi thọ giới Cụ Túc; còn gọi là Pháp Tuế (法歲), Hạ Lạp (夏臘), Pháp Hạ (法夏), Giới Lạp (戒臘), Tăng Lạp (僧臘), Tọa Lạp (坐臘), Tọa Hạ Pháp Lạp (坐夏法臘). Thông thường trong tòng lâm, hằng năm từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 Âm Lịch, có tổ chức cử hành An Cư Kiết Hạ, lấy ngày cuối cùng làm ngày chấm dứt 1 năm, tức là ngày nhận thêm 1 tuổi. Cho nên, vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, sau khi thọ giới, đều có bổn phận tham gia An Cư Kiết Hạ, và đến khi kết thúc kỳ hạn đó, mỗi người đều được tăng thêm 1 tuổi, gọi là Hạ Lạp hay Pháp Lạp, v.v. Căn cứ vào tuổi Hạ ít nhiều mà lập ra Thượng Lạp (上臈), Trung Lạp (中臈) và Hạ Lạp (下臈), để phân định thứ tự lớn nhỏ, cao thấp. Vị cao tuổi nhất gọi là Nhất Lạp (一臘), Cực Lạp (極臘) hay Lạp Mãn (臘滿). Trong Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Hạ giải thích rõ rằng: “Hạ Lạp tức Thích thị pháp tuế dã; phàm tự trưởng ấu, tất vấn, Hạ Lạp đa giả vi trưởng (夏臘卽釋氏法歲也、凡序長幻、必問、夏臘多者爲長, Hạ Lạp là tuổi pháp của con dòng họ Thích [tu sĩ]; phàm muốn biết thứ tự lớn nhỏ, phải hỏi, người có Hạ Lạp nhiều là lớn hơn).” Trong Quảng Thanh Lương Truyện (廣清涼傳, Taishō Vol. 51, No. 2099) quyển Trung, phần Ngưu Vân Hòa Thượng Cầu Thông Minh (牛雲和尚求聰明) thứ 11, lại có đoạn: “Chí Đường Minh Hoàng Đế Khai Nguyên nhị thập tam niên, sư niên lục thập tam, Hạ Lạp tứ thập tứ, vô tật nhi chung (至唐明皇帝開元二十三年、師年六十三、夏臘四十四、無疾而終, đến năm thứ 23 [735] niên hiệu Khai Nguyên đời Minh Hoàng Đế nhà Đường, Hòa Thượng 63 tuổi, Hạ Lạp 44 năm, không tật bệnh gì mà ra đi).” Hay trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2061) quyển 16, phần Đường Cối Kê Khai Nguyên Tự Doãn Văn Truyện (唐會稽開元寺允文傳), cũng có đoạn: “Dĩ Trung Hòa nhị niên Nhâm Dần lục nguyệt nhị thập cửu nhật, vi tật tác nhi trường thệ, hưởng linh thất thập hữu bát, Pháp Lạp ngũ thập ngũ (以中和二年壬寅六月二十九日微疾作而長逝、享齡七十有八、法臘五十五, vào ngày 29 tháng 6 năm thứ 2 [882, đời vua Hy Tông nhà Đường] niên hiệu Trung Hòa, sư nhuốm bệnh nhẹ rồi ra đi luôn, hưởng thọ 78 tuổi, Pháp Lạp 55 năm).”
(請益): có ba nghĩa chính:
(1) Thỉnh cầu thầy giảng lại một đoạn văn hay một chương nào đó. Như trong Lễ Ký (禮記), phần Khúc Lễ (曲禮) có câu: “Thỉnh nghiệp tắc khởi, thỉnh ích tắc khởi (請業則起、請益則起, thỉnh cầu dạy thì phải đứng dậy, thỉnh cầu giảng lại cũng phải đứng dậy).” Hay trong Đường Quốc Sử Bổ (唐國史補) quyển Hạ của Lý Triệu (李肇, ?-?) nhà Đường có đoạn: “Hàn Dũ dẫn trí hậu tấn, vi cầu khoa đệ, đa hữu đầu thư thỉnh ích giả, thời nhân vị chi Hàn môn đệ tử (韓愈引致後進、爲求科第、多有投書請益者、時人謂之韓門弟子, Hàn Dũ hết mình hướng dẫn lớp đi sau, để cầu thi đỗ, có nhiều người đem sách đến xin giảng cho một đoạn, người đương thời gọi họ là môn đệ của Hàn Dũ).”
(2) Thỉnh cầu thêm nữa.
(3) Trong Thiền lâm, phần lớn học trò sau khi thọ giáo xong, vẫn có chỗ chưa rõ ràng, thấu triệt, nên lại đến cầu xin thầy chỉ giáo cho lần nữa; đó gọi là thỉnh ích. Về nguyên tắc thỉnh ích, trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 6, phần Thỉnh Ích có giải thích rõ rằng: “Phàm dục thỉnh ích giả, tiên bẩm Thị Giả, thông phú Trú Trì: 'Mỗ giáp Thượng Tọa kim vãn dục nghệ Phương Trượng thỉnh ích.' Như duẫn sở thỉnh, định chung hậu nghệ Thị Ty, hầu Phương Trượng bỉnh chúc trang hương, Thị Giả dẫn nhập Trú Trì tiền vấn tấn sáp hương, đại triển cửu bái, thâu Tọa Cụ tấn vân: 'Mỗ vi sanh tử sự đại, vô thường tấn tốc, phục vọng Hòa Thượng từ bi phương tiện khai thị.' Túc cung trắc lập đế thính thùy hối tất, tấn tiền sáp hương, đại triển cửu bái, vị chi tạ nhân duyên, tắc miễn xúc lễ, thứ nghệ thị ty Trí Tạ (凡欲請益者、先稟侍者、通覆住持、某甲上座今晚欲詣方丈請益、如允所請、定鍾後詣侍司、候方丈秉燭裝香、侍者引入住持前問訊插香、大展九拜、收坐具進云、某爲生死事大、無常迅速、伏望和尚慈悲方便開示、肅恭側立諦聽垂誨畢、進前插香、大展九拜、謂之謝因緣、免則觸禮、次詣侍司致謝, phàm có người xin chỉ giáo, trước thưa với Thị Giả để thông qua trước với vị Trú Trì rằng: 'Có Thượng Tọa … chiều nay muốn đến gặp Phương Trượng để xin thỉnh giáo.' Như được chấp thuận lời thỉnh cầu, sau khi cử chuông xong thì đến gặp người hầu cận, hầu Phương Trượng cầm đuốc dâng hương; Thị Giả dẫn vào trước mặt vị Trú Trì thưa hỏi, cắm hương lên, rồi lạy xuống chín lạy, gấp Tọa Cụ lại và thưa rằng: 'Con vì sanh tử chuyện lớn, vô thường chóng qua, cúi mong Hòa Thượng từ bi phương tiện khai thị.' Xong cung kính đứng qua một bên lắng nghe lời dạy xong, tiến về phía trước cắm hương, lạy xuống chín lạy, đó gọi là lạy nhân duyên; nếu được miễn thì chỉ vái thôi, tiếp theo đến gặp người hầu cận tạ lễ).” Cho nên, quy tắc thỉnh ích rất nghiêm cẩn. Trong các Ngữ Lục của Thiền Tông thường thấy xuất hiện rất nhiều ký lục liên quan đến việc thỉnh ích. Như trong Tục Chỉ Nguyệt Lục (續指月錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1579) quyển 4 có đoạn: “Lâm An Kính Sơn Vô Chuẩn Sư Phạm Thiền Sư, sanh ư Thục chi Tử Đồng Ung thị, cửu tuế xuất gia, trường du Thành Đô chi tọa hạ, thỉnh ích Tọa Thiền chi pháp ư lão túc Nghiêu Thủ Tòa (臨安徑山無準師範禪師、生於蜀之梓潼雍氏、九歲出家、長遊成都坐夏、請益坐禪之法於老宿堯首座, Thiền Sư Vô Chuẩn Sư Phạm ở Kính Sơn, Lâm An, sanh ra trong nhà họ Ung ở Tử Đồng nước Thục, năm 9 tuổi xuất gia, giao du thân mật với chư vị tăng An Cư Kiết Hạ ở Thành Đô, thỉnh giáo pháp môn Tọa Thiền với bậc lão túc Nghiêu Thủ Tòa).” Hay trong Vân Cốc Hòa Thượng Ngữ Lục (雲谷和尚語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1454) quyển Hạ có câu: “Tài đáo nhất sở tại, tu thị tiên thỉnh ích nhân duyên, phương hứa nhập thất (纔到一所在、須是先請益因緣、方許入室, mới đến một nơi nào, trước nên xin chỉ giáo nhân duyên, mới cho vào thất).”
(沉淪): chìm đắm, đắm chìm. Như trong Đoạn Trường Tân Thanh có câu: “Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.” Hay trong Đôn Hoàng Biến Văn Tập (敦煌變文集), Ôn Thất Kinh Giảng Xướng Áp Tọa Văn (溫室經講唱押座文), có đoạn: “Sanh tử hải trung cửu trầm luân, bất giác bất tri nghiệp lực dẫn, cấu chướng tiêu trừ kim đỗ Phật, quang chiếu tam thiên thế giới trung (生死海中久沉淪、不覺不知業力引、垢障消除今睹佛、光照三千世界中, trong biển sanh tử mãi đắm chìm, chẳng biết chẳng hay nghiệp lực kéo, tội chuớng tiêu trừ nay thấy Phật, ba ngàn thế giới tỏa hào quang).” Hay trong Long Hưng Biên Niên Thông Luận (隆興編年通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1512) quyển 29 lại có câu: “Thiết phương tiện dĩ cứu trầm luân, tri pháp giới chi khôi hoành, hành tinh tấn nhi nhiếp giải đãi (設方便以救沉淪、知法界之恢宏、行精進而攝懈怠, bày phương tiện để cứu đắm chìm, biết pháp giới là rộng lớn, hành tinh tấn mà trị lười biếng).” Hoặc trong Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi (瑜伽集要焰口施食儀, Taishō Vol. 21, No. 1320) cũng có câu: “Minh quan lộ diểu, khổ hải ba thâm, nhược phi mật chú chi công, hạt tiến trầm luân chi phách (冥關路渺、苦海波深、若非密咒之功、曷薦沉淪之魄, cõi âm nẻo tối, biển khổ sóng sâu, nếu không mật chú công năng, sao cứu đắm chìm hồn phách).”
(s: Dhṛta-rāṣṭra, p: Dhata-raṭṭha, 持國天): còn gọi là Trị Quốc Thiên (治國天), An Dân Thiên (安民天), Thuận Oán Thiên (順怨天); âm dịch là Đề Đầu Lại Tra (提頭賴吒), Trì Lê Đá A Ra Đá (持梨哆阿囉哆), Đề Đa La Tra (提多羅吒). Vị trời này thường hộ trì quốc độ, đem lại an vui cho chúng sanh; nên có tên là Trì Quốc Thiên (vị trời hộ trì đất nước), hay Đông Phương Thiên (東方天); là một trong 4 vị Thiên Vương, một trong 16 vị thiện thần. Vị này trú tại Càn Đà Sơn (乾陀山), nằm lưng chừng phía Đông Tu Di Sơn (s: Sumeru, 須彌山), giữ gìn quốc độ ở phương Đông. Đại Hội Kinh (大會經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Tripitaka Vol. 1, No. 1) quyển 12 cho biết rằng: “Phục hữu Đông phương Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương, lãnh Càn Đạp Hòa Thần, hữu đại uy đức, hữu cửu thập nhất tử, tận tự Nhân Đà La, giai hữu đại thần lực (復有東方提頭賴吒天王、領乾沓和神、有大威德、有九十一子、盡字因陀羅、皆有大神力, lại có Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương ở phương Đông, thống lãnh Càn Đạp Hòa Thần, có uy đức lớn, có chín mươi mốt người con, tất cả tên là Nhân Đà La, đều có thần lực lớn).” Về hình tượng của vị trời này, có nhiều thuyết bất đồng, Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 11 giải thích rằng Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương thân dài một khuỷu tay, mang các loại y trời, trang sức vô cùng tinh xảo, kỳ diệu, tương xứng với thân; tay trái vươn ra cầm cây đao, tay phải đưa ra phía trước, trong lòng bàn tay cầm châu báu, trên vật báu đó tỏa hào quang. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp (藥師琉璃光王七佛本願功德經念誦儀軌供養法, Taishō Tripitaka Vol. 19, No. 926) cho biết thêm rằng: “Đông phương Trì Quốc Đại Thiên Vương, kỳ thân bạch sắc trì Tỳ Bà, thủ hộ bát Phật Đông phương môn (東方持國大天王、其身白色持琵琶、守護八佛東方門, Trì Quốc Đại Thiên Vương ở phương Đông, thân người màu trắng cầm Tỳ Bà, giữ gìn tám Phật cửa phía Đông).” Trong Kim Cang Bộ Viện (金剛部院) ngoài Thai Tạng Giới Mạn Trà La (胎藏界曼荼羅) của Mật Giáo, vị trời này được liệt vào vị trí phía Nam của Đông môn.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập