Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tổ Đình Sự Uyển »»
(八紘): hay Bát Huyền. Hoành (紘), đồng nghĩa với chữ duy (維), nghĩa là phương, góc. Thời cổ đại, người ta xem Bát Hoành là thiên hạ. Trong Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1261) quyển 3 có giải thích rõ rằng: “Hoài Nam Tử vân: 'Thiên hữu Cửu Bộ Bát Kỷ, địa hữu Cửu Châu Bát Quế; Cửu Châu chi ngoại hữu Bát Duyên, Bát Duyên chi ngoại hữu Bát Hoành; Đông Bắc phương chi hoành viết Hoang Thổ; Đông phương chi hoành viết Tang Dã; Đông Nam phương chi hoành viết Chúng An; Nam phương chi hoành viết Phản Hộ; Tây Nam phương chi hoành viết Hỏa Thổ; Tây phương chi hoành viết Ốc Dã; Tây Bắc phương chi hoành viết Sa Sở; Bắc phương chi hoành viết Ủy Vũ; cố viết tứ phương tứ giác vị chi Bát Hoành. Bát Hoành chi ngoại hữu Bát Cực; hựu Cửu Di, Bát Địch, Thất Nhung, Lục Man, vị chi Tứ Hải' (淮南子云、天有九部八紀、地有九州八桂、九州之外有八埏、八埏之外有八紘、東北方之紘曰荒土、東方之紘曰桑野、東南方之紘曰眾安、南方之紘曰反戶、西南方之紘曰火土、西方之紘曰沃野、西北方之紘曰沙所、北方之紘曰委羽、故曰四方四角謂之八紘、八紘之外有八極、又九夷、八狄、七戎、六蠻、謂之四海, Hoài Nam Tử cho rằng: 'Trời có Chín Bộ Tám Kỷ, đất có Chín Châu Tám Quế; ngoài Chín Châu có Tám Duyên, ngoài Tám Duyên có Tám Hoành; góc phương Đông Bắc gọi là Hoang Thổ; góc phương Đông gọi là Tang Dã; góc phương Đông Nam gọi là Chúng An; góc phương Nam gọi là Phản Hộ; góc phương Tây Nam gọi là Hỏa Thổ; góc phương Tây gọi là Ốc Dã; góc phương Tây Bắc gọi là Sa Sở; góc phương Bắc gọi là Ủy Vũ; cho nên bốn phương bốn góc được gọi là Tám Hoành. Ngoài Tám Hoành lại có Tám Cực; và Chín Di, Tám Địch, Bảy Nhung, Sáu Man được gọi là Bốn Biển').” Trong bài Đề Phi Vân Đình (題披雲亭) của Hy Tẩu Thiệu Đàm Thiền Sư Quảng Lục (希叟紹曇禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1390), quyển 8 có đoạn: “Đại địa hắc man man, nhật nguyệt cửu thao thao, sơn đằng liêu nhất huy, thần dữ cảnh tương hội, Bát Hoành tịnh vô trần, vạn tượng kính trung ế, thiên ngoại xuất đầu khán, tiếu phách lan can toái (大地黑漫漫、日月久韜韜、山藤聊一揮、神與境相會、八紘淨無塵、萬象鏡中翳、天外出頭看、笑擘闌干碎, đại địa tối mù mịt, trời trăng dài mênh mông, dây leo buồn rũ cánh, thần với cảnh gặp nhau, đất trời không gợn bẩn, muôn vật ảnh trong kính, ngoài trời thò đầu ngắm, cười chẻ lan can vụn).” Hay trong Hoằng Trí Thiền Sư Quảng Lục (宏智禪師廣錄, Taishō Vol. 48, No. 2001) cũng có câu: “Nhất ngôn tận thập phương, vạn quyển cai bất đắc, nhất bộ châu Bát Hoành, tứ mã truy bất cập (一言盡十方、萬卷該不得、一步周八紘、駟馬追不及, một lời khắp mười phương, muôn quyển thâu chẳng được, một bước vòng tám hướng, ngựa hay đuổi không kịp).” Trong Thiền môn, vào thời khóa Lạy Thù Ân Chúc Tán, thường có xướng câu: “Bát Huyền an hữu đạo chi trường, Tứ Hải lạc vô vi chi hóa (八紘安有道之長、四海樂無爲之化, Tám Phương yên có đạo trường tồn, Bốn Biển vui vô vi chuyển hóa).” Đặc biệt trong Đệ Nhị Thế Chiến, quân đội của Nhật Hoàng có dùng khẩu hiệu “Bát Hoành nhất vũ (八紘一宇, thế giới một nhà).” Cụm từ này được tìm thấy trong điều Thần Võ Thiên Hoàng (神武天皇), quyển 3 của Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshoki): “Yểm Bát Hoành nhi vi vũ (掩八紘而爲宇, che tám phương mà làm nhà).”
(藥石, yakuseki): nghĩa là thuốc chữa bệnh và cây kim bằng đá, tức y dược và đồ dùng trị bệnh. Trong La Hán Dược Thực Điều (羅漢藥食條) của Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑) có đoạn rằng: “Thực đương tác thạch, thủ liệu bệnh nghĩa, cố viết dược thạch (食當作石、取療病義、故曰藥石, thức ăn nên xem như đá, với nghĩa để trị bệnh, cho nên gọi là viên đá thuốc)”. Từ này còn gọi là dược thực (藥食, thức ăn thuốc), tức bữa ăn chiều trong Thiền môn. Đức Phật quy định rằng các Tỳ Kheo không được ăn quá ngọ, cho nên các tự viện Thiền Tông gọi bữa ăn chiều là dược thạch (藥石, viên đá thuốc) và đó cũng là ẩn ngữ của buổi ăn tối. Hơn nữa, căn cứ vào tích xưa có vị tăng mỗi ngày chỉ ăn 2 bữa mà thôi, nhưng đến mùa đông lạnh giá, đến buổi chiều tối vị này thường lấy khối đá hâm nóng bỏ trên bụng mình để chống lạnh và trị cơn đói, như là linh đơn có thể trị các bệnh về đường ruột, cho nên đời sau người ta thường gọi bữa ăn thứ 3 trong 1 ngày là dược thạch. Trong phần Đạt Ma Kỵ (達摩忌) của Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規) 2 có đoạn rằng: “Tất minh Tăng Đường chung tam hạ, chúng tán hoặc thỉnh tựu tọa dược thạch (畢鳴僧堂鐘三下、眾散或請就坐藥石, sau khi đánh ba tiếng chuông ở Tăng Đường xong, đại chúng phân tán hay mời ngồi dùng cơm chiều).”
(六和): còn gọi là Lục Úy Lao Pháp (六慰勞法), Lục Khả Hỷ Pháp (六可憘法), Lục Hòa Kính (六和敬); chỉ cho 6 loại hòa đồng ái kính, 6 pháp môn một hành giả Phật Giáo Đại Thừa cầu đạo bồ đề, tu Phạm hạnh cần phải kính trọng, yêu thương lẫn nhau; gồm: (1) Thân Hòa Kính (身和敬): chỉ cho thân nghiệp cùng lễ lạy, v.v., thường hòa kính nhau. (2) Khẩu Hòa Kính (口和敬): chỉ cho khẩu nghiệp cùng tán tụng, v.v., thường hòa kính nhau. (3) Ý Hòa Kính (意和敬): chỉ cho ý nghiệp cùng tín tâm, v.v., thường hòa kính nhau. (4) Giới Hòa Kính (戒和敬): chỉ sự hòa kính cùng giới pháp. (5) Kiến Hòa Kính (見和敬): chỉ cho sự hòa kính cùng kiến giải của trí tuệ bậc Thánh. (6) Lợi Hòa Kính (利和敬): chỉ cho sự hòa kính cùng lợi ích về y phục, thức ăn, v.v. Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章, Taishō Vol. 44, No. 1851) quyển 12 còn nêu ra 6 loại hòa kính khác như: (1) Thân Nghiệp Đồng (身業同); (2) Khẩu Nghiệp Đồng (口業同); (3) Ý Nghiệp Đồng (意業同); (4) Đồng Giới (同戒); (5) Đồng Thí (同施); (6) Đồng Kiến (同見). Bên cạnh đó, Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1261) quyển 5 lại nêu ra Lục Hòa là: (1) Thân Hòa Cọng Trú (身和共住, thân hòa hợp cùng sống với nhau); (2) Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍, miệng hòa hợp không tranh cãi nhau); (3) Ý Hòa Đồng Sự (意和同事, ý hòa hợp cùng nhau làm việc); (4) Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修, giới hòa hợp cùng nhau tu tập); (5) Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解, hiểu biết hòa hợp cùng nhau chia xẻ); (6) Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均, lợi ích hòa hợp cùng nhau chia đều). Ngoài ra Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn (法界次第初門, Taishō Vol. 46, No. 1925) quyển Hạ cũng liệt kê 6 pháp hòa kính là: (1) Đồng Giới Hòa Kính (同戒和敬); (2) Đồng Kiến Hòa Kính (同見和敬); (3) Đồng Hạnh Hòa Kính (同行和敬); (4) Thân Từ Hòa Kính (身慈和敬); (5) Khẩu Từ Hòa Kính (口慈和敬); và (6) Ý Từ Hòa Kính (意慈和敬). Trong Hoa Nghiêm Cương Yếu (華嚴綱要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 8, No. 240 q.18) quyển 18 có đoạn: “Phục thứ tất năng xưng tán nhất thiết đại nguyện, thị cố năng linh Phật chủng bất đoạn, phân biệt diễn thuyết nhân duyên chi môn, thị cố năng linh Pháp chủng bất đoạn, thường cần tu Lục Hòa Kính Pháp, thị cố năng linh Tăng chủng bất đoạn (復次悉能稱讚一切大願、是故能令佛種不斷、分別演說因緣之門、是故能令法種不斷、常勤修習六和敬法、是故能令僧種不斷, tiếp theo tất có thể xưng tán hết thảy đại nguyện, cho nên có thể khiến cho hạt giống Phật không dứt đoạn; phân biệt diễn thuyết cửa nhân duyên, cho nên có thể khiến cho hạt giống Pháp không dứt đoạn; thường siêng năng tu sáu pháp hòa kính, cho nên có thể khiến cho hạt giống Tăng không dứt đoạn).” Hay trong Viên Giác Kinh Đạo Tràng Tu Chứng Nghi (圓覺經道塲修證儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1475) quyển 15, phần (至心發願), cũng có đoạn: “Nguyện ngã thường đắc hiến tối hậu cúng, ư chúng tăng trung, tu Lục Hòa Kính, đắc tự tại lực, hưng long Tam Bảo (願我常得獻最後供、於眾僧中、修六和敬、得自在力、興隆三寶, nguyện cho con thường được dâng hiến món cúng dường cuối cùng, trong chúng tăng tu Sáu Pháp Hòa Kính, được năng lực tự tại, hưng thịnh Tam Bảo).”
(睦庵善卿, Bokuan Zenkyō, thế kỷ thứ 12-13): hiệu là Mục Am (睦庵), họ Trần (陳), xuất thân vùng Đông Việt (東越, Tỉnh Phúc Kiến). Sau một thời gian du phương hóa đạo, ông trở về cố hương nuôi dưỡng mẹ. Năm thứ 2 (1108) niên hiệu Đại Quán (大觀), ông soạn bộ Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑, Soteijien).
(入室, nyūshitsu): thông thường từ này có nghĩa là vào trong thất hay căn phòng, nhưng đối với Thiền Tông thì có nghĩa là người đệ tử đã tham học lâu năm mới được phép vào trong thất riêng của Thầy để thọ nhận những lời giáo chỉ, huấn thị ân cần, hay để hỏi đạo. Cho nên người mới đến tham học thì không được vào thất Thầy. Ngày xưa không có quy chế rõ rệt nào đối với việc nhập thất, vì tùy theo cơ duyên, thời tiết, căn cơ mà cho đệ tử nhập thất. Nhưng từ sau thời Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一, 709-788), Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海, 749-814) trở đi, bắt đầu có quy định rõ ràng, có ngày nhất định để tiến hành nhập thất. Ngoài đời cho rằng đắc được pháp của Thầy tức là đệ tử nhập thất; tuy nhiên nếu bảo là người nhập thất thì người đó chưa hẳn đã đắc được pháp của Thầy. Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑) quyển 8 có đoạn rằng: “Tổ Sư truyện vân: 'Ngũ Tổ Đại Sư chí dạ, mật lịnh thị giả ư Đối Phường chiêu Lô hành giả nhập thất, toại truyền y pháp.' (祖師傳云、五祖大師至夜、密令侍者於碓坊召盧行者入室、遂傳衣法, Tổ Sư truyện kể rằng: 'Đến đêm Ngũ Tổ Đại Sư lén ra lịnh cho thị giả đến Đối Phường mời Lô hành giả nhập thất, bèn truyền cho y pháp').” Trong Kinh Pháp Hoa cũng có câu: “Trước Như Lai y, nhập Như Lai thất (著如來衣、入如來室, mặc y của Như Lai, vào thất của Như Lai).” Lại trong A Hàm Kinh (阿含經) cũng có dạy rằng: “Phật cáo Bí Sô, ngô lưỡng nguyệt dục yến tọa, những đẳng bất tu tham vấn, duy trừ tống thực cập sái địa thời khả chí ư thử; ưng tri Phật Tổ đương thời hữu nhập thất chi nghi dã (佛告苾芻、吾兩月欲宴坐、汝等不須參問、唯除送食及灑地時可至於此、應知佛祖當時有入室參問之儀也, Phật bảo các Tỳ Kheo, ta muốn ở yên trong hai tháng, các người không nên đến tham vấn, chỉ trừ khi cúng dường thức ăn và rưới nước trên đất thì có thể đến nơi đây; vậy nên biết rằng đương thời Phật Tổ đã có nghi nhập thất tham vấn rồi).” Trong phần Nhập Thất (入室) của Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修清規) có giải thích rằng: “Nhập thất giả, sư gia khám biện học tử, sách kỳ vị chí, đảo kỳ hư kháng, công kỳ thiên trọng (入室者、師家勘辯學子、策其未至、擣其虛亢、攻其偏重, người nhập thất là học trò được vị Thầy xem xét, làm rõ, giúp hoàn thành điều trò chưa đạt đến, lấp lổ hỏng của trò, phá tan chỗ thiên chấp của trò).” Trong Hưng Thiền Hộ Quốc Luận (興禪護國論, Gōzengokokuron), Minh Am Vinh Tây (明庵榮西, Myōan Eisai, 1141-1215), vị tổ sư khai sáng Lâm Tế Tông Nhật Bản, có dạy rằng: “Nhập thất vị ngộ Hòa Thượng gian hà chi nhật kiến lập chi, thử Tông nhất đại sự dã (入室謂遇和尚間暇之日建立之、此宗一大事也, nhập thất là gặp ngày Hòa Thượng rảnh rang mà lập nên, là việc trọng đại của Tông này).” Riêng đối với Mật Giáo, có thất riêng dùng làm cho lễ Quán Đảnh; cho nên nhập thất có nghĩa là vào trong thất thọ nhận phép Quán Đảnh.
(曹溪[谿]): tên địa danh và cũng là thánh địa của Thiền Tông Trung Quốc, tọa lạc tại Huyện Khúc Giang (曲江縣), Thiều Châu (韶州, thuộc Tỉnh Quảng Đông [廣東省]). Trong Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑), phần Vân Môn Lục (雲門錄), Tào Khê (曹溪) có giải thích rằng: “Đường Nghi Phụng trung, cư nhân Tào Thục lương thí địa, Lục Tổ Đại Sư cư chi địa, hữu Song Phong đại khê, nhân Tào Hầu chi tánh, vị Tào Khê (唐儀鳳中、居人曹淑良施地、六祖大師居之地、有雙峰大溪、因曹候之姓、謂曹溪, trong khoảng niên hiệu Nghi Phụng [676-678] nhà Đường, có người tên Tào Thục dâng cúng đất, là vùng đất Lục Tổ Đại Sư cư trú, có khe nước lớn Song Phong, nhân vì quan họ Tào, nên gọi là Tào Khê [khe họ Tào]).” Vào năm đầu (502) niên hiệu Thiên Giám (天監) nhà Lương, có vị tăng người Bà La Môn ở Thiên Trúc tên Tam Tạng Trí Dược (三藏智藥) đến ngay tại cửa khẩu Tào Khê, uống ngụm nước dòng suối này, biết đây là thánh địa đầu nguồn, bèn khuyên dân chúng trong vùng kiến lập một ngôi chùa, giống với Bảo Lâm Sơn (寶林山) ở phương Tây, lấy tên là Bảo Lâm Tự (寶林寺); rồi vị quan Châu Mục vùng Thiều Châu là Kính Trung (敬中) dâng sớ lên triều đình; và vào năm thứ 3 (504) cùng niên hiệu trên thì chùa được ban sắc ngạch. Sau đó, Trí Dược đăng đàn thuyết pháp tại đây và tiên đoán rằng người tu tập đắc đạo sẽ đông như cây cối trong rừng. Sau 173 năm, vào năm thứ 2 (677) niên hiệu Thiên Giám, sau khi đắc pháp với Hoằng Nhẫn (弘忍), Lục Tổ Huệ Năng (六祖慧能) xuống tóc, thọ Cụ Túc giới với Pháp Sư Ấn Tông (印宗); rồi trở về Bảo Lâm Tự, được Trần Á Tiên (陳亞仙) dâng cúng thêm đất, nên xây dựng thành một ngôi già lam với 13 khu vực rộng lớn. Đó chính là Hoa Quả Viện (花果院), hay Nam Hoa Tự (南華寺). Ngoài ra, Tào Khê còn là tên gọi khác của Lục Tổ Huệ Năng; cho nên Đại Sư được tôn xưng là Tào Khê Cổ Phật (曹溪古佛), Tào Khê Cao Tổ (曹溪高祖). Trong Thiền Tông thường có thuật ngữ Tào Khê Nhất Trích (曹溪一滴, một giọi nước Tào Khê). Đây là tên tác phẩm do Nhất Triệt Châu Lý (一徹周理) nhà Minh biên, 9 quyển, bản san hành đầu tiên vào năm thứ 9 (1636) niên hiệu Sùng Trinh (崇貞). Trong quyển 1 Tào Khê Nhất Trích có lời tựa của Vô Học Cư Sĩ Đào Hồng (無學居士陶珙) ở phần mạo đầu, lời dẫn của Qua Duẫn Lễ (戈允禮), có thâu lục cơ ngữ của 24 Thiền giả và cơ ngữ ứng hóa của 19 bậc Thánh. Căn cứ vào bài kệ “Bồ Đề bổn vô thọ, minh kính diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai (菩提本無樹、明鏡亦非、本來無一物、何處惹塵埃, Bồ Đề vốn không gốc, kính sáng cũng chẳng đài, xưa nay chẳng một vật, chỗ nào nhuốm trần ai)” của Lục Tổ Huệ Năng, xuất hiện thuật ngữ “Tào Khê kính lí tuyệt trần ai (曹溪鏡裏絕塵埃, trong gương Tào Khê sạch bụi trần).” Như trong Bích Nham Lục (碧巖錄) 5 có câu: “Ngưu Đầu một Mã Đầu hồi, Tào Khê kính lí tuyệt trần ai (牛頭沒、馬頭回、曹溪鏡裏絕塵埃, Ngưu Đầu mất, Mã Đầu còn, trong gương Tào Khê sạch bụi trần).” Trong Thiền môn thường có bài tán Tào Khê như sau: “Tào Khê thủy, nhất phái hướng Đông lưu, Quan Âm bình nội trừ tai cữu, Đề Hồ quán đảnh địch trần cấu, dương chi sái xứ nhuận tiêu khô, yếu hầu trung Cam Lồ, tự hữu quỳnh tương thấu. Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát (曹溪水、一派向東流、觀音瓶內除災咎、醍醐灌頂滌塵垢、楊枝洒處潤消枯、咽喉中甘露、自有瓊漿透。南無香雲蓋菩薩, Tào Khê nước, một dòng hướng Đông trôi, trong bình Quan Âm trừ tai tội, Đề Hồ rưới đầu sạch trần cấu, nhành dương rưới khắp sống cây khô, trong cổ nhuần Cam Lồ, tự tuôn trào thấm. Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát).”
(十聖三賢): Thập Thánh là những vị Bồ Tát thuộc giai vị từ Sơ Địa (初地), tức Hoan Hỷ Địa (s: pramudhitā-bhūmi, 歡喜地), đến Thập Địa (十地), tức Pháp Vân Địa (s: dharmameghā-bhūmi, 法雲地). Tam Hiền là những Bồ Tát thuộc giai vị của Thập Trụ (十住), Thập Hạnh (十行) và Thập Hồi Hướng (十迴向). Như trong Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1261) quyển 8 có định nghĩa rằng: “Tam Hiền Thập Thánh, Hoa Nghiêm minh Thập Trú, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng vi hiền; Thập Địa vi thánh, Diệu Giác vi Phật. Thập Thánh giả, tức Thập Địa thánh nhân; nhất Hoan Hỷ, nhị Ly Cấu, tam Phát Quang, tứ Diệm Huệ, ngũ Nan Thắng, lục Hiện Tiền, thất Viễn Hành, bát Bất Động, cửu Thiện Huệ, thập Pháp Vân. Niết Bàn vân: 'Bồ Tát vị giai Thập Địa, thượng bất năng liễu liễu tri kiến Phật tánh, hà huống Thanh Văn, Duyên Giác chi nhân năng đắc tà kiến; thí như túy nhân dục thiệp viễn lộ, mông lung kiến đạo; Thập Địa Bồ Tát ư Như Lai tri kiến thiểu phân, diệc phục như thị' (三賢十聖、華嚴明十住、十行、十回向爲賢、十地爲聖、妙覺爲佛、十聖者、即十地聖人、一歡喜、二離垢、三發光、四焰慧、五難勝、六見前、七遠行、八不動、九善慧、十法雲、涅槃云、菩薩位階十地、尚不能了了知見佛性、何況聲聞、緣覺之人能得見邪、譬如醉人欲涉遠路、蒙籠見道、十地菩薩於如來知見少分、亦復如是, Ba Hiền Mười Thánh, Kinh Hoa Nghiêm cho biết rõ rằng Mười Trụ, Mười Hạnh và Mười Hồi Hướng là hiền; Mười Địa là thánh, Diệu Giác là Phật. Mười Thánh, tức thánh nhân của Mười Địa; một là Hoan Hỷ, hai Ly Cấu, ba Phát Quang, bốn Diệm Huệ, năm Nan Thắng, sáu Hiện Tiền, bảy Viễn Hành, tám Bất Động, chín Thiện Huệ và mười là Pháp Vân. Kinh Niết Bàn dạy rằng: 'Bồ Tát đang ở giai vị Mười Địa còn không thể liễu ngộ tri kiến Phật tánh, huống gì hạng người Thanh Văn, Duyên Giác tất có thể bị tà kiến; giống như người say muốn vượt con đường xa, thấy đường quờ quạng, Bồ Tát của Mười Địa ít phân biệt được tri kiến của Như Lai, cũng giống như vậy').” Trong Thiền Môn Bảo Tạng Lục (禪門寶藏錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1276) có câu rằng: “Chúng sanh nhược nhất niệm bất sanh, tức đồng chư Phật, hựu Sơ Địa tức Phật Địa, Tam Hiền Thập Thánh do như không trung điểu tích (眾生若一念不生、卽同諸佛、又初地卽佛地、三賢十聖猶如空中鳥跡, nếu chúng sanh một niệm không sanh, tức cùng với chư Phật, và Sơ Địa tức là Phật Địa, Ba Hiền Mười Thánh cũng giống như dấu viết chim trong hư không).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập