Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. (You may delay, but time will not.)Benjamin Franklin
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tổ ấn »»
(古心如磬, Koshin Nyokei, 1541-1615): vị tăng Luật Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Minh, tổ của Phái Cổ Lâm (古林派), xuất thân Lật Thủy (溧水), Giang Tô (江蘇), họ Dương (楊), tự là Cổ Tâm (古心). Lúc còn nhỏ tuổi, ông đã mất cha, được mẹ nuôi khôn lớn. Vào năm thứ 31 (1552) niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖), mẹ lại qua đời, ông cảm nhận được lý vô thường của cuộc đời, nên đến năm thứ 10 (1582, có thuyết cho là trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Tĩnh) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), ông theo xuất gia với Tố An (素安) ở Thê Hà Tự (棲霞寺), Nhiếp Sơn (攝山). Sau nhân đọc Phẩm Trú Xứ Bồ Tát trong Kinh Hoa Nghiêm, ông thệ nguyện thọ giới với Bồ Tát Văn Thù (文殊), bèn đến Ngũ Đài Sơn (五臺山), suốt đêm thành tâm cầu nguyện. Cho đến một hôm, trong khi hoảng hốt, ông được một lão bà ban cho y Tăng Già Lê (僧伽黎), nhìn thấy ra là Bồ Tát, liền đốn ngộ pháp môn tâm địa của 5 thiên, 3 tụ, cảm thấy luật của Đại Thừa và Tiểu Thừa đều từ trong ngực lưu xuất ra. Giữa đường khi trở về cố hương, ông đi qua Nam Kinh (南京), tình cờ gặp lúc ngôi tháp ở Trường Can Tự (長干寺, tức Báo Ân Tự [報恩寺]) đang được tu sửa, ông lưu trú tại đây và được gọi là Ưu Ba Ly (優波離) tái lai. Ông từng sống qua các chùa như Linh Cốc (靈谷), Thê Hà (棲霞), Cam Lồ (甘露), v.v.; khai đàn truyền giới hơn 30 nơi, và có khoảng hơn vạn người theo thọ giáo với ông. Vào năm thứ 41 (1613) niên hiệu Vạn Lịch, vua Thần Tông ban cho ông Tử Y, bình bát, tích trượng với hiệu là Huệ Vân Luật Sư (慧雲律師), và mời ông thiết lập Đại Hội Long Hoa (龍華大會) tại Thánh Quang Vĩnh Minh Tự (聖光永明寺) trên Ngũ Đài Sơn. Trước tác của ông có Kinh Luật Giới Tướng Bố Tát Quỹ Nghi (經律戒相布薩軌儀) 1 quyển. Ông thị tịch vào tháng 11 năm thứ 43 niên hiệu Vạn Lịch, hưởng thọ 75 tuổi. Pháp hệ của ông được gọi là Phái Cổ Lâm.
(一山一寧, Issan Ichinei, 1247-1317): vị tổ của Phái Nhất Sơn (一山派) thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, người vùng Đài Châu (台州, Tỉnh Triết Giang), họ là Hồ (胡), hiệu là Nhất Sơn (一山). Lúc còn nhỏ, ông theo làm đệ tử của Vô Đẳng Dung (無等融) ở Hồng Phước Tự (鴻福寺) thuộc vùng Phù Sơn (浮山), Đài Châu, rồi sau đó thọ giới với Xử Khiêm (處謙) ở Phổ Quang Tự (普光寺). Kế đến ông theo học Luật ở Ứng Chơn Tự (應眞寺), học Thiên Thai ở Diên Khánh Tự (延慶寺), sau ông quay trở về với Thiền Tông. Ông lên Thiên Đồng Sơn (天童山) tham vấn khắp chư vị tôn túc như Giản Ông Cư Kính (簡翁居敬), Tạng Tẩu Thiện Trân (藏叟善珍), ở Dục Vương Sơn (育王山), Đông Tẩu Khải (東叟愷), Tịch Song Hữu Chiếu (寂窻有照), Ngoan Cực Hành Di (頑極行彌) ở Tịnh Từ Tự (淨慈寺), và cuối cùng kế thừa dòng pháp của Hành Di. Sau đó, ông đến trú tại Tổ Ấn Tự (祖印寺) thuộc vùng Tứ Minh (四明), rồi Phổ Đà Sơn (普陀山). Vào năm thứ 3 (1299) niên hiệu Đại Đức (大德), ông được vua nhà Nguyên là Thành Tông ban cho hiệu là Diệu Từ Hoằng Tế Đại Sư (妙慈弘濟大師), rồi được bổ nhiệm là cai quản toàn bộ tôn giáo ở vùng Triết Giang. Vào tháng 8 cùng năm này, theo lời mời của Tây Giản Tử Đàm (西礀子曇) và Thạch Lương Nhân Cung (石梁仁恭), ông đến Thái Tể Phủ Nhật Bản. Lúc bấy giờ, người chấp quyền là Tướng Quân Bắc Điều Trinh Thời (北條貞時, Hōjō Sadatoki) mới nghi ngờ ông là mật thám của nhà Nguyên, nên bắt ông giam ở Tu Thiền Tự (修禪寺) vùng Y Đậu (伊豆, Izu). Sau đó, biết được ông là một vị danh tăng nên Trinh Thời thỉnh ông đến trú trì Kiến Trường Tự (建長寺), nhưng rồi ông lại chuyển đến Viên Giác Tự (圓覺寺) cũng như Tịnh Trí Tự (淨智寺). Vào năm thứ 2 (1313) niên hiệu Chánh Hòa (正和), theo sắc chỉ của Hậu Vũ Đa Thượng Hoàng (後宇多上皇), ông được thỉnh đến làm vị tổ thứ 3 của chùa này. Chúng đạo tục lúc bấy giờ mới tập trung đến mà tham học với ông; vì không chịu nỗi tình trạng tiếp khách đông đảo như vậy, nên ông đã xin Thượng Hoàng cho lui về ẩn cư, nhưng không được phép. Đến tháng 9 năm đầu (1317) niên hiệu Văn Bảo (文保), ông ngọa bệnh ở chùa này, được Thượng Hoàng đích thân đến vấn an thăm hỏi, và đến ngày 24 tháng 10 cùng năm thì viên tịch, hưởng thọ 71 tuổi. Bài kệ để lại của ông là “Hoành hành nhất thế, Phật tổ thôn khí, tiễn dĩ ly huyền, hư không trụy địa (横行一世、佛祖呑氣、箭巳離弦、虛空墜地, tung hoành một đời, Phật Tổ nuốt khí, tên đã rời dây, hư không xuống đất).” Thượng Hoàng ban cho ông thụy hiệu là Nhất Sơn Quốc Sư (一山國師). Đệ tử nối dòng pháp của ông có Thạch Lương Nhân Cung (石梁仁恭), Vô Trước Lương Duyên (無著良緣), Vô Cảm Lương Khâm (無感良欽), Vô Tướng Lương Chơn (無相良眞), Tuyết Thôn Hữu Mai (雪村友梅), Văn Khê Lương Thông (文溪良聰), Đông Lâm Hữu Kheo (東林友丘), v.v. Trước tác của ông có Nhất Sơn Quốc Sư Ngữ Lục (一山國師語錄).
(一山國師妙慈弘濟大師語錄, Issankokushimyōjikōsaidaishigoroku): còn gọi là Nhất Sơn Nhất Ninh Quốc Sư Ngữ Lục (一山一寧國師語錄), Nhất Sơn Ninh Hòa Thượng Ngữ Lục (一山寧和尚語錄), Nhất Sơn Quốc Sư Ngữ Lục (一山國師語錄), Ninh Nhất Sơn Lục (寧一山語錄), 2 quyển, là bộ ngữ lục hoằng pháp do Nhất Sơn Nhất Ninh soạn thuật, và nhóm thị giả Liễu Chơn (了眞) biên tập. Vì bộ này được khai bản ở Đại Vân Am (大雲庵) nên nó còn được gọi là Đại Vân Lục (大雲錄), được thâu lục vào trong quyển thứ 80 của Đại Chánh Tạng (Taishō). Đây là bộ ngữ lục thâu tập các lời dạy khi thượng đường của Nhất Sơn từ khi ông sống tại Ngao Phong Sơn Tổ Ấn Tự (鰲峰山祖印寺) vùng Tứ Minh (四明), Bảo Đà Quan Âm Thiền Tự (寳陀觀音禪寺) ở Phủ Khánh Nguyên (慶元府) bên Trung Quốc cho đến Kiến Trường Tự (建長寺), Viên Giác Tự (圓覺寺), Tịnh Trí Tự (淨智寺), Nam Thiền Tự (南禪寺), của Nhật Bản, kèm theo một số tiểu tham, pháp ngữ, niêm cổ, tụng cổ, kệ tụng, tán Phật tổ, tự tán, tiểu Phật sự, hành ký, v.v.
(蟾光): tức chỉ cho ánh sáng mặt trăng, vì trong văn hóa cổ đại của Trung Quốc thường lấy con thiềm thừ (蟾蜍, con cóc) để thay thế cho mặt trăng. Cho nên cổ nhân thường dùng từ “ngân thiềm quang mãn (銀蟾光滿, trăng bạc sáng tròn).” Đạo Giáo Trung Quốc dùng chữ thiềm quang để chỉ cho huệ quang (慧光, ánh sáng trí tuệ); còn Khí Công thì chỉ cho ánh sáng vàng ròng. Trong bài thơ Khê Thượng Nguyệt (溪上月) của thi tăng Kiểu Nhiên (皎然, ?-?) nhà Đường có câu: “Thiềm quang tán phố tự, tố ảnh động luân liên (蟾光散浦溆、素影動淪漣, ánh trăng tan bến nước, bóng trắng động sóng chìm).” Hay như trong bài từ Tình Cửu Trường (情久長) của Lữ Vị Lão (呂渭老, ?-?) nhà Tống có đoạn: “Tuế hoa mộ, thiềm quang xạ tuyết, bích ngõa phiêu sương, trần bất động, hàn vô tế (歲華暮、蟾光射雪、碧瓦飄霜、塵不動、寒無際, dịp cuối năm, ánh trăng bắn tuyết, ngói biếc bay sương, bụi chẳng động, lạnh vô cùng).” Trong bài Túy Bồng Lai Cửu Nguyệt Thập Bát Nhật Tây Quắc Lưu Thị Tiếu (醉蓬萊九月十八日西虢劉氏醮) của Khưu Xứ Cơ (丘處機, 1148-1227) nhà Nguyên có câu: “Nhạn ảnh trầm sa, thiềm quang chiếu dạ, huân huân đồng túy (雁影沉沙、蟾光照夜、醺醺同醉, bóng nhạn chìm cát, ánh trăng chiếu đêm, vui vẻ say mèn).” Bản Tiêu Thích Kim Cang Kinh Khoa Nghi Hội Yếu Chí Giải (銷釋金剛經科儀會要註解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 24, No. 467) quyển 7 cũng có đoạn: “Thanh sơn lục thủy, dữ ngã hà thù, kim sanh Lệ thủy, thiềm quang mãn thái hư (青山綠水、與我何殊、金生麗水、蟾光滿太虛, núi xanh nước biếc, cùng ta khác gì, vàng sanh sông Lệ, ánh trăng khắp hư không).” Hoặc như trong Chứng Đạo Ca Tụng (證道歌頌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1291) lại có câu: “Lục Độ vạn hạnh thể trung viên, chân thể vô lao biện đồng biệt, vạn thủy thiềm quang nhậm khứ lưu, kiểu kiểu thiên tâm duy nhất nguyệt (六度萬行體中圓、眞體無勞辨同別、萬水蟾光任去留、皎皎天心唯一月, Sáu Độ muôn hạnh thể tròn đầy, thật thể chẳng cần phân khác giống, muôn dòng trăng sáng mặc cuốn trôi, vằng vặc giữa trời trăng một đóa).”
(禪宗): lược xưng của Tọa Thiền Tông (坐禪宗, Zazen-shū), còn gọi là Phật Tâm Tông (佛心宗), Đạt Ma Tông (達磨宗), Vô Môn Tông (無門宗); chỉ tông phái của Phật Giáo Đại Thừa, lấy Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495, 346-495, ?-528, ?-536) làm sơ Tổ, tham cứu bản nguyên của tâm tánh với yếu chỉ “kiến tánh thành Phật (見性成佛, thấy tánh thành Phật)”, chuyên tu ngộ đạo theo Thiền pháp của Đạt Ma truyền thừa. Đây là một trong 13 tông phái của Phật Giáo Trung Quốc, và cũng là một trong 13 tông phái của Phật Giáo Nhật Bản. Từ ngày xưa ở Trung Quốc hệ thống của những người chuyên tu tọa Thiền được gọi chung là Thiền Tông; vì thế trong đó ngoài Đạt MaTông ra, còn có Thiên Thai Tông và Tam Luận Tông, nhưng từ giữa thời nhà Đường trở đithì chỉ có Đạt MaTông mới được gọi là Thiền Tông mà thôi. Theo truyền thuyết cho rằng ngày xưa khi đức Phật Thích Ca đang ở trên Hội Linh Sơn, lúc ấy ngài cầm cành hoa Kim Ba La Hoa (金波羅華) do chư thiên đem dâng cúng, đưa ra trước hội chúng hơn 80.000 người. Đại chúng hết thảy đều ngẩn ngơ im lặng mà không thể nào hiểu được thâm ý của đức Như Lai thế nào. Khi ấy chỉ có một mình tôn giả Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, 摩訶迦葉) mĩm cười mà thôi. Thấy vậy đức Phật bảo với tôn giả rằng: “Ngã hữu chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, phó chúc dữ nhữ (我有正法眼藏、涅槃妙心、實相無相、微妙法門、付囑與汝, ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng không tướng, phó chúc cho ngươi)”, và truyền trao chánh pháp cho vị này. Đây được xem như là khởi nguyên của Thiền Tông. Câu chuyện này được ghi lại trong Phẩm Niêm Hoa (拈華品) thứ 2 của Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh (大梵天王問佛決疑經, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 27) và không phải là sự thật mang tính lịch sử. Thế nhưng ở Trung Quốc, Thiền từ thời Lục Tổ trở đi thì chú trọng đến vấn đề gọi là “dĩ tâm truyền tâm, giáo ngoại biệt truyền (以心傳心、敎外別傳)”, nên câu chuyện phú pháp tương thừa của Ca Diếp cũng được xem trọng. Ca Diếp sau đó truyền pháp này lại cho A Nan (s: Ānanda, 阿難), từ A Nan đến Thương Na Hòa Tu (s: Śāṇakavāsa,商那和修), Ưu Bà Cúc Đa (s: Upagupta, 優婆毱多), Đề Đa Ca (s: Dhṛtaka, 提多迦), Di Giá Ca (s: Miccaka, 彌遮迦), Bà Tu Mật (s: Vasumitra, 婆須蜜), Phật Đà Nan Đề (s: Buddhanandi, 佛陀難提), Phục Đà Mật Đa (s: Buddhamitra, 伏駄蜜多), Ba Lật Thấp Bà (s: Pārśvika, 波栗濕婆), Phú Na Dạ Xà (s: Puṇyayaśas, 富那夜奢), A Na Bồ Đề (s: Aśvaghoṣa, 阿那菩提, tức Mã Minh [馬鳴]), Ca Tỳ Ma La (s: Kapiñdjala, 迦毘摩羅), Na Già Yên Thích Thọ Na (s: Nāgārjuna, 那伽閼刺樹那, tức Long Thọ [龍樹]), Ca Na Đề Bà (s: Kāṇadeva, 迦那提婆, tức Thánh Thiên [聖天]), La Hầu La Đa (s: Rāhulata, 羅詭羅多), Tăng Già Nan Đề (s: Sañghānandi, 僧伽難提), Ca Da Xá Đa (s: Gayāśata, 迦耶舍多), Cưu Ma La Đa (s: Kumāralabdha, 鳩摩羅多), Xà Dạ Đa (s: Gayata, 闍夜多), Bà Tu Bàn Đầu (s: Vasubandhu, 婆修盤頭, tức Thế Thân [世親]), Ma Nã La (s: Manorhita, 摩拏羅), Hạc Lặc Na (s: Haklenayaśas, 鶴勒那), Sư Tử Bồ Tát (s: Siṁhabhikśu, 師子菩薩), Bà Xá Tư Đa (s: Basiasita, 婆舍斯多), Bất Như Mật Đa (s: Purjamitra, 不如蜜多), Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅), cho đến Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨) như vậy là 28 vị tổ tương thừa, được gọi là Tây Thiên Nhị Thập Bát Tổ (西天二十八祖, Hai Tám Vị Tổ Ấn Độ). Sau khi Bồ Đề Đạt Ma sang miền Đông Độ Trung Hoa thì truyền lại cho Huệ Khả (慧可), rồi Huệ Khả truyền thừa kế tiếp cho Tăng Xán (僧璨), Đạo Tín (道信), Hoằng Nhẫn (弘忍) cho đến Huệ Năng (慧能). Đây được gọi là Đông Độ Lục Tổ (東土六祖, Sáu Vị Tổ Trung Hoa). Cụ thể, vào trong khoảng niên hiệu Phổ Thông (普通, 520-527) đời vua Võ Đế (武帝, tại vị 502-449) nhà Lương, Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Nam Thiên Trúc (南天竺) đến Kiến Nghiệp (建業, Nam Kinh [南京] ngày nay), truyền tông này vào Trung Hoa; nên được gọi là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Ban đầu, Đại Sư đến yết kiến vua Lương Võ Đế, nhưng không khế hợp cơ duyên, bèn vào Thiếu Lâm Tự (少林寺) ở Tung Sơn (嵩山) ngồi xoay mặt vào tường 9 năm; vì vậy người đời gọi Đại Sư là Bích Quán Bà La Môn (壁觀婆羅門). Kế đến, Thần Quang (神光, tức Huệ Khả [慧可]) đứng ngoài tuyết lạnh chặt cánh tay dâng lên để bày tỏ ý chí cầu đạo, cuối cùng được Tổ Sư Đạt Ma truyền tâm ấn cho, làm Tổ thứ 2 của Thiền Tông Trung Hoa. Huệ Khả truyền cho Tăng Xán (僧璨); Tăng Xán truyền cho Đạo Tín (道信) và làm cho tong này hưng thịnh. Môn hạ của Đạo Tín có hai nhân vật kiệt xuất là Hoằng Nhẫn (弘忍) và Pháp Dung (法融). Môn hạ của Pháp Dung thì có Trí Nghiễm (智儼), Huệ Phương (慧方), Pháp Trì (法持), v.v. Vì pháp hệ này trú tại Ngưu Đầu Sơn (牛頭山) ở Kim Lăng (金陵), thế gian gọi là Ngưu Đầu Thiền (牛頭禪) với yếu chỉ là “dục đắc tâm tịnh, vô tâm dụng công (欲得心淨、無心用功, muốn được tâm tịnh, dụng công với vô tâm).” Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trú tại Hoàng Mai Sơn (黃梅山), Kì Châu (蘄州, Hồ Bắc [湖北]), xiển dương áo chỉ của Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh (s: Vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra, 金剛般若波羅蜜經); có một số môn đệ xuất sắc như Ngọc Tuyền Thần Tú (玉泉神秀), Đại Giám Huệ Năng (大鑑慧能), Tung Sơn Huệ An (嵩山慧安), Mông Sơn Đạo Minh (蒙山道明), Tư Châu Trí Tiển (資州智侁), v.v. Trong số đồ chúng của Ngũ Tổ, Thần Tú được xem như là thượng thủ, nên gọi là Tú Thượng Tọa (秀上座). Sau khi Ngũ Tổ qua đời, Thần Tú chấn tích ở phương Bắc, vì vậy có tên là Bắc Tú (北秀); được tôn xưng là Tổ của Bắc Tông Thiền (北宗禪). Thiền phái này lấy Trường An (長安), Lạc Dương (洛陽) làm trung tâm, xiển dương đạo pháp và hưng thịnh trong vòng khoảng 100 năm. Môn hạ của Thần Tú có Tung Sơn Phổ Tịch (嵩山普寂), Kinh Triệu Nghĩa Phước (京兆義福), v.v., truyền thừa được 4, 5 đời thì tuyệt dứt. Ngoài ra, Tung Sơn Huệ An khai sáng Lão An Thiền (老安禪); còn Tư Châu Trí Tiển thì cổ xướng Nam Tiển Thiền (南侁禪). Về trường hợp Đại Giám Huệ Năng, nhân một bài kệ mà được Ngũ Tổ ấn khả, truyền cho ý bát, kế thừa làm Lục Tổ. Sau đó, sư đi lánh nạn ở phương Nam, trú tại Tào Khê (曹溪), Thiều Dương (韶陽, Quảng Đông [廣東]), cử xướng Thiền phong, được tôn sùng là Tổ của Nam Tông Thiền (南宗禪). Vì tông phong của Nam Tông và Bắc Tông có khác nhau, nên có thuyết Nam Đốn Bắc Tiệm (南頓北漸). Đệ tử nối dòng pháp của Huệ Năng có hơn 40 người; các nhân vật trứ danh phải kể đến là Nam Nhạc Hoài Nhượng (南嶽懷讓), Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思), Nam Dương Huệ Trung (南陽慧忠), Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺), Hà Trạch Thần Hội (荷澤神會), v.v. Trong đó, Hà Trạch Thần Hội thì khai sáng Hà Trạch Tông (荷澤宗), tận lực đề xướng pháp môn Đốn Ngộ, lấy “nhất niệm bất khởi (一念不起, một niệm không dấy khởi)” để ngồi, và “liễu kiến bản tánh (了見本性, thấy rõ bản tánh)” để Thiền. Nam Nhạc Hoài Nhượng thọ tâm ấn từ Lục Tổ, đến trú tại Bát Nhã Tự (般若寺), tiếp hóa đồ chúng trong vòng 30 năm; kế thừa dòng pháp có 9 vị và Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) được xem như là bậc nhất. Về sau, Mã Tổ cử xướng Thiền pháp tại Cung Công Sơn (龔公山), Giang Tây (江西), cơ phong sắc bén, khai sáng Thiền phong đánh hét độc đáo, được thế gian gọi là Hồng Châu Tông (洪州宗). Mã Tổ chủ trương rằng những hoạt động thường ngày như khởi tâm động niệm, dương lông mày, chớp mắt, v.v., đều là Phật tánh; nên có thuyết gọi là “kiến tánh thị Phật (見性是佛, thấy tánh là Phật)” hay “tánh tại tác dụng (性在作用, tánh ở nơi tác dụng).” Môn hạ của Mã Tổ có hơn 100 người, có các Thiền kiệt xuất như Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海), Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), Tây Đường Trí Tàng (西堂智藏), Đại Mai Pháp Thường (大梅法常), Chương Kính Hoài Huy (章敬懷暉), Đại Châu Huệ Hải (大珠慧海), v.v. Kể từ khi Hoài Hải sáng kiến Thiền sát, lập ra Thanh Quy, Thiền Tông bắt đầu thoát ly khỏi chế độ các Thiền tăng phải nương náu vào chùa Luật Tông. Môn lưu của Bách Trượng có Hoàng Bá Hy Vận (黃檗希運), Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐), v.v. Đệ tử của Hy Vận thì có Lâm Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄). Sau này, Nghĩa Huyền chủ xướng ra Tam Huyền Tam Yếu (三玄三要), Tứ Liệu Giản (四料簡), v.v., để tiếp hóa đồ chúng, cơ phong nghiêm mật; môn đồ theo rất đông, hình thành Lâm Tế Tông (臨濟宗). Lúc bấy giờ thuộc cuối thời nhà Đường. Đến nhà Tống, từ Lâm Tế Nghĩa Huyền kinh qua Hưng Hóa Tồn Tương (興化存獎), Nam Viện Huệ Ngung (南院慧顒), Phong Huyệt Diên Chiểu (風穴延沼), Thủ Sơn Tỉnh Niệm (首山省念), Phần Dương Thiện Chiểu (汾陽善沼), truyền cho đến Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓). Trong khi đó, môn hạ Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南), Dương Kì Phương Hội (楊岐方會) lại hình thành hai phái Hoàng Long và Dương Kì, cùng tồn tại với Tào Động (曹洞), Vân Môn (雲門). Riêng Quy Sơn Linh Hựu thì trú tại Đàm Châu (潭州, Hồ Nam [湖南]), người đến tham học lên đến 1.500; trong đó, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (仰山慧寂) là nổi tiếng nhất, được gọi là Quy Ngưỡng Tông (潙仰宗). Môn hạ của Thanh Nguyên Hành Tư có Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), soạn bản Tham Đồng Khế (參同契); cùng với Mã Tổ được gọi là hai bậc long tượng vĩ đại. Đệ tử của Thạch Đầu lại có Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼), Đơn Hà Thiên Nhiên (丹霞天然), Thiên Hoàng Đạo Ngộ (天皇道悟). Hệ phái của Dược Sơn xuất hiện Vân Nham Đàm Thịnh (雲巖曇晟), Động Sơn Lương Giới (洞山良价), Vân Cư Đạo Ưng (雲居道膺), Tào Sơn Bổn Tịch (曹山本寂), v.v., hình thành nên Tào Động Tông (曹洞宗). Thiên Hoàng Đạo Ngộ thì truyền xuống 3 đời đến Tuyết Phong Nghĩa Tồn (雪峰義存), chấn tích ở Tuyết Phong Sơn (雪峰山), Phúc Châu (福州); từ pháp có hơn 50 vị; trong số đó có Vân Môn Văn Yển (雲門文偃) là người phát huy Thiền phong độc diệu, hình thành nên Vân Môn Tông (雲門宗). Bên cạnh đó, có Huyền Sa Sư Bị (玄沙師僃), truyền xuống cho La Hán Quế Sâm (羅漢桂琛), Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益). Văn Ích trú tại Thanh Lương Tự (清涼寺), Kim Lăng (金陵), khai sáng Pháp Nhãn Tông (法眼宗). Hệ thống này có các cao tăng như Thiên Thai Đức Thiều (天台德韶), Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽), Vĩnh An Đạo Nguyên (永安道原), v.v. Trong đó, Đức Thiều được xem như là Trí Khải tái lai; Diên Thọ thì soạn bộ Tông Kính Lục (宗鏡錄), xem trọng giáo học; còn Đạo Nguyên thì viết bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄), làm sáng tỏ hệ phổ của Đạt Ma Thiền. Trừ các tông phái đã nêu trên, theo Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序, Taishō Vol. 48, No. 2015) của Khuê Phong Tông Mật (圭峰宗密) cho biết, các giáo phái Thiền Tông dưới thời nhà Đường có Hồng Châu (洪州), Hà Trạch (荷澤), Bắc Tú (北秀), Nam Tiển (南侁), Ngưu Đầu (牛頭), Thạch Đầu (石頭), Bảo Đường (保唐), Tuyên Thập (宣什, Thiền niệm Phật), Huệ Trù (惠稠), Cầu Na (求那), Thiên Thai (天台), v.v. Trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Thích Nghĩa Sao (圓覺經大疏釋義鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 9, No. 245) của Tông Mật có nêu ra 7 tông là Bắc Tông Thiền (北宗禪), Trí Tiển Thiền (智侁禪), Lão An Thiền (老安禪), Nam Nhạc Thiền (南嶽禪), Ngưu Đầu Thiền (牛頭禪), Nam Sơn Niệm Phật Môn Thiền (南山念佛門禪), Hà Trạch Thiền (荷澤禪), v.v. Chủ yếu, từ Đạt Ma cho đến Huệ Năng, trong vòng khoảng 250 năm, Thiền phong của được cử xướng chỉ mang một phong cách duy nhất; Ngữ Lục các Tổ sư thường dẫn cứ kinh điển, nêu rõ thể cách Phật pháp, không bị mắc kẹt vào những đối lập của tông phái; cho nên có thể nói rằng đây là thời kỳ thành lập Thiền Tông. Từ Nam Nhạc, Thanh Nguyên cho đến thời Ngũ Đại cuối nhà Đường, trong khoảng 250 năm, riêng một nhánh Nam Tông Thiền phát triển rực rỡ; nếu nói về mặt tư tưởng, họ đã kiến lập nên tinh thần gọi là “tức tâm thị Phật (卽心是佛, ngay tâm này là Phật)”, “bình thường tâm thị đạo (平常心是道, tâm bình thường là đạo).” Còn về mặt sinh hoạt thực tế, thiết lập quy tắc Thiền viện lấy Tăng Đường làm trung tâm; về phương diện hoằng truyền lưu bố Thiền pháp, họ lấy cách hoạt động linh hoạt để tiếp độ học đồ, lấy cơ dụng đánh hét để tuyên xướng Thiền phong. Dần dà, Ngũ Gia (五家) được thành lập. Thời kỳ này có thể nói là giai đoạn phát triển của Thiền Tông. Trong vòng 320 năm của hai triều đại nhà Tống, Lâm Tế Tông lại cho ra đời hai chi phái Hoàng Long và Dương Kì; hình thành nên hệ thống Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗). Trong đó, Phái Hoàng Long được Vinh Tây (榮西, Eisai) truyền vào Nhật Bản; còn về Phái Dương Kì, sau thời Dương Kì Phương Hội có Ngũ Tổ Pháp Diễn (五祖法演), Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤), Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲), v.v., tận lực xiển dương Thiền chỉ, tạo thành chủ lưu của Thiền. Trong khi đó, Hoằng Trí Chánh Giác (宏智正覺) của hệ thống Tào Động Tông cùng với Đại Huệ Tông Cảo của Lâm Tế Tông mỗi bên đều cử xướng Mặc Chiếu Thiền (默照禪) và Khán Thoại Thiền (看話禪). Chính trong thời kỳ này, các đạo giáo dung hợp, hình thành khuynh hướng Tam Giáo Nhất Trí (三敎一致), Giáo Thiền Điều Hợp (敎禪調合), Thiền Tịnh Song Tu (禪淨雙修). Vì vậy, Thiền Tông dần dần mất đi tính cách độc lập, trở thành thời kỳ thủ vệ. Từ thời nhà Nguyên, Minh cho đến triều vua Càn Long (乾隆, tại vị 1735-1796) nhà Thanh, trong khoảng 450 năm, là thời kỳ suy yếu của Thiền Tông. Trong thời gian này tuy có Hải Vân Ấn Giản (海雲印簡), Vạn Tùng Hành Tú (萬松行秀), Pháp Am Tổ Tiên (破菴祖先), Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範), v.v., nhưng cũng chỉ thể hiện tư tưởng Nho Thích Điều Hợp, Giáo Thiền Nhất Trí mà thôi. Thiền Tông thời Cận Đại có Hòa Thượng Hư Vân (虛雲, 1839-1958), thọ đến 120 tuổi, một đời hoằng pháp không mệt mỏi, sáng lập tùng lâm rất nhiều, tận lực quảng bá tông phong, là cao tăng thuộc pháp phái của Lục Tổ Huệ Năng. Thiền Tông của Hàn Quốc thì có Cửu Sơn Thiền Môn (九山禪門). Phần lớn chư vị khai tong lập phái đều sang nhà Đường cầu pháp, rồi trở về nước tuyên xướng Thiền phong, tận lực giáo hóa, hình thành 9 tông phái chính. (1) Thời Thiện Đức Nữ Vương (善德女王, tại vị 632-647) của Tân La (新羅), có Pháp Lãng (法朗) sang nhà Đường, theo hầu Tứ Tổ Đạo Tín, sau truyền pháp ở Hải Đông (海東). Dưới thời Huệ Cung Vương (惠恭王, tại vị 765-780), có Thần Hành (神行) sang nhà Đường cầu pháp, tham yết Chí Không (志空), chứng đắc tâm ấn, sau trở về nước hoằng truyền Bắc Tông Thiền ở Đoạn Tục Tự (斷俗寺), vùng Đơn Thành (丹城). Môn hạ của Thần Hành, từ Tuân Phạm (遵範), Huệ Ẩn (惠隱) cho đến thời của Trí Tiển (智侁), được Cảnh Văn Vương (景文王, tại vị 861-875) quy y theo, khai sáng Hi Dương Sơn Phái (曦陽山派). (2) Vào năm thứ 5 (784) đời Tuyên Đức Vương (宣德王, tại vị 781-785), Kê Lâm Đạo Nghĩa (雞林道義) sang nhà Đường, thọ pháp với môn hạ của Mã Tổ là Tây Đường Trí Tàng và Bách Trượng Hoài Hải, thực hành yếu chỉ Nam Đốn, lưu lại bên đó 37 năm; sau đó trở về nước truyền pháp, hoằng hóa; môn hạ theo rất đông, lập ra Ca Trí Sơn Phái (迦智山派). (3) Dưới thời của Hiến Đức Vương (憲德王, tại vị 810-826), có Hồng Trắc (洪陟) sang nhà Đường tham học, nối tiếp dòng pháp của Tây Đường; sau khi về nước thì dừng chân trú tại Nam Nhạc (南岳). Vào năm thứ 3 (828) đời Hưng Đức Vương (興德王, tại vị 827-836), sư khai sáng Thật Tướng Tự (實相寺), cử xướng Thiền phong; môn hạ theo tham học lên đến hơn ngàn người, và hình thành nên Thật Tướng Sơn Phái (實相山派). (4) Nhân vật đồng thời với Đạo Nghĩa sang nhà Đường cầu pháp, có Chơn Giám Huệ Chiểu (眞鑒慧沼), sư được ấn khả của Thương Châu Thần Giám (滄州神鑑), môn hạ của Mã Tổ; sau khi về nước thì sáng lập Song Khê Tự (雙溪寺). Vào năm thứ 6 (814) đời Hiến Đức Vương, Tịch Nhẫn Huệ Triết (寂忍惠哲) cũng sang nhà Đường, thọ pháp của Tây Đường, rồi trở về nước và hoằng pháp, độ chúng ở Đại An Tự (大安寺) thuộc Đồng Lí Sơn (桐裏山), Võ Châu (武州). Pháp hệ do Huệ Chiểu và Huệ Triết truyền thừa được gọi là Đồng Lí Sơn Phái (桐裏山派). (5) Vô Nhiễm (無染) sang nhà Đường cầu pháp, được tâm ấn của Bảo Triệt (寶徹), rồi về nước vào năm thứ 7 (846) đời Văn Thánh Vương (文聖王, tại vị 840-858) và tận lực cổ xúy Thiền pháp. Nhờ đức độ của sư, Hiến An Vương (憲安王, tại vị 858-861), Cảnh Văn Vương đều quy y theo, nên sư sáng lập Thánh Trú Sơn Phái (聖住山派). (6) Vào năm thứ 6 (831) đời Hưng Đức Vương, có Thông Hiểu Phạn Nhật (通曉梵日) sang nhà Đường, theo học Thiền với Diêm Quan Tề An (鹽官齊安), pháp từ của Mã Tổ, được ấn khả của vị này; sau đó trở về nước và khai sáng Xà Quật Sơn Phái (闍崛山派) trên Thiên Thai Sơn (天台山). Về sau, môn nhân của Phạn Nhật là Lãng Không (朗空) cũng theo bước chân thầy sang nhà Đường, tham học với Thạch Sương Khánh Chư (石霜慶諸), pháp hệ của Thanh Nguyên Hành Tư; vị này trở về nước, trú tại Thật Tế Tự (實際寺) ở Nam Sơn (南山) và xiển dương Thiền chỉ. Đây được xem như là truyền thừa sớm nhất của hệ thống pháp phái Thanh Nguyên sang Hàn Quốc. (7) Song Phong Đạo Duẫn (雙峰道允) sang nhà Đường, thọ pháp với Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), môn nhân của Mã Tổ, được vị này ấn chứng cho, và trở về nước cùng năm với Phạn Nhật. Sau này, môn nhân của Đạo Duẫn là Trừng Quán Chiết Trung (澄觀折中) cũng có dịp sang nhà Đường, tham vấn Phổ Nguyện, rồi trở về nước và trú tại Hưng Ninh Thiền Viện (興寧禪院) thuộc Sư Tử Sơn (師子山). Pháp hệ của Đạo Duẫn và Chiết Trung được gọi là Sư Tử Sơn Phái (師子山派). (8) Dưới thời Cảnh Văn Vương, có Liễu Ngộ Thuận Chi (了悟順之) sang nhà Đường, tham học với Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, sau trở về nước, trú tại Thụy Vân Tự (瑞雲寺) hoằng bố Thiền pháp. Đến năm thứ 16 (824) đời Hiến Đức Vương, Viên Giám Huyền Dục (圓鑑玄昱) sang nhà Đường, học Thiền của Mã Tổ với Chương Kính Hoài Huy (章敬懷暉); sau khi trở về nước thì được 4 đời vua Mẫn Ai (閔哀, ?-839), Thần Võ (神武, ?-839), Văn Thánh (文聖, tại vị 840-858) và Hiến An (憲安) đãi ngộ. pháp từ của sư sáng lập ra Phụng Lâm Tự (鳳林寺) và hình thành Phụng Lâm Sơn Phái (鳳林山派). (9) Vào thời kỳ cuối của triều đình Tân La, có Khánh Du (慶猷), Quýnh Vi (迥微) liên tục sang nhà Đường cầu pháp, được yếu chỉ của Vân Cư Đạo Ưng; sau khi về nước thì tận lực cổ xướng Thiền phong, và đây chính là sơ truyền của Tào Động Tông vào đất nước này. Đến triều đình Cao Lệ (高麗), lại có các cao tăng như Lợi Nghiêm (利嚴), Lệ Nghiêm (麗嚴), Khánh Phủ (慶甫), Căng Nhượng (兢讓), Xán U (璨幽), v.v., kế tục hoằng truyền huyền chỉ tông môn. Trong số đó, Lợi Nghiêm đã từng sang nhà Đường, theo làm môn hạ của Đạo Ưng, được ấn khả tâm truyền; sau khi trở về nước, sư được vua Thái Tổ (太祖, tại vị 918-943) quy y theo, kiến lập Quảng Chiếu Tự (廣照寺) ở Tu Di Sơn (須彌山), Hải Châu (須彌山). Đây chính là khai thỉ của Tu Di Sơn Phái (須彌山派). Chín Thiền phái nêu trên được gọi chung là Tào Khê Tông (曹溪宗). Nhờ sự sùng kính Phật pháp của Thái Tổ, sau này các đời vua khác như Định Tông (定宗, tại vị 945-949), Quang Tông (光宗, tại vị 949-975), Văn Tông (文宗, tại vị 1046-1083), Tuyên Tông (宣宗, tại vị 1083-1094), Thần Tông (神宗, tại vị 1197-1204), v.v., liên tiếp hộ trì; nên Thiền Tông nhất thời hưng thịnh cao độ. Tuy nhiên, đến thời Trung Liệt Vương (忠烈王, tại vị 1274-1298, 1298-1308) trở về sau, quốc thế suy yếu, Thiền Tông cũng theo đó mà bị ảnh hưởng, dẫn đến trầm trệ. Về Thiền Tông của Nhật Bản, đầu tiên vào năm thứ 4 (653) niên hiệu Bạch Trĩ (白雉) đời Hiếu Đức Thiên Hoàng (孝德天皇, Kōtoku Tennō, tại vị 645-654), Đạo Chiêu (道昭, Dōshō) sang nhà Đường cầu pháp. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平), Đạo Tuyền (道璿) của Trung Hoa sang Nhật, hoằng truyền Bắc Tông Thiền. Trong thời gian Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823) ở ngôi, có đặc phái cung thỉnh Nghĩa Không (義空) sang Nhật truyền bá Nam Tông Thiền, và bắt đầu mở ra phong thái Thiền Tông Nhật Bản. Đến năm thứ 3 (1187), niên hiệu Văn Trị (文治), Minh Am Vinh Tây (明庵榮西, Myōan Eisai) sang nhà Tống cầu pháp, theo hầu Hư Am Hoài Sưởng (虛菴懷敞), lấy pháp của Phái Hoàng Long truyền vào và khai sáng Lâm Tế Tông Nhật Bản. Vào năm thứ 2 (1223) niên hiệu Trinh Ứng (貞應), Vĩnh Bình Đạo Nguyên (永平道元, Eisai Dōgen) sang nhà Tống, được ấn khả của Thiên Đồng Như Tịnh (天童如淨), rồi quay về nước và trở thành Tổ của Tào Động Tông Nhật Bản. Môn hạ của Đạo Nguyên có Triệt Thông Nghĩa Giới (徹通義介, Tettō Gikai), Hàn Nham Nghĩa Duẫn (寒巖義尹, Kangan Giin); cả hai cũng đã từng sang nhà Tống, sau đó về nước, tận lực cử xướng Thiền phong và lập ra Hàn Nham Phái (寒巖派, còn gọi là Pháp Hoàng Phái [法皇派]). Năm đầu (1235) niên hiệu Gia Trinh (嘉禎), Viên Nhĩ Biện Viên (圓爾辨圓, Enni Benen) sang nhà Tống, đến Kính Sơn (徑山) tham yết Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範), được tâm ấn của vị này; sau khi trở về nước thì sáng lập Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) ở kinh đô Kyoto và hoằng pháp bố giáo. Đến năm tứ 4 (1246), niên hiệu Khoan Nguyên (寬元), Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) của Trung Hoa sang Nhật, khai sáng Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji); nhờ vậy Thiền phong ở địa phương Quan Đông (關東, Kantō) nhất thời cực thịnh. Vào năm thứ 4 (1267) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明, Nampo Shōmyō) sang nhà Tống, được Hư Đường Trí Ngu (虛堂智愚) ấn chứng cho và trở về bổn quốc. Hai năm sau (1269), cao tăng Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念) của Trung Hoa sang Nhật, trú ở hai chùa Kiến Trường (建長, Enchō) và Viên Giác (圓覺, Enkaku), được triều đình cũng như dân chúng kính ngưỡng. Sau đó, một số cao tăng khác sang Nhật truyền đạo như Nhất Sơn Nhất Ninh (一山一寧), Tây Giản Tử Đàm (西磵子曇), Đông Lí Hoằng Hội (東里弘會), Viễn Khê Tổ Hùng (遠谿祖雄), Linh Sơn Đạo Ẩn (靈山道隱), v.v. Cuối cùng 24 dòng phái của Thiền Tông Nhật Bản được hình thành; gồm (1) Phái Thiên Quang (千光派, Vinh Tây), (2) Phái Đạo Nguyên (道元派, Đạo Nguyên), (3) Phái Thánh Nhất (聖一派, Viên Nhĩ), (4) Phái Pháp Đăng (法燈派, Giác Tâm [覺心]), (5) Phái Đại Giác (大覺派, Đạo Long), (6) Phái Ngột Am (兀庵派, Phổ Ninh [普寧]), (7) Phái Đại Hưu (大休派, Chánh Niệm), (8) Phái Pháp Hải (法海派, Tĩnh Chiếu [靜照]), (9) Phái Vô Học (無學派, Tổ Nguyên [祖元]), (10) Phái Nhất Sơn (一山派, Nhất Sơn Nhất Ninh), (11) Phái Đại Ứng (大應派, Nam Phố Thiệu Minh), (12) Phái Tây Giản (西磵派, Tây Giản Tử Đàm), (13) Phái Kính Đường (鏡堂派, Kính Đường Giác Viên [鏡堂覺圓]), (14) Phái Phật Huệ (佛慧派, Linh Sơn Đạo Ẩn), (15) Phái Đông Minh (東明派, Đông Minh Huệ Nhật [東明慧日]), (16) Phái Thanh Chuyết (清拙派, Thanh Chuyết Chánh Trừng [清拙正澄]), (17) Phái Minh Cực (明極派, Minh Cực Sở Tuấn [明極楚俊]), (18) Phái Ngu Trung (愚中派, Ngu Trung Châu Cập [愚中周及]), (19) Phái Trúc Tiên (竺僊派, Trúc Tiên Phạn Tiên [竺僊梵仙]), (20) Phái Biệt Truyền (別傳派, Biệt Truyền Minh Dận [別傳明胤]), (21) Phái Cổ Tiên (古先派, Cổ Tiên Ấn Nguyên [古先印元]), (22) Phái Đại Chuyết (大拙派, Đại Chuyết Tổ Năng [大拙祖能]), (23) Phái Trung Nham (中巖派, Trung Nham Viên Nguyệt [中巖圓月]), (24) Phái Đông Lăng (東陵派, Đông Lăng Vĩnh Dư [東陵永璵]). Trong số đó, trừ 3 phái Đạo Nguyên, Đông Minh, Đông Lăng thuộc về Tào Động Tông, 21 phái khác thuộc Lâm Tế Tông. Ngoài ra, vào năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應), Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) của Trung Hoa sang Nhật, khai sáng Hoàng Bá Tông (黃檗宗), cùng với Tào Động, Lâm Tế hình thành thế chân vạc của Thiền Nhật Bản. Trong bài tựa của Thiền Tông Chánh Mạch (禪宗正脈, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1593) quyển 1 có đoạn rằng: “Thiền Tông nhất tông, biến mãn hoàn vũ, Phật Tổ dĩ hạ, đắc kỳ truyền giả, tự nhất đăng dĩ chí vô tận đăng yên, ngật kim đãi nhị thiên tự (禪宗一宗、遍滿寰宇、佛祖以下、得其傳者、自一燈以至無盡燈焉、迄今逮二千祀, một tông phái Thiền Tông, đầy khắp hoàn vũ, từ Phật Tổ trở xuống, có người truyền thừa, từ một ngọn đèn đến vô tận ngọn đèn vậy, đến nay đã hai ngàn năm).”
(祖師): chỉ cho vị khai sáng một tông, một phái, gọi là Khai Tổ (開祖); hay người truyền thừa giáo pháp của mình cho hậu thế, gọi là Liệt Tổ (列祖). Khai Tổ thì có khác nhau về Tông Tổ (宗祖), Phái Tổ (派祖). Tỷ dụ, thông thường Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495) được mọi người tôn xưng là Tông Tổ của Thiền Tông; Nghĩa Huyền (義玄, ?-866), Lương Giới (良价, 807-869) là Phái Tổ của Lâm Tế Tông (臨濟宗) và Tào Động Tông (曹洞宗). Các tông phái Phật Giáo đều xem trọng sự truyền thừa của Liệt Tổ; tỷ dụ như Thiền Tông có 28 vị Tổ Ấn Độ, 6 vị Tổ Trung Hoa; Thiên Thai Tông (天台宗) có 9 Tổ, 17 Tổ Trung Hoa; Hoa Nghiêm Tông (華嚴宗) có 5 Tổ, 7 Tổ, 10 Tổ; Chơn Ngôn Tông (眞言宗) có 8 Tổ; Tịnh Độ Tông (淨土宗) có 5 Tổ, 16 Tổ, v.v. Cũng như người Nhật tôn xưng Nguyên Không (源空, Genkū, tức Pháp Nhiên [法然, Hōnen, 1133-1212]) là Tông Tổ của Tịnh Độ Tông; Chứng Không (證空, Shōkū, 1177-1247) là Phái Tổ của Phái Tây Sơn (西山派). Tịnh Độ Tông Nhật Bản tôn xưng Thiện Đạo (善導, 613-681) là Cao Tổ (高祖), Nguyên Không là Nguyên Tổ (元祖). Tịnh Độ Chơn Tông (淨土眞宗) Nhật Bản tôn xưng Nguyên Không là Nguyên Tổ, Thân Loan (親鸞, Shinran, 1173-1262) là Tông Tổ hay Cao Tổ. Nơi an trí tượng Tổ sư gọi là Tổ Sư Đường (祖師堂), gọi tắt là Tổ Đường (祖堂). Trước tác của Tổ sư gọi là Tổ thư (祖書), Tổ điển (祖典). Ngọn núi nơi Tổ sư ở gọi là Tổ sơn (祖山). Như trong Thiền Lâm Loại Tụ (禪林類聚, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 67, No. 1299) quyển 4, phần Tổ Giáo (祖敎), có đoạn: “Triệu Châu Thẩm Thiền Sư, tăng vấn: 'Như hà thị Tổ sư Tây lai ý ?' Sư vân: 'Đình tiền bá thọ tử.' (趙州諗禪師、僧問如何是祖師西來意、師云庭前柏樹子, Thiền Sư Triệu Châu Tùng Thẩm, có vị tăng hỏi rằng: 'Thế nào là ý của Tổ sư [Đạt Ma] từ Tây [Ấn Độ] đến ?' Thiền Sư đáp: 'Cây bá trước sân.').” Hay trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục (古尊宿語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1315) quyển 30, phần Tiêu Chỉ Lục Kệ Tinh Tự (標指六偈幷敘), lại có đoạn: “Chư Phật xuất thế, vô pháp thị nhân, Tổ sư Tây lai, vô đạo khả chỉ, duy đàm tự ngộ (諸佛出世。無法示人。祖師西來。無道可指。唯談自悟, chư Phật ra đời, không pháp dạy người, Tổ sư Tây đến, không đườn chỉ dẫn, chỉ nói tự ngộ).”
(雪竇重顯, Secchō Jūken, 980-1052): vị tăng của Vân Môn Tông Trung Quốc, người vùng Toại Châu (遂州, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Lý (李), tự là Ẩn Chi (隱之). Lúc còn nhỏ, ông đã theo xuất gia với Nhân Tiển (仁銑) ở Phổ An Viện (普安院). Sau khi thọ Cụ Túc giới, ông theo học giáo tướng với Nguyên Oánh (元瑩) ở Đại Từ Tự (大慈寺), cũng như Uẩn Thông (蘊聰) ở Thạch Môn (石門). Sau ông du hành lên phương Nam, đến tham yết Trí Môn Quang Tộ (智門光祚) ở Tùy Châu (隨州, Tỉnh Hồ Bắc), được khai ngộ và kế thừa môn phong của vị này. Ông đã từng đến trú tại Thúy Vi Phong (翠微峰) ở Động Đình (洞庭), rồi chuyển đến Tư Thánh Tự (資聖寺) ở Tuyết Đậu Sơn (雪竇山), Minh Châu (明州, Tỉnh Triết Giang). Chính nơi đây ông đã cổ xướng môn phong rất hưng thịnh, được xem như là vị tổ thời Trung Hưng của Vân Môn. Ông sống nơi đây hơn 30 năm, nuôi dưỡng hơn 70 đồ đệ. Ngoài ra, ông còn soạn ra bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) với 100 cổ tắc công án. Rồi ông làm tụng cổ về bộ này với tên là Tuyết Đậu Tụng Cổ (雪竇頌古). Sau này, Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤) đã bình xướng, trước ngữ cho bộ này và đặt tên cho nó là Bích Nham Tập (碧巖集). Ông đã soạn ra Động Đình Ngữ Lục (洞庭語錄), Tuyết Đậu Khai Đường Lục (雪竇開堂錄), Bộc Tuyền Tập (瀑泉集), Tổ Anh Tập (祖英集), Tụng Cổ Tập (頌古集), Niêm Cổ Tập (拈古集), Tuyết Đậu Hậu Lục (雪竇後錄). Vào ngày mồng 10 tháng 6 năm thứ 4 niên hiệu Hoàng Hựu (皇祐), ông thị tịch, hưởng thọ 73 tuổi đời và 50 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu là Minh Giác Đại Sư (明覺大師).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập