Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tịnh lữ »»
(近松門左衛門, Chikamatsu Monzaemon, 1653-1724): nhà viết kịch bản Ca Vũ Kỷ (歌舞伎, Kabuki), Tịnh Lưu Ly (淨瑠璃, Jōruri, loại hình chuyện phát xuất từ nguyên lưu của Bình Khúc, Dao Khúc), sống giữa thời đại Giang Hộ; tên thật là Sam Sum Tín Thạnh (杉森信盛), hiệu Bình An Đường (平安堂), Sào Lâm Tử (巢林子), v.v., xuất thân vùng Việt Tiền (越前, Echizen). Về Ca Vũ Kỷ thì ông theo học với Phản Điền Đằng Thập Lang (坂田藤十郎), còn loại hình Tịnh Lưu Ly thì thọ giáo với Trúc Bổn Nghĩa Thái Thu (竹本義太夫). Ông đã biên soạn khá nhiều bản Cuồng Ca, trước tác cả hơn 100 khúc Tịnh Lưu Ly, để miêu tả nét đẹp của lòng người qua đề tài nghĩa lý nhân tình. Trước tác của ông có Xuất Thế Cảnh Tình (出世景情), Quốc Tánh Gia Hợp Chiến (國性爺合戰), Tâm Trung Thiên Đảo Cương (心中天綱島), Nữ Sát Du Địa Ngục (女殺油地獄), v.v.
(大安寺, Daian-ji): ngôi chùa của Phái Cao Dã Sơn (高野山派) thuộc Chơn Ngôn Tông, tọa lạc tại Daianji-cho (大安町), Nara-shi (奈良市), là một trong 7 ngôi chùa lớn của Phật Giáo Nam Đô, còn gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji). Theo Đại An Tự Già Lam Duyên Khởi Tinh Lưu Ký Tư Tài Trương (南大寺伽藍緣起并流記資財帳) có ghi lại việc Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) phó thác cho Điền Thôn Hoàng Tử (田村皇子, sau này là Thư Minh Thiên Hoàng [舒明天皇, Jomei Tennō]) xây dựng ngôi đại tự với tên gọi là Hùng Ngưng Tự (熊凝寺, Kumagori-dera). Đây chính là khởi nguyên của Đại An Tự. Trong Thánh Đức Thái Tử Truyện Tư Ký (聖德太子傳私記) cũng cho rằng Hùng Ngưng Tự là tiền thân của ngôi già lam này. Trong Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi rằng vào năm thứ 11 (639) đời Thư Minh Thiên Hoàng, nhà vua ra chiếu chỉ xây Đại Cung và Đại Tự bên bờ sông Bách Tế, cho dựng ngôi tháp 9 tầng và đổi tên chùa là Bách Tế Đại Tự (百濟大寺, Kudara-no-ōdera). Đến năm thứ 2 (673) đời vua Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), chùa lại được dời về vùng Cao Thị (高市, Takechi) và lấy tên là Cao Thị Đại Tự (高市大寺, Takechi-no-ōdera). Sau đó, chùa lại đổi tên là Đại Quan Đại Tự (大官大寺, Daikandai-ji), trở thành một trong 3 ngôi chùa quan lớn và hưng thịnh đến tột đỉnh. Vào năm thứ 3 (710) niên hiệu Hòa Đồng (和銅), lúc kinh đô được dời về Bình Thành (平城, Heizei), chùa cũng chuyển về vị trí hiện tại và lấy tên là Đại An Tự. Từ quy mô già lam có dạng thức đặc thù được gọi là Cách Thức Đại An Tự, chiều cao của chùa, nó được gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji) để sánh với Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) và Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji). Với tư cách là trung tâm học vấn của Tam Luận Tông, chùa đã một thời hưng thạnh. Chính từ đây đã xuất hiện những bậc danh tăng như Đạo Từ (道慈, Dōji), Cần Tháo (勤操, Gonzō), Hành Biểu (行表, Gyōbyō), Tối Trừng (最澄, Saichō), Lương Biện (良辨, Rōben), v.v. Đến thời đại Bình An, sau mấy lần bị hỏa tai vào năm thứ 11 (911) niên hiệu Diên Hỷ (延喜), năm đầu (1071) niên hiệu Khoan Nhân (寬仁), ngôi già lam bị cháy rụi khá nhiều và sau đó được tái thiết ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, vào khoảng cuối thời Bình An, cũng cùng chung số phận với những ngôi đại tự khác của vùng Nam Đô, chùa lâm vào tình trạng suy vi. Đến thời Liêm Thương, cùng với việc phục hưng giáo học, một số chùa như Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji), Tây Đại Tự, v.v., đã phát triển mạnh; nhưng trường hợp Đại An Tự thì lại càng suy thối hơn. Quần thể đường vũ hiện tồn được tái thiết dưới thời Minh Trị; bảo vật của chùa có bức tượng đứng Thập Nhất Diện Quan Âm (dưới thời Nại Lương) là tượng thờ chính, tượng Dương Liễu Quan Âm, Thiên Thủ Quan Âm, v.v., theo Cách Thức Đại An Tự.
(妙體): thể tánh nhiệm mầu, vi diệu. Như trong Hoa Nghiêm Đạo Tràng Khởi Chỉ Đại Lược (華嚴道塲起止大略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1474) có đoạn: “Giá Na diệu thể, biến pháp giới dĩ vi thân, Hoa Tạng trang nghiêm, đẳng thái hư nhi vi lượng (遮那妙體、遍法界以爲身、華藏莊嚴、等太虛而爲量, thể mầu của đức Giá Na, khắp pháp giới lấy làm thân; cõi Hoa Tạng trang nghiêm, cùng hư không mà tính lường).” Hay trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) quyển 3 lại có đoạn rằng: “Trang nghiêm diệu thể chứng Như Lai, khổ hải mang mang thật khả ai, ngã dục pháp thuyền giai độ khứ, thử thân vĩnh bất hứa Đông lai (莊嚴妙體證如來、苦海茫茫實可哀、我欲法船皆度去、此身永不許東來, trang nghiêm thể mầu chứng Như Lai, biển khổ mênh mang đáng thương thay, con muốn thuyền pháp đều độ thảy, về Đông chẳng hứa với thân này).”
(s: Bhaiṣajyaguru, 藥師): nói rõ là Dược Sư Lưu Ly Quang (s: Bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabha, 藥師瑠璃光), Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật (藥師琉璃光王佛), Dược Sư Như Lai (藥師如來), Đại Y Vương Phật (大醫王佛), Y Vương Thiện Thệ (醫王善誓), Thập Nhị Nguyện Vương (十二願王), âm dịch là Bệ Sát Xã Lũ Lô (鞞殺社窶嚕). Theo Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh (s: Bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhāsapūryapraṇidhāna, 藥師瑠璃光如來本願功德經, Taishō No. 450), ngoài 10 hằng hà sa Phật độ có thế giới gọi là Tịnh Lưu Ly (淨瑠璃) và giáo chủ của thế giới đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Thế giới này được gọi là cõi Tịnh Độ ở phương Đông, cũng trang nghiêm như cõi nước Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂). Trong thời gian hành Bồ Tát đạo, vị Phật này có phát 12 lời nguyện lớn và nhờ lời nguyện này mà hiện tại ngài thành Phật ở thế giới Tịnh Lưu Ly, có hai vị Bồ Tát Nhật Quang (s: Sūryaprabha, 日光) và Nguyệt Quang (s: Candraprabha, 月光) thường xuyên hộ trì hai bên. Thệ nguyện của đức Phật này không thể nghĩ bàn và sự linh nghiệm của Ngài cũng rất rộng lớn. Nếu có người thân mạng bệnh nặng, hiện tướng sắp chết, bà con quyến thuộc của người ấy tận tâm, chí thành cúng dường, lễ bái Phật Dược Sư, đọc tụng Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh 49 biến, thắp 49 ngọn đèn, tạo tràng phan 5 sắc màu của 49 cõi trời, thì người sắp lâm chung ấy sẽ được sống lại và kéo dài sinh mạng thêm. Cho nên, tín ngưỡng Phật Dược Sư đã thịnh hành từ xa xưa. Về hình tượng của Ngài, theo Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp (藥師琉璃光王七佛本願功德經念誦儀軌供養法, Taishō No. 926) cho biết rằng tay trái Ngài cầm dược khí (còn gọi là Vô Giá Châu [無價珠]), tay phải kết Tam Giới Ấn (三界印), mặc áo Ca Sa (s: kaṣāya, kāṣāya, p: kāsāya, kāsāva, 袈裟), ngồi kiết già trên đài hoa sen và dưới đài có 12 vị thần tướng. Các vị thần tướng này thệ nguyện hộ trì pháp môn Dược Sư, mỗi vị thống lãnh 7.000 quyến thuộc Dược Xoa (藥叉), tại các nơi hộ trì cho chúng sanh nào thọ trì danh hiệu Phật Dược Sư. Bên cạnh đó, hình tượng được lưu truyền phổ biến nhất về đức Phật này là hình có mái tóc xoăn hình trôn ốc, tay trái cầm bình thuốc, tay phải bắt Thí Vô Úy Ấn (施無畏印, hay Dữ Nguyện Ấn [與願印]); có 2 Bồ Tát Nhật Quang Biến Chiếu (日光遍照) và Nguyệt Quang Biến Chiếu (月光遍照) hầu hai bên, được gọi là Dược Sư Tam Tôn (藥師三尊). Hai vị Bồ Tát này là thượng thủ trong vô lượng chúng ở cõi Tịnh Độ của Phật Dược Sư. Ngoài ra còn có 8 Bồ Tát khác hầu cận bên Ngài như Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利), Quan Âm (s: Avalokiteśvara, 觀音), Thế Chí (s: Mahāsthāmaprāpta, 勢至), Bảo Đàn Hoa (寶壇華), Vô Tận Ý (無盡意), Dược Vương (s: Bhaiṣajyarāja, 藥王), Dược Thượng (s: Bhaiṣajyasamudgata, 藥上), Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒). Theo Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh (藥師琉璃光七佛本願功德經, Taishō No. 451) do Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) nhà Đường dịch có nêu tên 7 vị Phật Dược Sư, gồm: Thiện Xưng Danh Cát Tường Vương Như Lai (善稱名吉祥王如來), Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai (寶月智嚴光音自在王如來), Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai (金色寶光妙行成就如來), Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai (無憂最勝吉祥如來), Pháp Hải Lôi Âm Như Lai (法海雷音如來), Pháp Hải Tuệ Du Hý Thần Thông Như Lai (法海慧遊戲神通如來) và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (藥師琉璃光如來). Trong số đó, 6 vị đầu là phân thân của Dược Sư Như Lai. Đức Phật này cùng với Thích Ca Mâu Ni Như Lai (釋迦牟尼佛), A Di Đà Phật (阿彌陀佛) được gọi là Hoành Tam Thế Phật (橫三世佛), hay Tam Bảo Phật (三寶佛). Trong Phật Giáo, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật ở phương Đông và A Di Đà Phật ở phương Tây được xem như là hai đấng tối cao giải quyết vấn đề sanh và tử của chúng sanh.
(慧眼): có ba nghĩa khác nhau. (1) Là thuật ngữ Phật Giáo, chỉ cho một trong Ngũ Nhãn (s: pañca cakṣūṃṣi, p: pañca cakkhūni, 五眼), tức là con mắt trí tuệ của Nhị Thừa; cũng chỉ chung cho trí tuệ có thể chiếu thấy rõ thật tướng của các pháp. Như trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (維摩詰所說經, Taishō Vol. 14, No. 475), quyển Trung, Phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn (入不二法門品) có giải thích về Huệ Nhãn rằng: “Thật kiến giả thượng bất kiến thật, hà huống phi thật, sở dĩ giả hà ? Phi nhục nhãn sở kiến, Huệ Nhãn nãi năng kiến, nhi thử Huệ Nhãn, vô kiến vô bất kiến, thị vi nhập Bất Nhị pháp môn (實見者尚不見實、何況非實、所以者何、非肉眼所見、慧眼乃能見、而此慧眼、無見無不見、是爲入不二法門, cái thấy thật còn không thấy thật thay, huống gì chẳng phải thật, vì cớ sao vậy ? Chẳng phải mắt thịt thấy được, mà Huệ Nhãn [con mắt trí tuệ] mới có thể thấy, mà Huệ Nhãn này, không thấy và không phải không thấy, đó là đi vào pháp môn Không Hai).” Hay trong bài thơ Tặng Am Trung Lão Tăng (贈庵中老僧) của Đường Thuận Chi (唐順之, 1507-1560) nhà Minh có câu: “Nghiệp tịnh Lục Căn thành Huệ Nhãn, thân vô nhất vật ký mao am (業淨六根成慧眼、身無一物寄茅庵, nghiệp sạch Sáu Căn thành Huệ Nhãn, thân không một vật gởi am tranh).” Trong Viên Giác Kinh Giáp Tụng Tập Giải Giảng Nghĩa (圓覺經夾頌集解講義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 10, No. 253) còn cho biết rằng: “Thâm ngộ luân hồi tức Huệ Nhãn, phân biệt tà chánh tức Pháp Nhãn; nhiên Huệ Nhãn chứng chơn, Pháp Nhãn đạt sự; hựu Huệ Nhãn tức Căn Bản Trí, Pháp Nhãn tức Hậu Đắc Trí (深悟輪迴卽慧眼、分別邪正卽法眼、然慧眼證眞、法眼達事、又慧眼卽根本智、法眼卽後得智, biết sâu luân hồi tức là Huệ Nhãn, phân biệt đúng sai tức là Pháp Nhãn; tuy nhiên Huệ Nhãn thì chứng chơn, Pháp Nhãn thì đạt về sự; lại nữa, Huệ Nhãn tức là Căn Bản Trí, Pháp Nhãn tức là Hậu Đắc Trí).” (2) Nhãn lực nhạy bén, tinh anh. Như trong tập Âu Bắc Thi Thoại (甌北詩話), bài Ngô Mai Thôn Thi (吳梅村詩) của Triệu Dực (趙翼, 1727-1814) nhà Thanh có câu: “Thử thi nhân huệ nhãn, thiện ư thủ đề xứ (此詩人慧眼、善於取題處, con mắt nhạy bén của nhà thơ này, khéo ở chỗ nắm bắt đề tài).” Hay trong tập Dạ Thu Vũ Đăng Lục (夜雨秋燈錄), Truyện A Hàn (阿韓傳) của tiểu thuyết gia Tuyên Đỉnh (宣鼎, 1832-1880) nhà Thanh lại có câu: “Nhi Hàn năng ư phong trần trung độc cụ tuệ nhãn, nữ hiệp dã (而韓能於風塵中獨具慧眼、女俠也, mà trong phong trần, riêng một mình A Hàn có thể có đủ con mắt tinh anh, đúng là nữ hiệp vậy).” (3) Chỉ cho tròng mắt đẹp. Như trong tập đề vịnh Hồng Vi Cảm Cựu Ký (紅薇感舊記) do Phó Truân Cấn (傅屯艮, 1883-1930, tự Văn Lương [文渠]) sáng tác, có câu: “Năng tương huệ nhãn khán tài tử, khảng khái bi ca úy tịch liêu (能將慧眼看才子、慷慨悲歌慰寂寥, thường lấy mắt đẹp nhìn tài tử, hăng hái buồn ca sợ tịch liêu).”
(s: ṣaḍ-indriyāṇi, 六根): hay còn gọi là Lục Tình (六情), tức 6 cơ quan cảm giác hay năng lực nhận thức, là Sáu Xứ trong Mười Hai Xứ, Sáu Căn Giới trong Mười Tám Giới. Căn (s, p: indriya, 根) có nghĩa là cơ quan nhận thức. Sáu Căn gồm:
(1) Nhãn (s: cakṣus, p: cakkhu, 眼, mắt, cơ quan và năng lực thị giác);
(2) Nhĩ (s: śrotra, śrotas, p: sota, 耳, tai, cơ quan và năng lực thính giác);
(3) Tỷ (s: ghrāṇa, p: ghāna, 鼻, mũi, cơ quan và năng lực khứu giác);
(4) Thiệt (s: jihvā, p: jivhā, 舌, lưỡi, cơ quan và năng lực vị giác);
(5) Thân (s, p: kāya, 身, thân thể, cơ quan và năng lực xúc giác); và
(6) Ý (s: manaḥ, p: mano, manas, 意, ý, cơ quan và năng lực tư duy).
Năm Căn đầu được gọi là Ngũ Căn (五根), thuộc về sắc pháp, có 2 loại: cơ quan sinh lý là Phù Trần Căn (浮塵根, hay Thô Sắc Căn [粗色根]), tức 5 căn này hiện hình trạng ra bên ngoài; còn Ý Căn là nơi nương tựa của tâm để sanh khởi tâm lý, nương vào Phù Trần Căn để có thể phát sinh tác dụng thấy, nghe, hiểu biết, v.v.; có tên là Thắng Nghĩa Căn (勝義根, hay Tịnh Sắc Căn [淨色根]). Như trong Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō No. 945) quyển 6 có dạy rằng: “Nhất thiết chúng sanh, Lục Thức tạo nghiệp, sở chiêu ác báo, tùng Lục Căn xuất (一切眾生、六識造業、所招惡報、從六根出, hết thảy chúng sanh, Sáu Thức tạo nghiệp, ác báo nhận lấy, do Sáu Căn ra).” Hay trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) có giải thích về Lục Căn thanh tịnh rằng: “Lục Ba La Mật giả, tức tịnh Lục Căn dã; Hồ danh Ba La Mật, Hán danh đạt bỉ ngạn, dĩ Lục Căn thanh tịnh, bất nhiễm Lục Trần, tức thị độ phiền não hà, chí Bồ Đề ngạn; cố danh Ba La Mật (六波羅蜜者、卽淨六根也、胡名波羅蜜、漢名達彼岸、以六根清淨、不染六塵、卽是度煩惱河、至菩提岸、故名六波羅蜜, Sáu Ba La Mật tức là làm trong sạch Sáu Căn; người Ấn Độ gọi là Ba La Mật, người Trung Quốc gọi là qua bờ bên kia; do Sáu Căn trong sạch, không nhiễm Sáu Trần, tức là qua sông phiền não, đến bờ Bồ Đề; nên được gọi là Ba La Mật).” Hoặc trong bài Di Sơn Phát Nguyện Văn (怡山發願文) của Thiền Sư Di Sơn Kiểu Nhiên (怡山皎然, ?-?) nhà Đường cũng có câu: “Đệ tử mỗ giáp, tự vi chơn tánh, uổng nhập mê lưu, tùy sanh tử dĩ phiêu trầm, trục sắc thanh nhi tham nhiễm; Thập Triền Thập Sử, tích thành Hữu Lậu chi nhân; Lục Căn Lục Trần, vọng tác vô biên chi tội (弟子某甲、自違眞性、枉入迷流、隨生死以飄沉、逐色聲而貪染、十纏十使、積成有漏之因、六根六塵、妄作無邊之罪, đệ tử …, tự sai chơn tánh, lầm nhập dòng mê, theo sanh tử để thăng trầm, đắm sắc thanh mà tham nhiễm; Mười Triền Mười Sử, tích thành Hữu Lậu nhân sâu, Sáu Căn Sáu Trần, lầm tạo vô biên tội lỗi).”
(s: ṣaḍ-pāramitā, ṣaṭ-pāramitā, 六度): tức Lục Ba La Mật (六波羅蜜), Lục Ba La Mật Đa (六波羅蜜多), Lục Độ Ba La Mật (六度波羅蜜), còn gọi là Lục Độ Vô Cực (六度無極), Lục Đáo Bỉ Ngạn (六到彼岸). Ba La Mật (s, p: pāramitā, 波羅蜜) dịch là Độ (度), nghĩa là đáo bỉ ngạn (到彼岸, đến bờ bên kia), tức là đạt thành, hoàn thành lý tưởng. Đây là 6 pháp tu hành thật tiễn để thành Phật đạo của vị Bồ Tát, được giải thích rất rõ trong Phật Thuyết Bồ Tát Nội Tập Lục Ba La Mật Kinh (佛說菩薩內習六波羅蜜經, Taishō No. 778), gồm:
(1) Bố Thí Ba La Mật (s, p: dāna-pāramitā, 布施波羅蜜), còn gọi là Thí Ba La Mật (施波羅蜜), Đàn Ba La Mật (檀波羅蜜), Đàn Na Ba La Mật (檀那波羅蜜), Bố Thí Độ Vô Cực (布施度無極); có 3 loại bố thí là Tài Thí (財施, bố thí về tiền tài, vật chất), Pháp Thí (法施, bố thí lời dạy, giáo lý để tu tập và đạt được chân lý) và Vô Úy Thí (無畏施, bố thí sự không sợ hãi, giúp cho mọi người an tâm), để đối trị với sự tham lam, keo kiệt và tiêu trừ sự bần cùng.
(2) Trì Giới Ba La Mật (s: śīla-pāramitā, p: sīla-pāramitā, 持戒波羅蜜), còn gọi là Giới Ba La Mật (戒波羅蜜), Thi La Ba La Mật (尸羅波羅蜜), Giới Độ Vô Cực (戒度無極); giữ gìn giới luật đã lãnh thọ, thường tự tỉnh thức, có thể đối trị ác nghiệp, khiến cho thân tâm thanh tịnh.
(3) Nhẫn Nhục Ba La Mật (s: kṣānti-pāramitā, p: khantī-pāramitā, 忍辱波羅蜜), hay Nhẫn Ba La Mật (忍波羅蜜), Sàn Đề Ba La Mật (孱提波羅蜜), Nhẫn Nhục Độ Vô Cực (忍辱度無極); nghĩa là nhẫn nại, chịu đựng các sự bức hại, đối trị sân hận, nóng nảy, giúp cho tâm an trú.
(4) Tinh Tấn Ba La Mật (s: vīrya-pāramitā, p: virya-pāramitā, 精進波羅蜜), hay Tấn Ba La Mật (進波羅蜜), Tỳ Lê Da Ba La Mật (毘梨耶波羅蜜), Tinh Tấn Độ Vô Cực (精進度無極), nỗ lực tinh tấn tiến lên, bất khuất, không thối chí; giúp đối trị sự lười biếng, sinh trưởng các pháp lành.
(5) Thiền Định Ba La Mật (s: dhyāna-pāramitā, p: jhāna-pāramitā, 禪定波羅蜜), hay Thiền Ba La Mật (禪波羅蜜), Thiền Na Ba La Mật (禪那波羅蜜), Thiền Độ Vô Cực (禪度無極); nghĩa là tu tập Thiền định, có thể đối trị sự loạn tâm, giúp cho tâm được an định.
(6) Trí Tuệ Ba La Mật (s: prajñā-pāramitā, p: paññā-pāramitā, 智慧波羅蜜), hay Tuệ Ba La Mật (慧波羅蜜), Bát Nhã Ba La Mật (般若波羅蜜), Minh Độ Vô Cực (明度無極).
Sáu pháp này được thuyết đầu tiên trong kinh Bát Nhã và một số kinh điển Đại Thừa khác và được xem như là hạnh lý tưởng của Phật Giáo Đại Thừa. Đặc biệt, căn bản của các hạnh này có trong Bát Nhã Ba La Mật, và hạnh từ bi vốn căn cứ trên cở sở của Bát Nhã là nội dung của Lục Độ. Trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論) có đoạn: “Lục Ba La Mật giả, tức tịnh Lục Căn dã; Hồ danh Ba La Mật, Hán danh Đạt Bỉ Ngạn, dĩ Lục Căn thanh tịnh, bất nhiễm Lục Trần, tức thị độ phiền não hà, chí Bồ Đề ngạn, cố danh Lục Ba La Mật (六波羅蜜者、卽淨六根也、胡名波羅蜜、漢名達彼岸、以六根清淨、不染六塵、卽是度煩惱河、至菩提岸、故名六波羅蜜, Sáu Ba La Mật tức là làm trong sạch Sáu Căn; người Hồ [Ấn Độ] gọi là Ba La Mật, người Hán [Trung Quốc] gọi là đạt đến bờ bên kia; vì Sáu Căn trong sạch, không nhiễm Sáu Trần, tức là qua được sông phiền não, đến bờ Bồ Đề; cho nên có tên là Sáu Ba La Mật).” Hay như trong Duy Tâm Tập (唯心集, CBETA No. 1208) có đoạn: “Nhất cú A Di Đà, vạn thiện đồng đăng; nhất cú A Di Đà, Lục Độ tề hành; nhất cú A Di Đà, tịnh uế trừng thanh; nhất cú A Di Đà, Đông Tây hợp tinh; nhất cú A Di Đà, bao quát cổ kim; nhất cú A Di Đà, hàm cái càn khôn; nhất cú A Di Đà, chứng nhập vô sanh (一句阿彌陀、萬善同登、一句阿彌陀、六度齊行、一句阿彌陀、淨穢澄清、一句阿彌陀、東西合并、一句阿彌陀、包括古今、一句阿彌陀、函蓋乾坤、一句阿彌陀、證入無生, một câu A Di Đà, vạn thiện cùng lên; một câu A Di Đà, Lục Độ cùng hành; một câu A Di Đà, sạch nhớp lắng trong; một câu A Di Đà, Đông Tây hợp lại; một câu A Di Đà, bao quát cổ kim; một câu A Di Đà, trùm khắp càn khôn; một câu A Di Đà, chứng vào vô sanh).”
(六結): đức Phật lấy một cái khăn ví cho chơn tánh, lấy Sáu Kết dụ cho Sáu Căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; biểu thị cho biết căn chỉ có một, nhưng do vì vọng tướng phân biệt sanh khởi mà có Sáu Căn. Như trong Lăng Nghiêm Kinh Chỉ Chưởng Sớ (楞嚴經指掌疏, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 16, No. 308) quyển 5 có câu: “Nhất thiết hữu tình Lục Kết khả giải cố, nhất nhất thế giới các các hữu Phật (一切有情六結俱可解故、一一世界各各有佛, Sáu Kết của hết thảy hữu tình đều có thể mở được, cho nên mỗi một thế giới đều có Phật).” Hay trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1215) lại có câu: “Giải khai Lục Kết vô dư kết, đãng tận phàm thai dữ Thánh thai (解開六結無餘結、蕩盡凡胎與聖胎, mở bày Sáu Kết không ràng buộc, quét sạch phàm thai với Thánh thai).”
(琉璃世界): hay Tịnh Lưu Ly Thế Giới (淨琉璃世界), Đông Phương Tịnh Lưu Ly Thế Giới (東方淨琉璃世界), Lưu Ly Quang Thế Giới (琉璃光世界), Đông Phương Tịnh Độ (東方淨土), là cõi Tịnh Độ của đức Phật Dược Sư (s: Bhaiṣajyaguru, 藥師), lấy ngọc Lưu Ly (s: vaiḍūrya, 琉璃) làm đất. Theo Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh (s: Bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhāsapūryapraṇidhāna, 藥師瑠璃光如來本願功德經, Taishō No. 450), ngoài 10 hằng hà sa Phật độ có thế giới gọi là Tịnh Lưu Ly (淨瑠璃) và giáo chủ của thế giới đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Thế giới này được gọi là cõi Tịnh Độ ở phương Đông, cũng trang nghiêm như cõi nước Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂) của đức Phật A Di Đà (s: Amitābha, 阿彌陀). Trong thời gian hành Bồ Tát đạo, vị Phật này có phát 12 lời nguyện lớn và nhờ lời nguyện này nên hiện tại ngài thành Phật ở thế giới Tịnh Lưu Ly, có hai vị Bồ Tát Nhật Quang (s: Sūryaprabha, 日光) và Nguyệt Quang (s: Candraprabha, 月光) thường xuyên hộ trì hai bên. Trong Bách Trượng Tùng Lâm Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈叢林清規證義記, CBETA No. 1244) quyển 2 có đoạn: “Do thị hiện suất chúng tăng, cẩn phát thành tâm, tề tụng Đông Phương Lưu Ly Thế Giới, Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát thánh hiệu, dụng thân cứu hộ (由是現率眾僧、謹發誠心、齊誦東方琉璃世界、日光遍照菩薩聖號、用伸救護, nhân đó hiện tại tập trung chúng tăng, dốc hết tâm thành, cùng tụng Đông Phương Lưu Ly Thế Giới, thánh hiệu Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, cầu xin cứu giúp).” Hay trong Phật Thuyết Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng Kinh (佛說北斗七星延命經, Taishō No. 1307) cũng có câu: “Nam Mô Phá Quân Tinh, thị Đông Phương Lưu Ly Thế Giới Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật (南無破軍星、是東方琉璃世界藥師琉璃光如來佛, Kính lễ Phá Quân Tinh, là đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở Thế Giới Lưu Ly phương Đông).”
(法水): nước pháp, có hai nghĩa chính.
(1) Chỉ cho Phật pháp, vì Phật pháp có thể làm cho tiêu trừ phiền não, giống như nước có thể rửa sạch những cấu bẩn; nên có tên gọi như vậy. Như trong Vô Lượng Nghĩa Kinh (無量義經, Taishō Vol. 9, No. 276), Phẩm Thuyết Pháp (說法品) thứ 2 có giải thích rằng: “Pháp thí như thủy, năng tẩy cấu uế; nhược tỉnh, nhược trì, nhược giang, nhược hà, khê, cừ, đại hải, giai tất năng tẩy chư hữu cấu uế; kỳ pháp thủy giả, diệc phục như thị, năng tẩy chúng sanh chư phiền não cấu (法譬如水、能洗垢穢、若井、若池、若江、若河、溪、渠、大海、皆悉能洗諸有垢穢、其法水者、亦復如是、能洗眾生諸煩惱垢, pháp ví như nước, có thể rửa sạch dơ bẩn; như giếng, như hồ, như sông nhỏ, như sông lớn, khe, kênh, biển lớn, đều có thể rửa sạch các dơ bẩn; nước pháp này cũng giống như vậy, có thể rửa sạch các dơ bẩn phiền não của chúng sanh).” Hay trong bài thơ Ngọc Thạch Kệ (玉石偈) của Tô Thức (蘇軾, 1036-1101) nhà Tống có đoạn: “Nguyện dĩ pháp thủy tẩm Ma Ni, đương quán thử thạch như ngõa lịch (願以法水浸摩尼、當觀此石如瓦礫, nguyện lấy nước pháp ngâm Ma Ni, mới biết đá này như ngói sỏi).”
(2) Là loại nước có thể trừ bệnh, xua đuổi tà ma của các Đạo sĩ, thầy pháp. Như trong hồi thứ 6 của Tây Du Bổ (西遊補), tiểu thuyết thần ma tiếp theo Tây Du Ký, của Đổng Thuyết (董說, 1620-1686) nhà Minh có đoạn: “Bị Đạo sĩ nhất khẩu pháp thủy, chỉ kiến địa lập cước bất định, kính vãng Tây Nam khứ liễu (被道士一口法水、只見他立腳不定、逕往西南去了, bị Đạo sĩ phun một bụm nước pháp, chỉ thấy chân không đứng vững trên đất, theo lối tắt đi về phía Tây Nam).” Trong bài Tịnh Tam Nghiệp Văn (淨三業文) của Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 2 có câu: “Thân tâm cấu tịnh bằng pháp thủy dĩ địch trừ, phẫn hận nghiệp tiêu trượng từ phong nhi đãng khứ (身心垢淨憑法水以滌除、忿恨業消仗慈風而蕩去, thân tâm nhớp sạch nhờ nước pháp để tẩy trừ, phẫn hận nghiệp tiêu nương gió từ mà quét sạch).” Hay trong Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 1 có đoạn: “Cố năng tinh luyện Ngũ Minh, diệu thông chư bộ, ý dục vận Tây Vức chi pháp thủy, nhuận Đông Hạ chi khát ngưỡng, phán thân hứa vu hiểm nạn, vụ tồn hoằng đạo chi tâm (故能精練五明、妙通諸部、意欲運西域之法水、潤東夏之渴仰、判身許于險難、務存弘道之心, nên có thể tinh luyện Năm Minh, thông suốt các bộ, ý muốn vận dòng nước pháp của Tây Vức [Ấn Độ], thấm nhuần sự khát mong của Đông Hạ [Trung Quốc], phân thân nơi chốn hiểm nạn, chuyên giữ hoằng đạo thâm tâm).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập