Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi.
(God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới.
(Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Trời không giúp những ai không tự giúp mình.
(Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tiết Trùng Dương
KẾT QUẢ TRA TỪ
Tiết Trùng Dương:
(重陽節): còn gọi là Trùng Cửu (重九), lễ hội vào ngày mồng 9 tháng 9 Âm Lịch. Theo quan niệm âm dương của Nho gia vào thời nhà Hán, có “lục âm cửu dương (六陰九陽, 6 âm 9 dương)”, 9 là số dương; cho nên Trùng Cửu còn gọi là Trùng Dương. Vào dịp này, trong dân gian có tập tục leo lên núi cao chơi; vì vậy tiết này còn gọi là Đăng Cao Tiết (登高節), Thù Du Tiết (茱萸節), Cúc Hoa Tiết (菊花節). Do vì tiết này nhằm vào cửu nguyệt sơ cửu nhật (九月初九日, mồng 9 tháng 9), viết là cửu cửu (九九), đọc âm trùng với cửu cửu (久久), ý nghĩa là dài lâu; nên ngày này người ta cũng tiến hành cúng tế tổ tiên và hoạt động kính trọng người lớn tuổi. Về nguồn gốc của Tiết Trùng Dương, có nhiều thuyết khác nhau. (1) Theo Tục Tề Hài Ký (續齊諧記) của Ngô Quân Chi (吳均之) nhà Lương (梁, 502-557) thời Nam Triều, vào thời Đông Hán (東漢, 25-220), tại Huyện Nhữ Nam (汝南縣) có một người tên là Hoàn Cảnh (桓景), nơi địa phương anh ở bỗng nhiên phát sinh ôn dịch; do đó, cả song thân Hoàn Cảnh đều bị bệnh mà tử vong. Từ đó, ông đến Đông Nam Sơn, tìm thầy học bí thuật; tiên nhân Phí Trường Phòng (費長房) trao cho ông một cây Hàng Ma Thanh Long Kiếm (降妖青龍劍). Hoàn Cảnh thức khuya dậy sớm, trãi qua tháng ngày, siêng năng học tập và khổ luyện. Một hôm nọ, Phí Trường Phòng bảo rằng: “Vào ngày mồng 9 tháng 9, ma dịch bệnh lại đến, ngươi có thể xua đuổi yêu ma trừ hại.” Bèn trao cho Hoàn Cảnh một bao lá Thù Du (茱萸, loại thực vật có chức năng sát trùng, tiêu độc), một bình rượu Hoa Cúc, để cho người già trong làng dùng khi lên núi cao tránh tai họa. Nhân đó, ông trở về cố hương, đúng ngày mồng 9 tháng 9, ông dẫn vợ con, mọi người trong làng lên trên một ngọn núi cao; lấy lá Thù Du phân phát cho mọi người đeo bên mình, nhờ vậy ma dịch bệnh không đến gần được. Rồi lấy rượu Hoa Cúc cho mỗi người uống một hớp, để đề phòng dịch bệnh. Ông cùng với ma dịch bệnh đánh nhau kịch liệt, cuối cùng giết được yêu ma kia. Từ đó, bá tánh lấy ngày mồng 9 tháng 9 làm ngày leo lên núi cao tránh tai họa, và tập tục lên núi cao, đeo túi Thù Du, uống rượu Hoa Cúc cũng hình thành từ đây. Các tác phẩm như Sơ Học Ký (初學記) nhà Đường (唐, 618-907), Thái Bình Ngự Lãm (太平御覽) nhà Tống (宋, 960-1279), v.v., đều có thuật lại sự tích này. (2) Trong Tây Kinh Tạp Ký (西京雜記) của Lưu Hâm (劉歆, khoảng 50 ttl.-23 stl.) có ghi rằng người ái thê của Hán Cao Tổ Lưu Bang (漢高祖劉邦, tại vị 206 ttl.~195 ttl.) là Thích Phu Nhân (戚夫人) bị Lữ Hậu (呂后) sát hại, sau đó người thị nữ của phu nhân là Giá Bội Lan (賈佩蘭) cũng bị trục xuất khỏi cung nội. Khi nói chuyện nhàn hạ, cô thường đề cập đến tập tục trong cung đình, cứ mỗi năm vào ngày mồng 9 tháng 9, mọi người thường mang lá Thù Du, ăn bánh cỏ Bồng, uống rượu hoa cúc, để tránh tà ma, kéo dài mạng sống. (3) Trong Truyện Vương Bột (王勃傳) của Cựu Đường Thư (舊唐書) có ghi rằng bài Tựa Đằng Vương Các (滕王閣序) của Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường được viết nhân Tiết Trùng Dương này. Đương thời phụ thân Vương Bột làm quan ở Giao Chỉ (交趾), ông lê đường đến thăm cha; vào ngày mồng 9 tháng 9 chỉ mới đi qua Nam Xương (南昌). Lúc bấy giờ, vị quan Châu Mục của Hồng Châu (洪州) là Diêm Bá Tự (閻伯嶼) đang mời quan khách, thuộc hạ của ông đến dự yến tiệc trùng tu Đằng Vương Các (滕王閣); nhân đó khoe khoang với mọi người về tài trí của người con rễ Ngô Tử Chương (吳子章), rồi mời quan khách viết bài tựa cho Đằng Vương Các. Ai cũng biết dụng ý của ông, nên chẳng người nào dám viết cả. Chỉ có mình Vương Bột không biết, bèn tự nhiên tiếp bút viết liền. Quan Châu Mục thấy trong lòng sảng khoái, lập tức sai người đứng hai bên xem Vương Bột viết. Không ngờ Vương Bột tài khí phi phàm, văn chương lưu loát, bất ngờ đến câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cọng trường thiên nhất sắc (落霞與孤鶩齊飛、秋水共長天一色, ráng chiều cùng vịt trời đều bay, nước thu với trời xanh một sắc)”, quan Châu Mục không chịu được nữa bèn thốt lên rằng: “Tuyệt hảo !” Và từ đó, Vương Bột nổi danh trong thi đàn. Đối với người Trung Quốc, nhân dịp này họ có một số tập tục đặc biệt như ăn Bánh Trùng Dương, bắn tên, hoạt động kính lão, cúng tế tổ tiên, v.v. Đối với người Nhật Bản thì có tục ăn trái Cà Tím (茄子, eggplant), Hạt Dẻ (栗子, chestnut), Lễ Hội Hoa Cúc, v.v. Đây là lễ hội quan trọng đối với người Trung Quốc, nên từ xưa nay đã có nhiều thơ văn bất hủ đề cập đến, như trong bài Cửu Nhật Đăng Lý Minh Phủ Bắc Lâu (九日登李明府北樓) của Lưu Trường Khanh (劉長卿, 709-780) nhà Đường có câu: “Cửu nhật đăng cao vọng, thương thương viễn thọ đê, nhân yên hồ thảo lí, sơn thúy hiện lâu Tây (九日登高望、蒼蒼遠樹低、人煙湖草裡、山翠現樓西, mông chín lên cao ngắm, xanh um cây rạp đầu, khói vương hồ cỏ rậm, núi biếc hiện lầu Tây).” Thiệu Đại Chấn (邵大震, ?-?), thi nhân nhà Đường, người đồng thời với Vương Bột có làm bài Cửu Nhật Đăng Huyền Võ Sơn Lữ Thiếu (九日登玄武山旅眺): “Cửu nguyệt cửu nhật vọng diêu không, thu thủy thu thiên sanh tịch phong, hàn nhạn nhất hướng nam phi viễn, du nhân kỉ độ cúc hoa tùng (九月九日望遙空、秋水秋天生夕風、寒雁一向南飛遠、遊人幾度菊花叢, mồng chín tháng chín ngắm trời không, nước thu trời thu sanh gió vương, nhạn bay một hướng về nam tít, du nhân mấy độ hoa cúc mừng).” Trong bài Cửu Nguyệt Thập Nhật Tức Sự (九月十日卽事) của thi hào Lý Bạch (李白, 701-762) có câu: “Tạc nhật đăng cao bãi, kim triêu tái cử thương, cúc hoa hà thái khổ, tao thử lưỡng Trùng Dương (昨日登高罷、今朝再舉觴、菊花何太苦、遭此兩重陽, hôm qua lên cao mệt, sáng nay lại nâng ly, hoa cúc sao quá đắng, gặp lại hai Trùng Dương).” Bên cạnh đó, thi hào Vương Duy (王維, 701-761) cũng có bài Cửu Nguyệt Cửu Nhật Ức Sơn Đông Huynh Đệ (九月九日憶山東兄弟) rất nổi tiếng: “Độc tại dị hương vi dị khách, mỗi phùng giai tiết bội tư thân, diêu tri huynh đệ đăng cao xứ, biến tháp Thù Du thiểu nhất nhân (獨在異鄉爲異客、每逢佳節倍思親、遙知兄弟登高處、遍插茱萸少一人, mình chốn tha phương làm lữ khách, mỗi khi tiết đẹp nhớ người thân, xa biết anh em lên cao chốn, ngắt cánh Thù Du chỉ riêng ta)”, v.v.
Xem thêm kết quả tìm kiếm mở rộng Xem thêm kết quả tìm kiếm mở rộng
Bát Tiết
(八節): tám tiết chính trong một năm, gồm: (1) Tiết Xuân (春, đầu năm), (2) Tiết Nguyên Tiêu (元霄, tức Thượng Nguyên [上元], nhằm đêm rằm tháng Giêng âm lịch, còn gọi là Nguyên Tịch [元夕], Nguyên Dạ [元夜]), (3) Tiết Thanh Minh (清明, vào tháng 3 âm lịch, nhằm ngày 5, 6 tháng 4 dương lịch), (4) Tiết Đoan Ngọ (端午, vào ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch, còn gọi là Đoan Ngũ [端五], Đoan Dương [端陽], Trùng Ngũ [重五]), Tiết Quỷ (鬼, tức Trung Nguyên [中元], vào ngày rằm tháng 7 âm lịch), (5) Tiết Trung Thu (中秋, vào ngày rằm tháng 8), (6) Tiết Trùng Dương (重陽, vào ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch, còn gọi là Trùng Cửu [重九]), (7) Tiết Hạ Nguyên (下元, vào ngày rằm tháng 10 âm lịch), (8) Tiết Lạp (臘, tiết cuối năm vào tháng 12 âm lịch). Cũng có thuyết khác cho rằng Bát Tiết là Lập Xuân (立春), Lập Hạ (立夏), Lập Thu (立秋), Lập Đông (立冬), Xuân Phân (春分), Hạ Chí (夏至), Thu Phân (秋分) và Đông Chí (冬至). Như trong Chu Bễ Toán Kinh (周髀算經) quyển hạ có đoạn: “Phàm vi Bát Tiết Nhị Thập Tứ Khí (凡爲八節二十四氣, phàm là Tám Tiết, Hai Mươi Bốn Khí).” Hay trong Hàn Sơn Thi (寒山詩) cũng có câu: “Tứ Thời chu biến dị, Bát Tiết cấp như lưu (四時周變易、八節急如流, Bốn Thời xoay đổi khác, Tám Tiết nước chảy nhanh).” Hoặc như trong Tây Du Ký (四游記), phần Hoa Quang Lai Thiên Điền Quốc Hiển Linh (華光來千田國顯靈) có câu: “Hữu Tứ Thời bất tạ chi hoa, Bát Tiết trường xuân chi cảnh (有四時不謝之花、八節長春之景, có Bốn Thời hoa chẳng rụng, Tám Tiết cảnh sắc trường xuân).”
Tháng Chín âm lịch
có tên gọi khác như Cúc Nguyệt (菊月), Thọ Y Nguyệt (授衣月), Thanh Nữ Nguyệt (青女月), Tiểu Điền Nguyệt (小田月), Bác Nguyệt (剝月), Quán Nguyệt (貫月), Sương Nguyệt (霜月), Trưởng Nguyệt (長月), Tuất Nguyệt (戌月), Hủ Nguyệt (朽月), Vịnh Nguyệt (詠月), Huyền Nguyệt (玄月), Nỉ Giác Nguyệt (禰覺月), Cúc Khai Nguyệt (菊開月), Hồng Diệp Nguyệt (紅葉月), Quý Thu (季秋), Mộ Thu (暮秋), Vãn Thu (晚秋), Cúc Thu (菊秋), Thu Mạt (秋末), Tàn Thu (殘秋), Lương Thu (涼秋), Tố Thu (素秋), Ngũ Âm Nguyệt (五陰月), Cùng Thu (窮秋), Diểu Thu (杪秋), Thu Thương (秋商), Mộ Thương (暮商), Quý Bạch (季白), Vô Xạ (無射), Sương Tự (霜序), Lương Nguyệt (涼月), Tam Thu (三秋), Quý Thương (季商), Cúc Tự (菊序). Một số câu hay cho tháng Chín như hà bàn lạc thúy (荷盤落翠, gương sen không còn sắc xanh biếc), phong cảnh phiêu hồng (楓景飄紅, cảnh cây phong phất phơ màu hồng), giang phong huyến cẩm (江風絢錦, gió sông rực rỡ gấm), ly cúc thư kim (籬菊舒金, cúc bờ rào phô màu vàng óng). Một số từ dùng cho Tiết Trùng Dương (重陽) như Tam Thu hầu túc (三秋候足, khí tiết Ba Thu vừa đủ), vạn bảo cáo thành (萬寶告成, muôn điều quý báu đã thành), hoàng hoa mãn kính (黃花滿徑, hoa vàng khắp lối), hồng diệp doanh câu (紅葉盈溝, lá đỏ đầy rãnh nước), thư truyền tặng cúc (書傳贈菊, thư truyền đi tặng hoa cúc), Mạnh Gia lạc mạo (孟嘉落帽, Mạnh Gia rơi mũ), Hoàn Cảnh đăng cao (桓景登高, Hoàn Cảnh lên núi cao), sương lăng cúc nhị (霜淩菊蕊, sương thấm nhụy hoa cúc), tửu túy Thù Du (酒醉茱萸, rượu say Thù Du). Một số từ dùng cho truy điệu vào tháng này như cùng thanh bi thiết (蛩聲悲切, tiếng dế buồn da diết), nhạn trận hoành không (雁陣橫空, nhạn dàn trận trên không).
Để giới hạn kết quả tìm kiếm chính xác hơn, quý vị có thể nhập 2 hoặc 3 chữ cái đầu vần. Ví dụ, để tìm những chữ như thiền, thiện... quý vị nên nhập thi thay vì t... sẽ cho một kết quả gần với yêu cầu của quý vị hơn.
_______________
TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER) 1200 trang - 54.99 USD
BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK) 1200 trang - 45.99 USD
BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER) 728 trang - 29.99 USD
BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK) 728 trang - 22.99 USD
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đang online: Viên Hiếu Thành Huệ Lộc 1959 Bữu Phước Chúc Huy Minh Pháp Tự minh hung thich Diệu Âm Phúc Thành Phan Huy Triều Phạm Thiên Trương Quang Quý Johny Dinhvinh1964 Pascal Bui Vạn Phúc Giác Quý Trần Thị Huyền Chanhniem Forever NGUYỄN TRỌNG TÀI KỲ Dương Ngọc Cường Mr. Device Tri Huynh Thích Nguyên Mạnh Thích Quảng Ba T TH Tam Thien Tam Nguyễn Sĩ Long caokiem hoangquycong Lãn Tử Ton That Nguyen ngtieudao Lê Quốc Việt Du Miên Quang-Tu Vu phamthanh210 An Khang 63 zeus7777 Trương Ngọc Trân Diệu Tiến ... ...