Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tiên đảo »»
(貝典): kinh điển, thư tịch viết trên lá bối, còn gọi là Bối Diệp Kinh (貝葉經). Như trong Như Tịnh Hòa Thượng Ngữ Lục (如淨和尚語錄, Taishō No. 2002A) quyển Hạ của Thiên Đồng Như Tịnh (天童如淨, 1163-1228) có câu: “Chí tai Khôn Nguyên đản Phật Quốc Ma Da chi thoại, đại hỷ bối điển chúc Tiên Đào Vương Mẫu chi xuân; chánh đương nhậm ma thả đạo, dĩ hà vi nghiệm, Quan Âm anh lạc diệu trang nghiêm, Thế Chí hoa man trường tự tại (至哉坤元誕佛國摩耶之瑞、大矣貝典祝仙桃王母之春、正當恁麼且道、以何爲驗、觀音瓔珞妙莊嚴、勢至花鬘長自在, tuyệt thay càn khôn mừng Phật Quốc Ma Da điềm lành, lớn thay kinh điển chúc Tiên Đào Vương Mẫu mùa xuân; thế nào mới đúng là đạo, lấy gì chứng nghiệm, Quan Âm anh lạc mầu trang nghiêm, Thế Chí tràng hoa luôn tự tại).” Hay như trong Tiên Giác Tông Thừa (先覺宗乘, CBETA No. 1620) quyển 2, phần Đường Tướng Quốc Bùi Hưu (唐相國裴休) có đoạn: “Thường trai giới, bình thị dục, hương lô bối điển, bất ly tả hữu, vịnh ca tán bối, dĩ vi pháp lạc (常齋戒、屛嗜慾、香爐貝典、不離左右、詠歌贊唄、以爲法樂, thường trai giới, giảm ít ham muốn, xông hương đọc kinh, chẳng rời phải trái, vịnh ca tán tụng, lấy làm pháp lạc).” Hoặc trong Biện Ngụy Lục (辯僞錄, Taishō No. 2116) quyển 4 cũng có đoạn rằng: “Mã Minh Long Thọ toản kỳ huy âm, Vô Trước Thiên Thân bá kỳ di mỹ, phi anh thanh ư tứ hải, đằng mậu thật ư bát phương; Pháp Lan Tăng Hội, tê bối điển nhi Đông truyền; Huệ Viễn Đạo Lâm, xướng huyền phong ư Nam quốc; Phật Đồ Trừng chưởng chiếu thiên lý, A Mục Khư tọa nục quần hung; Vệ Đạo An chú giáo khoa kinh, Tùy Trí Giả phân tông lập phái (馬鳴龍樹纂其徽音、無著天親播其遺美、蜚英聲於四海、騰茂實於八方、法蘭僧會、齎貝典而東傳、慧遠道林、唱玄風於南國、佛圖澄掌照千里、阿目佉坐衄群兇、衛道安注敎科經、隋智者分宗立典, Mã Minh và Long Thọ để lại tiếng thơm, Vô Trước và Thế Thân rộng truyền tốt đẹp; vang tiếng tăm khắp bốn biển, gieo hạt giống nơi tám phương; Trúc Pháp Lan và Khương Tăng Hội, mang kinh điển truyền về phương Đông; Huệ Viễn và Đạo Lâm, cao xướng tông phong nơi nước Nam; Phật Đồ Trừng lãnh đạo sáng khắp ngàn dặm, A Mục Khư ngồi đánh bại quần ma; Thích Đạo An nhà Vệ chú giải khoa kinh, Thiên Thai Trí Khải nhà Tùy phân tông lập phái).”
(冥路): đồng nghĩa với minh đồ (冥途), nghĩa là con đường tối tăm (thường ví cho Địa Ngục), hay còn có nghĩa ám chỉ lúc chết. Như trong Đôn Hoàng Biến Văn Tập (敦煌變文集), phần Đại Mục Càn Liên Minh Gian Cứu Mẫu Biến Văn (大目乾連冥間救母變文) có đoạn: “Hồn phách phiêu lưu minh lộ gian, nhược vấn Tam Đồ hà xứ khổ, hàm ngôn Ngũ Đạo quỷ môn quan (魂魄飄流冥路間、若問三塗何處苦、咸言五道鬼門關, hồn phách phiêu lưu u tối gian, nếu hỏi Ba Đường nơi nào khổ, đều cho Năm Nẻo quỷ môn quan).” Hay như trong bài từ Thu Nhụy Hương Dẫn (秋蕊香引) của Liễu Vĩnh (柳永, ?-1053) nhà Tống lại có câu: “Hướng Tiên đảo, quy minh lộ, lưỡng vô tiêu tức (向仙島、歸冥路、兩無消息, người thì hướng đảo tiên, người thì trở về minh lộ, cả hai đều mất tin tức).” Trong Toàn Đường Thi (全唐詩) quyển 865, bài Tặng Đậu Thừa (贈竇丞) của Lưu Khái (劉溉, ?-?) nhà Đường có đoạn: “Minh lộ tra tra nhân bất tri, bất dụng khổ thuyết sử nhân bi, hỷ đắc phùng quân truyền gia tín, hậu hội mang mang hà xứ kỳ (冥路杳杳人不知、不用苦說使人悲、喜得逢君傳家信、後會茫茫何處期, lối mờ mù mịt người có hay, chẳng cần giải thuyết khiến buồn lo, may gặp được anh tin nhà nhắn, mai này mênh mang chốn nào đây ?).” Về nghĩa chỉ lúc gần chết, trong Liêu Trai Chí Dị (聊齋誌異), thiên Liên Hương (蓮香) của Bồ Tùng Linh (蒲松齡, 1640-1715) nhà Thanh có đoạn: “Liên nhập viết: 'Quân đãi hỉ, thị chơn quỷ vật, kỳ nật mỹ nhi bất tốc tuyệt, minh lộ cận hỉ' (蓮入曰:君殆矣、是眞鬼物、暱其美而不速絕、冥路近矣, Liên Hương đi vào nói: 'Ngươi nguy rồi ! Quả đúng là quỷ vật thứ thiệt, gần cái đẹp mà không dứt sớm, cái chết gần kề rồi đó !').”
(桂影): chỉ bóng mặt trăng, ánh trăng. Theo Dậu Dương Tạp Trở (酉陽雜俎) quyển 1, chương Thiên Chỉ (天咫) của tiểu thuyết gia Đoàn Thành Thức (段成式, 803-863) nhà Đường cho biết rằng tương truyền trên mặt trăng có một cây Nguyệt Quế (月桂) cao 500 trượng. Dưới thời nhà Hán có một người tên là Ngô Cương (吳剛), say mê về tiên đạo mà không lo chuyên tâm học tập; vì vậy Thiên Đế nổi giận, đem chàng ta giam tại cung trăng, bắt chàng phải chặt cây quế và bảo rằng nếu như chặt đỗ cây quế đó thì có thể lấy được thuốc tiên. Ngô Cương bắt đầu chặt cây quế, nhưng sau khi chặt xong một nhát đao thì vết chặt tự nhiên liền lại. Ngày qua ngày, chàng trai tận lực đốn cây quế, nhưng không thành. Cho nên, Ngô Cương vẫn còn làm công việc này, vì cây quế vẫn chưa ngã và người đời sau thấy hình tượng chàng thanh niên kia chặt cây quế không ngừng nghỉ. Vì vậy, hình ảnh cây quế luôn gắn liền với mặt trăng qua một số từ ngữ như quế phách (桂魄), quế điện (桂殿), quế nguyệt (桂月), v.v. Như trong bài thơ Sơn Trung Dạ Tọa Ký Cố Lí Hữu Sinh (山中夜坐寄故里友生) của Lý Hàm Dụng (李咸用, ?-?) nhà Đường có câu: “Trùng thanh xúc xúc thôi hương mộng, quế ảnh cao cao quải lữ tình (蟲聲促促催鄉夢、桂影高高掛旅情, tiếng trùng thúc giục cố hương mộng, ánh trăng cao vút chở tình xa).” Trong bài từ Chúc Anh Đài Cận (祝英台近) của Lưu Cơ (劉基, 1311-1375) nhà Minh có đoạn: “Thúy yên thu, châu lộ hạ, tinh Hán cọng tiêu sái, quế ảnh bồi hồi, bạch tuyết xán diêm ngõa (翠煙收、珠露下、星漢共瀟灑、桂影徘徊、白雪粲簷瓦, khói biếc thu, sương châu rụng, ông sao cùng thong thả, bóng trăng bồi hồi, tuyết trắng cười ngói mái nhà).” Trong Sách Pháp Hiệu Nghĩa Biện Phúng Tụng Văn (索法號義辯諷誦文, Taishō Vol. 85, No. 2857) có câu: “Liên hoa ái nhi quế ảnh trầm huy, phương thọ điêu nhi lan tư bãi úc (蓮花靉而桂影沈暉、芳樹彫而蘭姿罷郁, hoa sen tối mà ánh trăng thầm sáng, cây thơm tàn mà dáng lan rực rỡ).”
(十八地獄): còn gọi là Thập Bát Tằng Địa Ngục (十八層地獄), Thập Bát Trùng Địa Ngục (十八重地獄), Thập Bát Nê Lê (十八泥犁). Theo truyền thuyết dân gian Trung Quốc, vua Diêm La (閻羅) là đứng đầu các địa ngục, 18 vị thuộc hạ Phán Quan Theo chủ quản 18 tầng địa ngục. Sau khi truyền vào nước này, Phật Giáo đã lấy tư tưởng này để dùng và giải thích về các tầng địa ngục. Mười Tám Tầng Địa Ngục trong Thập Bát Nê Lê Kinh (十八泥犁地獄) do An Thế Cao (安世高) nhà Đông Hán dịch, lấy sự dài ngắn, tội hình, đẳng cấp, sự nhẹ nặng trong thời gian thọ tội để bài liệt thành. Mỗi địa ngục so với địa ngục trước tăng thêm nỗi khổ lên 20 lần, tăng tuổi thọ thêm 1 lần. Mười Tám Tầng Địa Ngục này có âm dịch Phạn văn như: Quang Tựu Cư (光就居), Cư Hư Thối Lược (居虛倅略), Tang Cư Đô (桑居都), Lâu (樓), Phòng Tốt (房卒), Thảo Ô Ti Thứ (草烏卑次), Đô Lô Nan Đán (都盧難旦), Bất Lô Bán Hô (不盧半呼), Ô Cánh Đô (烏竟都), Nê Lô Đô (泥盧都), Ô Lược (烏略), Ô Mãn (烏滿), Ô Tạ (烏藉), Ô Hô (烏呼), Tu Kiện Cư (須健居), Mạt Đô Can Trực Hô (末都干直呼), Khu Thông Đồ (區通途), Trần Mạc (陳莫). Chữ “tầng (層)” trong Mười Tám Tầng Địa Ngục không phải chỉ cho phương trên dưới về mặt không gian, mà đối với thời gian cũng như hình pháp vốn bất đồng, cho nên nó có ý nghĩa về mặt thời gian nhiều hơn. Tầng địa ngục thứ nhất lấy tuổi thọ con người 3750 năm là 1 ngày, 30 ngày là 1 tháng, 12 tháng là 1 năm, tội quỷ chịu hình phạt ở chốn địa ngục này đến 1 vạn năm (tức 135 ức năm trên cõi người). Thời gian thọ hình phạt ở các tầng địa ngục sau thì lấy thời gian thọ hình ở đia ngục trước tăng lên gấp hai lần. Thuyết về Mười Tám Tầng Địa Ngục vốn phát xuất từ Bà La Môn Giáo của Ấn Độ ngày xưa và về sau có những thay đổi khác. Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (觀佛三昧海經) quyển 5 có nêu rõ 18 loại địa ngục (s: naraka, niraya, p: niraya, 地獄) nhỏ như A Tỳ Địa Ngục (阿鼻地獄), 18 Địa Ngục Lạnh (十八寒地獄, Thập Bát Hàn Địa Ngục), 18 Địa Ngục Tối Tăm (十八黑闇地獄, Thập Bát Hắc Ám Địa Ngục), 18 Địa Ngục Nóng Ít (十八小熱地獄, Thập Bát Tiểu Nhiệt Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vòng Tròn Đao (十八刀輪地獄, Thập Bát Đao Luân Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vòng Tròn Kiếm (十八劍輪地獄, Thập Bát Kiếm Luân Địa Ngục), 18 Địa Ngục Xe Lửa (十八火車地獄, Thập Bát Hỏa Xa Địa Ngục), 18 Địa Ngục Phân Sôi (十八沸屎地獄, Thập Bát Phí Thỉ Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vạc Nước Sôi (十八鑊湯地獄, Thập Bát Hoạch Thang Địa Ngục), 18 Địa Ngục Sông Tro (十八灰河地獄, Thập Bát Hôi Hà Địa Ngục), 18 Địa Ngục Đá Nhọn (十八尖石地獄, Thập Bát Tiêm Thạch Địa Ngục), 18 Địa Ngục Hang Thép (十八鐵窟地獄, Thập Bát Thiết Quật Địa Ngục), 18 Địa Ngục Uống Nước Đồng (十八飲銅地獄, Thập Bát ẩm Đồng Địa Ngục), v.v. Trong Lương Thư (梁書) có kể câu chuyện Lưu Tát Hà (劉薩河) người Hồ do bị bệnh nặng mà chết, nhưng 10 ngày sau thì sống lại và ông tự cho rằng đã đi qua 18 tầng địa ngục. Như vậy, đến thời nhà Lương, tín ngưỡng về 18 tầng địa ngục đã rất thịnh hành và lưu truyền trong dân gian Trung Quốc. Ngoài ra, tên gọi của 18 tầng địa ngục này có khác nhau tùy theo các thư tịch kinh điển. Theo Gián Địa Ngục Kinh (間地獄經), 18 tầng địa ngục là Nê Lê Địa Ngục (泥犁地獄), Đao Sơn Địa Ngục (刀山地獄, Địa Ngục Núi Đao), Phí Sa Địa Ngục (沸沙地獄, Địa Ngục Cát Sôi), Phí Thỉ Địa Ngục (沸屎地獄, Địa Ngục Phân Sôi), Hắc Thân Địa Ngục (黑身地獄, Địa Ngục Thân Đen), Hỏa Xa Địa Ngục (火車地獄, Địa Ngục Xe Lửa), Hoạch Thang Địa Ngục (鑊湯地獄, Địa Ngục Vạc Nước Sôi), Thiết Sàng Địa Ngục (鐵床地獄, Địa Ngục Giưòng Sắt), Cái Sơn Địa Ngục (蓋山地獄, Địa Ngục Vung Núi), Hàn Băng Địa Ngục (寒冰地獄, Địa Ngục Băng Lạnh), Bác Bì Địa Ngục (剝河地獄, Địa Ngục Lột Da), Súc Sanh Địa Ngục (畜生地獄, Địa Ngục Súc Sanh), Đao Binh Địa Ngục (刀兵地獄, Địa Ngục Đao Binh), Thiết Ma Địa Ngục (鐵磨地獄, Địa Ngục Mài Sắt), Băng Địa Ngục (冰地獄, Địa Ngục Băng), Thiết Sách Địa Ngục (鐵册地獄, Địa Ngục Sách Sắt), Thư Trùng Địa Ngục (蛆蟲地獄, Địa Ngục Con Giòi), Dương Đồng Địa Ngục (烊銅地獄, Địa Ngục Nấu Đồng). Trong Thủy Lục Toàn Đồ (水陸全圖) có Bạt Thiệt Địa Ngục (拔舌地獄, Địa Ngục Kéo Lưỡi), Tiễn Đao Địa Ngục (剪刀地獄, Địa Ngục Dao Cắt), Thiết Thọ Địa Ngục (鐵樹地獄, Địa Ngục Cây Sắt), Nghiệt Kính Địa Ngục (孽鏡地獄, Địa Ngục Kính Yêu), Chưng Lung Địa Ngục (蒸籠地獄, Địa Ngục Lồng Hơi Nóng), Đồng Trụ Địa Ngục (銅柱地獄, Địa Ngục Trụ Đồng), Đao Sơn Địa Ngục (刀山地獄, Địa Ngục Núi Đao), Băng Sơn Địa Ngục (冰山地獄, Địa Ngục Núi Băng), Du Oa Địa Ngục (油鍋地獄, Địa Ngục Nồi Dầu), Ngưu Kháng Địa Ngục (牛坑地獄, Địa Ngục Hầm Trâu), Thạch Áp Địa Ngục (壓石地獄, Địa Ngục Đá Đè), Thung Cữu Địa Ngục (舂臼地獄, Địa Ngục Cối Xay), Huyết Trì Địa Ngục (血池地獄, Địa Ngục Hồ Máu), Uổng Tử Địa Ngục (枉死地獄, Địa Ngục Chết Uổng), Trách Hình Địa Ngục (磔刑地獄, Địa Ngục Phanh Thây), Hỏa Sơn Địa Ngục (火山地獄, Địa Ngục Núi Lửa), Thạch Ma Địa Ngục (石磨地獄, Địa Ngục Mài Đá), và Đao Cứ Địa Ngục (刀鋸地獄, Địa Ngục Cưa Dao). Tại thành của Phong Đô Quỷ (酆都鬼), hai bên đại điện của Thiên Tử có chia thành Đông Địa Ngục và Tây Địa Ngục. Đông Địa Ngục gồm Ma Thôi Địa Ngục (磨推地獄, Địa Ngục Mài Kéo), Oạt Tâm Địa Ngục (挖心地獄, Địa Ngục Móc Tim), Hỏa Lạc Địa Ngục (火烙地獄, Địa Ngục Áp Lửa), Hàn Thủy Địa Ngục (寒水地獄, Địa Ngục Nước Lạnh), Đao Sơn Địa Ngục (刀山地獄, Địa Ngục Núi Đao), Xa Liệt Địa Ngục (車裂地獄, Địa Ngục Xe Nghiền), Thư Trùng Địa Ngục (蛆蟲地獄, Địa Ngục Con Giòi), Bác Bì Địa Ngục (剝皮地獄, Địa Ngục Lột Da). Tây Địa Ngục có Đối Thung Địa Ngục (碓舂地獄, Địa Ngục Cối Xay), Cứ Giải Địa Ngục (鋸解地獄, Địa Ngục Cưa Xẻ), Du Oa Địa Ngục (油鍋地獄, Địa Ngục Nồi Dầu), Bạt Thiệt Địa Ngục (拔舌地獄, Địa Ngục Kéo Lưỡi), Bổ Kinh Địa Ngục (補經地獄, Địa Ngục Vá Dây), Chuyển Luân Địa Ngục (轉輪地獄, Địa Ngục Chuyển Luân), Súc Sanh Địa Ngục (畜生地獄, Địa Ngục Súc Sanh) và Hoạch Thang Địa Ngục (鑊湯地獄, Địa Ngục Vạc Nước Sôi).
(無空, Mukū, ?-918): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, Tọa Chủ đời thứ 2 của Cao Dã Sơn, húy là Vô Không (無空). Ban đầu ông theo học Mật Giáo với Chơn Nhiên (眞然), rồi sau đó trở thành Tọa Chủ của Cao Dã Sơn. Vào năm 900, nhân khi Vũ Đa Pháp Hoàng (宇多法皇) đi tham bái các chùa, ông làm tiền đạo dẫn đường cho Pháp Hoàng. Năm 912, Quán Hiền (觀賢) ở Đông Tự yêu cầu ông trả lại bộ Tam Thập Thiếp Sách Tử (三十帖册子) của Không Hải, nhưng ông từ chối; đến năm 916, ông lấy bộ sách này cùng với chúng đệ tử đến Vi Đề Tự (圍堤寺) ở vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro), rồi sau đó chuyển sang Liên Đài Tự (蓮台寺) ở Y Hạ (伊賀, Iga) và qua đời tại đó.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập