Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thường Tịch Quang Độ »»
(妙覺): tự giác ngộ chính mình, làm cho người khác giác ngộ, sự giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, đó gọi là Diệu Giác; tức là quả vị Phật vô thượng chánh giác; là một trong 52 hay 42 giai vị tu hành của Bồ Tát Đại Thừa; còn gọi là Diệu Giác Địa (妙覺地). Hàng Nhị Thừa (Thanh Văn [s: śrāvaka, 聲聞] và Duyên Giác [s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺]) thì dừng lại ở cấp độ tự giác, không có công năng giác tha. Còn Bồ Tát tuy cùng song hành cả tự giác lẫn giác tha, nhưng chưa viên mãn; chỉ có Phật mới viên mãn cả hai, thể giác ngộ không thể nghĩ bàn. Tam Tạng Pháp Số (三藏法數) quyển 26 định nghĩa rằng: “Tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn, bất khả tư nghì, cố danh Diệu Giác Tánh (自覺覺他、覺行圓滿、不可思議、故名妙覺性, tự mình giác ngộ, làm cho người khác giác ngộ, giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, nên gọi là Tánh Diệu Giác).” Thiên Thai Tứ Giáo Nghi (天台四敎儀, Taishō Vol. 46, No. 1931) do Sa Môn Đế Quán (諦觀) người Cao Lệ thâu lục, giải thích rõ sự sai khác giữa Diệu Giác của Biệt Giáo và Viên Giáo thế nào. Quả vị Diệu Giác của Biệt Giáo ngồi trên tòa Đại Bảo Hoa Vương (大寶華王), dưới cây bồ đề có bảy báu thuộc thế giới Liên Hoa Tạng (蓮華藏), hiện Viên Mãn Báo Thân (圓滿報身), vì các Bồ Tát độn căn mà chuyển vô lương bánh xe pháp Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦). Trong khi đó, quả vị Diệu Giác của Viên Giáo thì lấy hư không làm tòa ngồi, thành tựu Thanh Tịnh Pháp Thân (清淨法身), trú tại Thường Tịch Quang Độ (常寂光土). Như trong Ngột Am Phổ Ninh Thiền Sư Ngữ Lục (兀菴普寧禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1404) có giải thích rằng: “Chí thử Diệu Giác vị, vị chi Như Lai địa, thuyết pháp như vân, lợi sanh như vũ, tự lợi lợi tha, độ vị độ dã (至此妙覺位、謂之如來地、說法如雲、利生如雨、自利利他、度未度也, đạt đến quả vị Diệu Giác này, gọi đó là cảnh địa của Như Lai, thuyết pháp như mây, làm lợi ích quần sanh như mưa, tự lợi và lợi tha, độ cho những người chưa được độ).” Hay trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, lại có câu: “Vị nhân nhân diệu giác bổn vô phàm thánh, vật vật toàn chân ninh hữu tịnh uế (謂人人妙覺本無凡聖、物物全眞寧有淨穢, bảo rằng người người diệu giác vốn không phàm thánh, vật vật toàn chân sao có sạch nhớp).”
(行空, Gyōkū, ?-?): vị Tăng của Tịnh Độ Tông sống khoảng vào đầu thời Liêm Thương, húy là Hành Không (行空), hiệu là Pháp Bổn Phòng (法本房), Pháp Bảo Phòng (法寶房), xuất thân vùng Mỹ Nùng (美濃, Mino, thuộc vùng Gifu-ken [岐阜縣]). Ông theo hầu Nguyên Không (源空, Genkū, tức Pháp Nhiên) và học Tịnh Độ Giáo với vị này, rồi đến năm 1204 thì ký tên vào bản Bảy Điều Răn Dạy. Ông chủ xướng Nghĩa Nhất Niệm (一念義, tức là Nghĩa Vãng Sanh về cõi Thường Tịch Quang Độ), rồi năm 1206 thì phá môn bỏ đạo, và năm sau thì gặp phải vụ Pháp Nạn Kiến Vĩnh (建永), ông bị xử tội lưu đày đến vùng Tá Độ (佐渡, Sado).
(常寂光): từ gọi tắt của Thường Tịch Quang Độ (常寂光土), là cõi Tịnh Độ nơi pháp thân của chư Phật Như Lai an trú, một trong 4 quốc độ của giáo thuyết Thiên Thai Tông, còn gọi là Tịch Quang Tịnh Độ (寂光淨土), Tịch Quang Quốc (寂光國), Tịch Quang Độ (寂光土), Tịch Quang (寂光). Thế giới an trú của chư Phật là bản tánh chân như, không biến hóa, sanh diệt (tức thường [常]), không bị phiền não nhiễu loạn (tức tịch [寂]) và có ánh sáng trí tuệ (tức quang [光]), cho nên có tên gọi là Thường Tịch Quang Độ. Đây là quốc độ chư Phật tự chứng bí tạng tối cùng cực, lấy pháp thân, giải thoát và bát nhã làm thể, đầy đủ 4 đức Thường (常), Lạc (樂), Ngã (我) và Tịnh (淨). Trong Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh (觀普賢菩薩行法經, Taishō 9, 393) có đoạn rằng: “Thích Ca Mâu Ni Phật danh Tỳ Lô Giá Na Biến Nhất Thiết Xứ, kỳ Phật trú xứ danh Thường Tịch Quang, Thường Ba La Mật sở nhiếp thành xứ, Ngã Ba La Mật sở an lập xứ, Tịch Ba La Mật diệt hữu tướng xứ, Lạc Ba La Mật bất trú thân tâm tướng xứ (釋迦牟尼佛名毘盧遮那遍一切處、其佛住處名常寂光、常波羅蜜所攝成處、我波羅蜜所安立處、淨波羅蜜滅有相處、樂波羅蜜不住身心相處, đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật có tên là Tỳ Lô Giá Na Biến Nhất Thiết Xứ [Tỳ Lô Giá Na Biến Hết Thảy Các Nơi], trú xứ của Phật ấy tên là Thường Tịch Quang, nghĩa là nơi được nhiếp thành của Thường Ba La Mật, nơi được an lập của Ngã Ba La Mật, nơi diệt hết các tướng có của Tịch Ba La Mật và nơi không trú vào tướng thân tâm của Lạc Ba La Mật)”. Hơn nữa, quốc độ này được phân thành Phần Chứng (分證) và Cứu Cánh (究竟) với 3 phẩm thượng, trung, hạ. Theo lời dạy trong quyển 1 của Duy Ma Kinh Lược Sớ (維摩經略疏) cho biết rằng cõi của Diệu Giác Pháp Thân (妙覺法身) cư trú là Thượng Phẩm Tịch Quang Độ (上品寂光土), cõi của Nhất Sanh Đẳng Giác (一生等覺) là Trung Phẩm Tịch Quang Độ (寂光土), cõi của Viên Giáo (圓敎) từ sơ trú trở lên là Hạ Phẩm Tịch Quang Độ (寂光土). Ngoài ra, vị tăng nhà Bắc Tống là Tứ Minh Tri Lễ (四明知禮) lấy hai cõi Thật Báo (實報) và Tịch Quang (寂光) phối hợp thành Thỉ Giác (始覺) và Bản Giác (本覺), để xướng ra thuyết “Tịch Quang Hữu Tướng (寂光有相, Tịch Quang Có Tướng)”; ngược lại vị tăng Tịnh Giác (淨覺) lại tuyên xướng thuyết “Tịch Quang Vô Tướng (寂光無相, Tịch Quang Không Tướng).” Trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải (佛說阿彌陀經要解) của Đại Sư Ngẫu Ích Trí Húc (蕅益智旭, 1599-1655) nhà Thanh có đoạn rằng: “Phục thứ, chỉ thử nguyện trang nghiêm nhất thanh A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược vi Thanh Tịnh Hải Hội, chuyển Kiến Trược vi Vô Lượng Quang, chuyển Phiền Não Trược vi Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược vi Liên Hoa hóa sanh, chuyển Mạng Trược vi Vô Lượng Thọ; cố nhất thanh A Di Đà Phật, tức Thích Ca Bổn Sư ư Ngũ Trược ác thế, sở đắc chi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp (復次、只此信願莊嚴一聲阿彌陀佛、轉劫濁爲清淨海會、轉見濁爲無量光、轉煩惱濁爲常寂光、轉眾生濁爲蓮華化生、轉命濁爲無量壽、故一聲阿彌陀佛、卽釋迦本師於五濁惡世、所得之阿耨多羅三藐三菩提法, lại nữa, chỉ lấy nguyện này trang nghiêm một tiếng niệm A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược thành Hải Hội Thanh Tịnh, chuyển Kiến Trược thành Vô Lượng Quang, chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược thành hoa sen hóa sanh, chuyển Mạng Trược thành Vô Lượng Thọ; cho nên một tiếng niệm A Di Đà Phật là pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề do đức Bổn Sư Thích Ca chứng đắc ở đời ác có Năm Trược).” Hay như trong Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận (靈峰蕅益大師宗論) quyển 6, phần Cảnh Tâm Cư Sĩ Trì Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Kiêm Khuyến Nhân Tự (警心居士持地藏本願經兼勸人序) có câu: “Nhất niệm mê Thường Tịch Quang Độ tiện thành A Tỳ Địa Ngục, nhất niệm ngộ A Tỳ Địa Ngục tiện thị Thường Tịch Quang Độ (一念迷常寂光土便成阿鼻地獄、一念悟阿鼻地獄便是常寂光土, một niệm mê bèn thành Địa Ngục A Tỳ, một niệm ngộ tức là Thường Tịch Quang Độ).”
(淨土, Jōdo): hai chữ lấy từ câu “Thanh Tịnh Quốc Độ (清淨國土)” của bản Hán dịch Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經). Theo Thỉ Hoàng Bổn Kỷ (始皇本紀) của Sử Ký (史記), Thanh Tịnh (清淨, trong sạch) nghĩa là “(quốc độ) trong ngoài thanh tịnh”. Bên cạnh đó, từ này còn gọi là Tịnh Sát (淨刹). Chữ sát (刹) trong trường hợp này là âm tả của tiếng Sanskrit kṣetra, nghĩa là thế giới vĩnh viễn có phước đức trong sạch; đối xứng với thế giới này là thế giới hiện thực Uế Độ (穢土). Nếu cho rằng Uế Độ là thế giới của kẻ phàm phu thì Tịnh Độ là thế giới của chư Phật (thường được gọi là Phật Độ [佛土], Phật Quốc [佛國], Phật Giới [佛界], Phật Sát [佛刹]). Trong lịch sử tư tưởng Phật Giáo, Tịnh Độ được chia thành 3 loại: Lai Thế Tịnh Độ (來世淨土), Tịnh Phật Quốc Độ (淨佛國土) và Thường Tịch Quang Độ (常寂光土). Lai Thế Tịnh Độ là cõi Tịnh Độ sau khi chết, được lập ra cho đời sau, tưởng định ở bốn hướng đông tây nam bắc như thế giới Tây Phương Cực Lạc (西方極樂) của A Di Đà Phật (s: Amitābha Buddha, 阿彌陀佛), Đông Phương Diệu Hỷ Quốc (東方妙喜國) của A Súc Phật (s: Akṣobhya Buddha, 阿閦佛) là nổi tiếng nhất. Nguyên lai, cõi này được nghĩ ra theo hướng sung bái đức Phật và vốn phát xuất từ tư tưởng chư phật ở quốc độ khác đời sau. Nói tóm lại, đức Phật của cõi hiện tại không có, nhưng nếu sau khi mạng chung đời sau được sanh về thế giới khác thì sẽ được gặp chư Phật. Tín ngưỡng vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc của A Di Đà Phật rất thịnh hành ở Nhật Bản, từ đó phát sanh tín ngưỡng ngay lúc lâm chung có A Di Đà Phật đến tiếp rước (lai nghênh [來迎]). Những tín ngưỡng này được giáo lý hóa và tư tuởng Tịnh Độ Niệm Phật phát triển mạnh, từ đó tranh vẽ về các đồ hình Tịnh Độ Biến Tướng cũng như Lai Nghênh xuất hiện. Tịnh Phật Quốc Độ có nghĩa là “làm trong sạch quốc độ Phật”. Nguyên lai, Phật Quốc Độ (s: buddha-kṣetra, 佛國土) ám chỉ tất cả thế giới do chư Phật thống lãnh, nhưng ở đây muốn nói đến thế giới hiện thực; cho nên Tịnh Phật Quốc Độ còn có nghĩa là Tịnh Độ hóa thế giới hiện thực. Nói cách khác, đây là cõi Tịnh Độ của hiện thực. Trong kinh điển Đại Thừa có thuyết rằng chư vị Bồ Tát thường nỗ lực giáo hóa trong Tịnh Phật Quốc Độ, vì vậy thế giới được lập nên với sự nỗ lực của vị Bồ Tát luôn tinh tấn thực hành Phật đạo trong cõi hiện thực chính là Tịnh Phật Quốc Độ. Từ đó, thông qua sự hoạt động của hàng Phật Giáo đồ Đại Thừa trong xã hội hiện thực, đây là cõi Tịnh Độ được nghĩ ra đầu tiên. Thường Tịch Quang Độ là cõi Tịnh Độ tuyệt đối vượt qua tất cả hạn định, nếu nói một cách tích cực thông qua tín ngưỡng, đây là cõi Tịnh Độ ngay chính trong hiện tại, bây giờ, ở đây. Với ý nghĩa đó, đây là cõi Tịnh Độ tồn tại ngay trong hiện thưc này. Chính Thiên Thai Trí Khải (天台智顗) có thuyết về thế giới này, như trong Duy Ma Kinh Văn Sớ (維摩文疏) có lập ra 4 quốc độ, đặt Thường Tịch Quang Độ là cõi Tịnh Độ tuyệt đối, cứu cánh cuối cùng, cõi có Phật thân là Pháp Thân Độ (法身土), hay còn gọi là Pháp Tánh Độ (法性土). Cách gọi tên Thường Tịch Quang Độ được lấy từ Quán Phổ Hiền Kinh (觀普賢經), phần kết kinh của Pháp Hoa Kinh (法華經). Thế giới hiện thực còn được gọi là thế giới Ta Bà (s, p: sahā, 娑婆), cõi Thường Tịch Quang Độ vốn có trong thế giới Ta Bà, cho nên xuất hiện câu “Ta Bà tức Tịch Quang (娑婆卽寂光)”. Ba loại thuyết về Tịnh Độ vừa nêu trên đôi khi có mâu thuẩn, đối lập nhau. Tỷ dụ như, Lai Thế Tịnh Độ là cõi hạn định và tương đối nhất, là thuyết phương tiện cho hạng có căn cơ thấp kém; nhưng thuyết chân thật thì cho cõi này là Thường Tịch Quang Độ—Tịnh Độ tuyệt đối vượt qua khỏi mọi giới hạn của nơi này và nơi kia, sống và chết; cho nên pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật dựa trên cơ sở của Lai Thế Tịnh Độ bị phê phán không ít và sự tuyệt đối hóa chính cõi Lai Thế Tịnh Độ cũng được thử nghiệm xem sao. Từ lập trường khẳng định hiện thực của tư tưởng Bản Giác, v.v., Thường Tịch Quang Độ rất được hoan nghênh. Tuy nhiên, khi lâm chung, con người vẫn có nguyện vọng được vãng sanh. Với một sự thật không thể nào chối từ được như vậy, ngay như Trí Khải—người từng cho rằng Lai Thế Tịnh Độ là cõi thấp đi chăng nữa, vẫn có niệm nguyện được vãng sanh về cõi Tịnh Độ của Phật Di Đà lúc ông lâm chung. Tại Nhật Bản, cho đến nay tín ngưỡng Lai Thế Tịnh Độ vẫn tiếp tục cắm sâu gốc rễ và bối cảnh của tín ngưỡng này có liên quan đến tâm tình giống như trường hợp Trí Khải.
(四土): còn gọi là Tứ Phật Độ (四佛土), Tứ Chủng Phật Độ (四種佛土), Tứ Chủng Tịnh Độ (四種淨土), Tứ Chủng Quốc Độ (四種國土); nghĩa là 4 loại quốc độ Phật. Có nhiều thuyết khác nhau về quan niệm này. Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397), Tổ sáng lập ra Thiên Thai Tông Trung Quốc, lập ra 4 loại Phật Độ là Phàm Thánh Đồng Cư Độ (凡聖同居土), Phương Tiện Hữu Dư Độ (方便有餘土), Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ (實報莊嚴土), Thường Tịch Quang Độ (常寂光土).
(1) Phàm Thánh Đồng Cư Độ, còn gọi là Nhiễm Tịnh Đồng Cư Độ (染淨同居土), Nhiễm Tịnh Quốc (染淨國); chỉ quốc độ cùng tồn tại chung của hạng phàm phu thuộc hai cõi Trời người và chư vị Thánh như Thanh Văn (s: śrāvaka, 聲聞), Duyên Giác (s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺). Trong đó, cõi này được chia thành 2 loại là tịnh và uế, như thế giới Ta Bà (s, p: sahā, 娑婆) là Đồng Cư Uế Độ (同居穢土), Tây Phương Cực Lạc (西方極樂) là Đồng Cư Tịnh Độ (同居淨土).
(2) Phương Tiện Hữu Dư Độ, còn gọi là Phương Tiện Độ (方便土), Hữu Dư Độ (有餘土); chỉ cho quốc độ của những bậc Thánh tu đạo phương tiện, đã đoạn tận Kiến, Tư, Hoặc như Bích Chi Phật (辟支佛), A La Hán (s: arhat, p: arahant, 阿羅漢), v.v.; nên được gọi là phương tiện (s, p: upāya, 方便), nhưng chưa đoạn tận sự mê mờ về vô minh trần sa, mới có tên là hữu dư (有餘, vẫn còn dư, còn sót). Cõi này còn được gọi là Biến Dịch Độ (變易土).
(3) Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ, còn gọi là Thật Báo Độ (實報土), Quả Báo Độ (果報土), là quốc độ của chư vị Bồ Tát (s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩) đã đoạn trừ một phần của Vô Minh (s: avidyā, p: avijjā, 無明), không có hàng phàm phu của Hai Thừa. Đây là quốc độ tự tại vô ngại của đạo chân thật, nên có tên gọi như vậy.
(4) Thường Tịch Quang Độ, còn gọi là Lý Tánh Độ (理性土); là trú xứ của chư Phật đã đoạn tận căn bản Vô Minh, tức là quốc độ của chư Phật chứng quả Diệu Giác Cứu Cánh. Thường nghĩa là thường có Pháp Thân (s: dharma-kāya, 法身), vốn có thể thường trú; Tịch ở đây là giải thoát, tức hết thảy các tướng vĩnh viễn vắng lặng; Quang là Bát Nhã (s: prajñā, p: paññā, 般若), tức là trí tuệ chiếu soi các tướng; nên cõi này cũng là quốc độ của ba đức Thường Trú (Pháp Thân), Tịch Diệt (Giải Thoát) và Quang Minh (Bát Nhã). Ba đức này có tên là Bí Mật Tạng (秘密藏), là nơi nương tựa của chư Phật Như Lai; vì vậy mới được gọi là Thường Tịch Quang Độ.
Bên cạnh đó, Pháp Thường (法常, 567-645), Trí Nghiễm (智儼, 602-668), Đạo Tuyên (道宣, 596-667) và Huyền Uẩn (玄惲, ?-?, tức Đạo Thế [道世], người soạn bộ Pháp Uyển Châu Lâm [法苑珠林]) có lập ra Tứ Độ khác do chư Phật cư trú, gồm:
(1) Hóa Tịnh Độ (化淨土), do chư Phật biến hiện ra 7 loại báu, 5 Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc); nhờ thần lực của Phật mà mặt đất mềm mại, không có gò trũng, cát đá, v.v., giống như cõi Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc, tùy theo tâm chúng sanh muốn thấy mà hóa hiện ra; và đây cũng là quốc độ của Hóa Thân (s: nirmāṇa-kāya, 化身).
(2) Sự Tịnh Độ (事淨土), lấy 7 loại báu, 5 Trần làm hình tướng của quốc độ. Trong cõi này, có đầy đủ các loại trân bảo trang nghiêm vi diệu; giả như thế giới bị bốc lửa cháy rực, đức Như Lai trú trong đó vẫn đi kinh hành, vẫn an nhiên đi đứng nằm ngồi, cõi ấy tự nhiên từ trong đất hiện ra nước có Tám Công Đức, làm cho mát mẻ. Đây là quốc độ của Tha Thọ Dụng Thân (他受用身, tức Ứng Thân [s: nirmāṇa-kāya, 應身]).
(3) Thật Báo Tịnh Độ (實報淨土), quốc độ lấy Hai Không là cửa, Ba Tuệ làm con đường ra vào; Xa Ma Tha (s: samatha, 奢摩他, Thiền Định), Tỳ Bát Xá Na (p: vipassanā, 毘鉢舍那, Quán) làm cỗ xe; Căn Bản Vô Phân Biệt Trí (根本無分別智) làm dụng. Đây là quốc độ của Tự Thọ Dụng Thân (自受用身, tức Báo Thân [s: sambhoga-kāya, 報身]).
(4) Pháp Tánh Tịnh Độ (法性淨土), quốc độ lấy chân như làm thể, là cõi của Pháp Thân.
Ngoài ra, Duy Thức Tông lại lập ra 4 loại quốc độ khác là:
(1) Pháp Tánh Độ (法性土), còn gọi là Tự Tánh Thân Y Pháp Tánh Độ (自性法身依法性土). Tự Tánh Thân tức là Pháp Thân, lấy tự tánh chân như làm thân, thể không sai biệt, không bị sắc tướng thâu nhiếp, giống như hư không, biến khắp tất cả nơi.
(2) Tự Thọ Dụng Độ (自受用土), còn gọi là Tự Thọ Dụng Thân Y Tự Thọ Dụng Độ (自受用身依自受用土), tức là Thật Báo Độ (實報土), là do đức Phật lấy Tương Ứng Tịnh Thức (相應淨識) tu mà thành tựu nên; từ khi mới thành Phật cho đến tận cùng tương lai, liên tục biến thành quốc độ Phật thuần tịnh, chu vi không giới hạn, các loại báu trang nghiêm. Tự Thọ Dụng Thân nương vào cõi này mà trú.
(3) Tha Thọ Dụng Độ (他受用土), còn gọi là Tha Thọ Dụng Thân Y Tha Thọ Dụng Độ (他受用身依他受用土), cũng là Thật Báo Độ. Đức Phật lấy năng lực đại từ bi, tùy theo sự thích nghi của các Bồ Tát trong Thập Địa (s: daśa-bhūmi, 十地) mà biến thành cõi Tịnh Độ. Tha Thọ Dụng Thân nương vào cõi này mà trú.
(4) Biến Hóa Độ (變化土), còn gọi là Biến Hóa Thân Y Biến Hóa Độ (變化身依變化土). Đức Phật lấy năng lực đại từ bi, tùy theo sự thích nghi của chúng sanh có duyên mà biến hóa thành.
Trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) quyển 3 có đoạn: “Tứ Độ Liên Hoa Tứ Độ hương, độ trung các các kiến Từ Vương, Quan Âm thường hoán si nhân tỉnh, Đại Thế tần thôi liên ngạc phương, tự tại nhàn vân Tam Muội đắc, thanh u Cam Lộ nhất tâm lương (四土蓮花四土香、土中各各見慈王、觀音常喚癡人醒、大勢頻催蓮萼芳、自在閒雲三昧得、清幽甘露一心涼, Bốn Cõi Hoa Sen Bốn Cõi thơm, cõi ấy mỗi mỗi thấy Từ Vương, Quan Âm thường gọi người mê tỉnh, Thế Chí luôn bày sen ngát hương, tự tại mây nhàn Tam Muội chứng, an lành Cam Lộ tâm mát trong).” Hay trong Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tuyển Định Tịnh Độ Thập Yếu (靈峰蕅益大師選定淨土十要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 61, No. 1164) quyển 9 có câu: “Nhất chân pháp giới tánh, bất biến năng tùy duyên, Tam Thân cập Tứ Độ, tất do tâm biến khởi (一眞法界性、不變能隨緣、三身及四土、悉由心變起, tánh pháp giới nhất chân, chẳng biến thường tùy duyên, Ba Thân và Bốn Cõi, tất do tâm biến hóa).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập