Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thường Phước Tự »»
(檀林, danrin): nguyên lai, nó là từ gọi tắt của Chiên Đàn Lâm (旃檀林), nơi chúng tăng hòa hợp, tập trung tu hành; thường chỉ cho tự viện; cho nên nó cũng là tên gọi khác của tự viện Phật Giáo. Về sau, nó trở thành cơ sở học vấn của Phật Giáo, vì tính chất cũng như cơ năng của nó giống như Học Lâm (學林), Học Liêu (學寮). Tại Nhật Bản, Đàn Lâm Viện (檀林院) được xây dựng vào năm thứ 3 (853) niên hiệu Nhân Thọ (仁壽) được xem như là tiền thân đầu tiên của Đàn Lâm. Đến thời đại Đức Xuyên (德川, Tokugawa), các tông phái bắt đầu thiết kế những cơ sở học vấn Đàn Lâm và Quan Đông Thập Bát Đàn Lâm (關東十八檀林, 18 cơ sở học vấn Đàn Lâm ở vùng Quan Đông) là tiêu biểu, nổi tiếng nhất. Riêng Tào Động Tông, trong khuôn viên của Cát Tường Tự (吉祥寺, Kichijō-ji) ở Giang Hộ (江戸, Edo) có Chiên Đàn Lâm với rất nhiều tăng chúng đến tham học. Tương truyền đến năm thứ 3 (1774) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), nơi đây có đến 641 người. Khoảng vào năm đầu (1624) niên hiệu Khoan Vĩnh, Quan Đông Thập Bát Đàn Lâm được thành lập, nhưng người hình thành hệ thống là Nguyên Dự Tồn Ứng (源譽存應, Genyō Zonō, 1544-1620), vị tổ đời thứ 12 của Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji). Đây là 18 ngôi tự viện có cơ cấu giáo dục cho tăng sĩ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản, gồm:
(1) Quang Minh Tự (光明寺, Kōmyō-ji) ở vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, thuộc Kanagawa-ken [神奈川縣]);
(2) Thắng Nguyện Tự (勝願寺, Shōgan-ji) ở Hồng Sào (鴻巢, Konosu, thuộc Saitama-ken [埼玉縣]);
(3) Thường Phước Tự (常福寺, Jōfuku-ji) ở Qua Liên (瓜連, Urizura, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]);
(4) Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji) ở Đông Kinh (東京, Tokyo);
(5) Hoằng Kinh Tự (弘經寺, Gukyō-ji) ở Phạn Chiểu (飯沼, Iinuma, thuộc Ibaraki-ken);
(6) Đông Tiệm Tự (東漸寺, Tōzen-ji) ở Tùng Hộ (松戸, Maddo, thuộc Chiba-ken [千葉縣]);
(7) Đại Nham Tự (大巖寺, Daigan-ji) ở Thiên Diệp (千葉, Chiba, thuộc Chiba-ken);
(8) Liên Hinh Tự (蓮馨寺, Renkei-ji) ở Xuyên Việt (川越, Kawagoe, thuộc Saitama-ken);
(9) Đại Thiện Tự (大善寺, Daizen-ji) ở Bát Vương Tử (八王子, Hachiōji, thuộc Tokyo);
(10) Tịnh Quốc Tự (淨國寺, Jōkoku-ji) ở Nham Quy (岩槻, Iwatsuki, thuộc Saitama-ken);
(11) Đại Niệm Tự (大念寺, Dainen-ji) ở Đạo Phu (稻敷, Inashiki, thuộc Ibaraki-ken);
(12) Thiện Đạo Tự (善導寺, Zendō-ji) ở Quán Lâm (館林, Tatebayashi, thuộc Gunma-ken [群馬縣]);
(13) Hoằng Kinh Tự (弘經寺, Gukyō-ji) ở Thường Tổng (常總, Jōsō, thuộc Ibaraki-ken);
(14) Linh Sơn Tự (靈山寺, Reizan-ji) ở Mặc Điền (墨田, Sumida, thuộc Tokyo);
(15) Phan Tùy Viện (幡隨院, Banzui-in) ở Tiểu Kim Tỉnh (小金井, Koganei, thuộc Tokyo);
(16) Truyền Thông Viện (傳通院, Denzū-in) ở Văn Kinh (文京, Bunkyō, thuộc Tokyo);
(17) Đại Quang Viện (大光院, Daikō-in) ở Thái Đa (太田, Ōta, thuộc Gunma-ken);
(18) Linh Nham Tự (靈巖寺, Reigan-ji) ở Thâm Xuyên (深川, Fukagawa, thuộc Tokyo).
Trong Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Nghi (孔雀尊經科儀) có câu: “Chiên Đàn Lâm nội lục thù giá trọng ư Ta Bà, Cấp Cô Viên trung nhất chú thông tân ư Linh Thứu, cổ chế bàn toàn thanh thoại khí, ngọc lô liêu nhiễu bích tường vân, ngã kim nhiệt xử hiến Như Lai, duy nguyện từ bi ai nạp thọ (旃檀林內六銖價重於娑婆、給孤園中一炷通津於靈鷲、古晢盤旋清瑞氣、玉爐繚遶碧祥雲、我今熱處獻如來、唯願慈悲哀納受, trong Chiên Đàn Lâm sáu cây giá nặng bằng Ta Bà, nơi Vườn Cấp Cô một nén hương xông tận Linh Thứu, sao xưa xoay chuyển trong lành khí, lò ngọc tỏa vờn mây xanh thiêng, con nay đốt lên cúng Như Lai, cúi mong từ bi thương lãnh thọ).” Hay trong Chứng Đạo Ca (證道歌) của Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺, 675-713) cũng có câu: “Chiên Đàn Lâm vô tạp thọ, uất mật sum trầm sư tử trú, cảnh tĩnh lâm nhàn độc tự du, tẩu thú phi cầm giai viễn khứ (旃檀林無雜樹、鬱密森沉師子住、境靜林間獨自遊、走獸飛禽皆遠去, Chiên Đàn Lâm chẳng cây tạp, rừng rậm thâm u sư tử sống, cảnh vắng non nhàn mặc ngao du, thú chạy chim bay đều xa lánh).”
(了實, Ryōjitsu, 1303-1386): vị tăng của Phái Bạch Kỳ (白旗派) thuộc Tịnh Độ Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Liêm Thương và Nam Bắc Triều, húy Liễu Thật (了實), hiệu là Thạnh Liên Xã (盛蓮社), Thành A (成阿). Lúc trẻ, ông theo xuất gia với Liên Thắng (蓮勝) ở Pháp Nhiên Tự (法然寺) vùng Thường Lục (常陸, Hitachi). Đến năm 1330 ông thọ Viên Đốn Giới với Định Huệ (定慧) ở Quang Minh Tự (光明寺) vùng Liêm Thương. Trong khoảng niên hiệu Diên Nguyên (延元, 1336-1340), ông được vị Thành chủ Tá Trúc Nghĩa Đôn (佐竹義敦, Satake Yoshiatsu) quy y theo, nên kiến lập ra Thường Phước Tự (常福寺) ở vùng Qua Liên (瓜連, Urizura), và nới đây đã trở thành cứ điểm phát triển giáo đoàn của Tịnh Độ Tông vùng Quan Đông. Môn đệ của ông có Thánh Quynh (聖冏), Lương Hựu (良祐), Liên Không (蓮空), v.v.
(聖冏, Shogei, 1341-1420): vị Tăng của Tịnh Độ Tông, sống khoảng vào giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, vị Tổ thời Trung Hưng của Dòng Trấn Tây (鎭西流); húy là Thánh Quynh (聖冏), thông xưng là Tam Nhật Nguyệt Thượng Nhân (三日月上人); hiệu là Tây Liên Xã (西蓮社), Liễu Dự (了譽); thụy hiệu là Thánh Quynh Thiền Sư (聖冏禪師); xuất thân vùng Thường Lục (常陸, Hitachi, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]); con của Bạch Cát Chí Ma Thủ Nghĩa Quang (白吉志摩守義光). Ông bắt đầu xuất gia theo Liễu Thật (了實) ở Thường Phước Tự (常福寺) thuộc vùng Thường Lục, rồi học Tịnh Độ Giáo của Dòng Trấn Tây với Liên Thắng (蓮勝) cũng như Đinh Huệ (定慧); và tu học hết giáo nghĩa của các Tông khác. Sau đó, ông kế thừa trú trì Thường Phước Tự, chỉ đạo dạy dỗ học đồ, viết ra bộ Nhị Tạng Tụng Nghĩa (二藏頌義) và hệ thống hóa Tông nghĩa Tịnh Độ. Hơn nữa, ông đã làm sáng tỏ dòng huyết mạch truyền thừa từ thời đức Thích Ca trở về sau, cũng như Viên Đốn Giới từ thời Viên Nhân (圓仁) trở đi; và nêu rõ tính độc lập của Tịnh Độ Tông. Ông còn chỉnh đốn lại chế độ truyền pháp của Ngũ Trùng Tương Truyền (五重傳承); rồi đến năm 1393, lần đầu tiên ông truyền áo nghĩa cho đệ tử là Thánh Thông (聖聰). Vào năm 1415, thể theo lời thỉnh cầu của Thánh Thông, ông chuyển đến ở tại thảo am ở Tiểu Thạch Xuyên (小石川, Koishikawa), Giang Hộ (江戸, Edo). Trước tác của ông có Thích Tịnh Độ Nhị Tạng Nghĩa (釋淨土二藏義) 30 quyển, Tịnh Độ Nhị Tạng Nhị Giáo Lược Tụng (淨土二藏二敎略頌) 1 quyển, Truyền Thông Ký Nhữu Sao (傳通記糅鈔) 48 quyển, Quyết Nghi Sao Trực Điệp (決疑鈔直牒) 10 quyển, Phá Tà Hiển Chánh Nghĩa (破邪顯正義) 1 quyển, Tịnh Độ Chơn Tông Phú Pháp Truyện (淨土眞宗付法傳) 1 quyển, Hiển Tịnh Độ Truyền Giới Luận (顯淨土傳戒論) 1 quyển, Giáo Tướng Thập Bát Thông (敎相十八通) 2 quyển, v.v.
(聖聰, Shōsō, 1366-1440): vị Tăng của Tịnh Độ Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, Tổ khai sơn Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji); húy là Thánh Thông (聖聰), tục danh là Thiên Diệp Dận Minh (千葉胤明); hiệu Đại Liên Xã (大蓮社), Tây Dự (西譽); xuất thân vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), con của Thiên Diệp Thị Dận (千葉氏胤, Chiba Ujitane). Ban đầu, ông học Mật Giáo ở Minh Kiến Tự (明見寺, tức Thiên Diệp Tự [千葉寺]) thuộc vùng Hạ Tổng, nhưng đến năm 1385 thì được Thánh Quynh (聖冏) cảm hóa, rồi quy y theo Tịnh Độ Tông; từ đó trở đi trải qua trong vòng 9 năm, ông theo học Tông Nghĩa với Thánh Quynh ở Thường Phước Tự (常福寺). Vào năm 1393, ông khai sáng Tăng Thượng Tự ở vùng Bối Trũng (貝塚, Kaizuka), Võ Tàng (武藏, Musashi); được dòng họ Thiên Diệp cũng như tầng lớp hào tộc quy y theo rất đông, và nỗ lực bố giáo ở địa phương này. Chính ông đã phổ cập tư tưởng Ngũ Trùng Truyền Pháp của Thánh Quynh, và hết mình giáo dưỡng chúng đệ tử. Trước tác của ông có Tam Kinh Trực Đàm Yếu Chú Ký (三經直談要註記) 48 quyển, Đương Ma Mạn Đà La Sớ (當麻曼荼羅疏) 48 quyển, Triệt Tuyển Trạch Bản Mạt Khẩu Truyền Sao (徹選擇本末口傳鈔) 2 quyển, Vãng Sanh Luận Chú Ký Kiến Văn (徃生論註記見聞) 2 quyển, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập