Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thông Giám »»
(朱熹, 1130-1200): nhà Nho học dưới thời Nam Tống, tên lúc nhỏ là Trầm Lang (沉郎), tự lúc nhỏ là Quý Diên (季延); lớn lên có tự là Nguyên Hối (元晦), Trọng Hối (仲晦), hiệu Hối Am (晦庵), cuối đời có tên là Hối Ông (晦翁), Tử Dương Tiên Sinh (紫陽先生), Khảo Đình Tiên Sinh (考亭先生), Thương Châu Bệnh Tẩu (滄州病叟), Vân Cốc Lão Nhân (雲谷老人); bút hiệu là Chu Văn Công (朱文公), thường được tôn xưng là Chu Tử (朱子). Ông viết rất nhiều sách như Tứ Thư Tập Chú (四書集註), Dịch Bản Nghĩa (易本義), Thông Giám Cương Mục (通鑑綱目), Tiểu Học (小學), v.v.
(孤魂): những vong hồn cô quạnh, sống lây lất đây đó, không nơi nương tựa, không ai thờ tự. Trong Đạo Giáo cũng như Phật Giáo thường tiến hành nghi thức cúng cho các âm linh cô hồn để cho họ có thức ăn uống và nhờ nghe câu kinh, tiếng kệ mà được siêu độ, thoát khỏi cảnh khổ sống không nơi nương tựa như vậy. Theo Linh Bảo Lãnh Giáo Tế Độ Kim Thư (靈寶領敎濟度金書) của Đạo Giáo, nghi thức này được gọi là Ngọc Sơn Tịnh Cúng (玉山淨供), Cam Lồ Tịnh Cúng (甘露淨供), Tế Luyện (祭煉), hay tên gọi phổ biến nhất là Phóng Diệm Khẩu (放焰口). Trong Lịch Thế Chơn Tiên Thể Đạo Thông Giám (歷世眞仙體道通鑒) quyển 23 có dạy rằng: “Mỗi ư Tam Nguyên Bát Tiết, cát nhật lương tiêu, phổ triệu thập phương chư đại Địa Ngục, cùng hồn trệ phách, lai nghệ đàn tiền, câu thọ Tế Luyện, kỳ thừa phù lục, các toại siêu sanh (毎於三元八節、吉日良宵、普召十方諸大地獄、窮魂滞魄、來詣壇前、倶受祭煉、祇承符籙、各逐超生, Vào mỗi dịp Tam Nguyên, tám tiết, ngày tốt đêm lành, mời khắp mười phương các địa ngục lớn, hồn cùng đường, phách lang thang, đến tập trung trước đàn, đều thọ lễ Tế Luyện, mong thừa phù phép, thảy được siêu sanh).” Trong Phật Giáo, lễ nghi này cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống tâm linh của người Phật tử. Tùy theo nghi lễ tiến hành đơn giản hay long trọng, tên gọi có khác nhau như Cúng Cháo, Cúng Cô Hồn, Cúng Thí Thực, Chẩn Tế Cô Hồn, Phóng Diệm Khẩu, Thí Ngạ Quỷ, v.v. Trong bài Chúng Sanh Thập Loại Tế Văn (眾生十類祭文, Văn Tế Mười Loại Chúng Sanh) của Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) có đoạn rằng: “Trong trường dạ tối tăm trời đất, có khôn thiêng phảng phất u minh, thương thay thập loại chúng sinh, hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người, hương lửa đã không nơi nương tựa, hồn mồ côi lần lữa đêm đen, còn chi ai khá ai hèn, còn chi mà nói kẻ hiền người ngu…”
(林羅山, Hayashi Razan, 1583-1657): Nho gia của phái Chu Tử Học, sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; Tổ của họ Lâm (林, Hayashi), Nho quan của chính quyền Mạc Phủ; tên là Tín Thắng (信勝); tăng hiệu là Đạo Xuân (道春); tự Tử Tín (子信); thông xưng là Hựu Tam Lang (又三郎); xuất thân kinh đô Kyoto. Ông từng xuất gia làm Tăng sĩ của Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji); nhưng đã sớm học Chu Tử Học và trở thành môn đồ của Đằng Nguyên Tinh Oa (藤原惺窩). Năm 1605 (Khánh Trường [慶長] 10), ông đến yết kiến Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), được vị này tín nhiệm và cho đảm trách về văn thư của Mạc Phủ. Sau đó, ông từng phục vụ cho Tú Trung (秀忠, Hidetada), Gia Quang (家光, Iemitsu), Gia Cương (家綱, Ietsuna), chuyên trách về văn thư ngoại giao cũng như thảo các văn kiện quan trọng, và cống hiến to lớn cho việc chỉnh bị chính quyền Mạc Phủ. Vào năm 1630 (Khoan Vĩnh [寛永] 7), ông mở trường Tư Thục ở Giang Hộ; và sau này trở thành trung tâm học vấn. La Sơn thông cả các điển tịch cổ kim của Nhật Bản cũng như Trung Quốc, là người bác học, kiến thức cao rộng, đã để lại những dấu ấn to lớn trong việc xuấn bản các thư tịch Hán văn và giảng thuật Kinh Thư. Về mặt tư tưởng, khác với Đằng Nguyên Tinh Oa, để làm sáng tỏ lập trường của Chu Tử Học, ông phân biệt với Dương Minh Học và tận lực bài xích Phật Giáo; chủ trương tư tưởng Thần Nho Nhất Trí Luận (神儒一致論). Trước tác của ông có Bản Triều Thông Giám (本朝通鑑) 310 quyển, Bản Triều Thần Xã Khảo (本朝神社考) 6 quyển, La Sơn Văn Tập (羅山文集) 150 quyển, v.v.
(林鵞峰, Hayashi Gahō, 1618-1680): Nho gia sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; tên là Hựu Tam Lang (又三郎), Xuân Thắng (春勝), Thứ (恕); tự Tử Hòa (子和), Chi Đạo (之道); hiệu là Xuân Trai (春齋), Nga Phong (鵞峰), Hướng Dương Hiên (向陽軒), v.v.; thân phụ là Lâm La Sơn (林羅山). Ông theo hầu hạ Na Ba Hoạt Sở (那波活所), và sau đó cùng với phụ thân phục vụ cho chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ. Vào năm 1657 (Minh Lịch [明曆] 3), ông kế thừa dòng họ Lâm và tham gia chính trị của Mạc Phủ. Đến năm 1663 (Khoan Văn [寬文] 3), ông giảng nghĩa Ngũ Kinh cho Đức Xuyên Gia Cương (德川家綱, Tokugawa Ietsuna), Tướng Quân đời thứ 4, được tặng cho danh hiệu Hoằng Văn Viện Học Sĩ (弘文院學士) và giao cho việc cơ mật ngoại giao của chính quyền Mạc Phủ cũng như quan hệ tố tụng. Là người rất tinh thông Nhật Bản Sử, ông cùng với phụ thân chủ đạo sự nghiệp biên tập các tác phẩm như Nhật Bản Vương Đại Nhất Lãm (日本王代一覽), Bản Triều Thông Giám (本朝通鑑), Khoan Vĩnh Chư Gia Hệ Đồ Truyện (寛永諸家系圖傳), v.v., và đã tạo ảnh hưởng to lớn cho Lịch Sử Học thời Cận Đại. Tổ chức trường học Tư Thục do Nga Phong chỉnh đốn thành hệ thống đã tạo thành cơ sở cho trung tâm học vấn Xương Bình Phản (昌平坂).
(祖燈大統, Sotōdaitō): 98 quyển và mục lục 2 quyển, do Bạch Nham Tịnh Phù (白巖淨符, ?-?) biên, lời tựa của tác giả ghi năm thứ 11 (1672) niên hiệu Khang Hy (康熙), hiện tàng trữ tại Đông Dương Văn Hóa Nghiên Cứu Sở (東洋文化研究所, Tōyōbunkakenkyūsho) của Đại Học Đông Kinh (東京大學, Tōkyō Daigaku). Bộ Ngũ Đăng Nghiêm Thống (五燈嚴統) của Phí Ẩn Thông Dung (費隱通容) thuộc cuối thời nhà Minh chủ trương rằng môn hạ của Thanh Nguyên (青原) thì chỉ có Tào Động Tông mà thôi, còn 4 tông phái khác đều thuộc môn hạ của Nam Nhạc (南岳); thế nhưng tác phẩm này có thâu lục chư vị Thiền sư thuộc những môn phái khác, cho rằng tất cả đều thuộc môn lưu của Đạt Ma (達磨), bỏ đi cách gọi môn hạ Thanh Nguyên, Nam Nhạc và gọi chung là môn hạ của Thiếu Lâm (少林). Bộ này được biên tập công phu, dựa trên sự tham khảo một số Đăng Sử như Kế Đăng Lục (繼燈錄) được thành lập từ bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) vào cuối thời nhà Minh, hay Tư Trị Thông Giám (資治通鑑), v.v. Nội dung của gồm các lời tựa của Kì Hùng Giai (祁熊佳), Nghiêm Hãng (嚴沆), Lục Cầu Khả (陸求可), lời tự tựa của Tịnh Phù, mục lục, 7 vị Phật thời quá khứ, 28 vị Tổ Tây Thiên, 6 vị Tổ Đông Độ, cơ ngữ của 40 đời chư vị Tổ sư thuộc môn hạ Thiếu Lâm dưới thời nhà Minh, và một số nhân vật không rõ thuộc pháp hệ nào.
(滞魄): xưa kia chỉ cho những hồn phách sống lang thang không nơi nương tựa. Như trong Thái Thượng Vô Cực Tổng Chơn Văn Xương Đại Động Tiên Kinh (太上無極總眞文昌大洞仙經) quyển 1 có đoạn: “Hoặc hữu trầm hồn trệ phách, bất đắc vãng sanh giả, thác mộng phụ hình lai cầu (或有沉魂滞魄、不得徃生者、託夢附形來求, Hoặc có trầm hồn trệ phách, không được vãng sanh, báo mộng hiện hình đến cầu xin).” Hay trong Cát Tiên Công Truyện (葛仙公傳) của Lịch Thế Chơn Tiên Thể Đạo Thông Giám (歷世眞仙體道通鑒) quyển 23 có ghi rằng: “Tam Quốc tranh lạo hung hoang, binh thương biểu tử, cùng hồn trệ phách, trầm luân ác thú, nan xuất luân hồi (三國爭潦凶荒、兵傷殍死、窮魂滞魄、沉淪惡趣、難出輪廻, Tam Quốc tranh giành, mưa lụt hung dữ làm tan hoang, binh lính bị thương chết đói, hồn cùng đường, phách lang thang, trôi lăn trong đường ác, khó ra khỏi vòng luân hồi).” Ngay trong bài văn thỉnh 12 loại cô hồn thường được dùng trong nghi thức Chẩn Tế Cô Hồn của Phật Giáo, tương truyền do thi hào Tô Đông Pha (蘇東坡, 1036-1101) soạn, câu thỉnh thứ 7 cũng có đề cập đến loại trệ phách này: “Nhất tâm triệu thỉnh: Giang hồ cơ lữ, nam bắc kinh thương, đồ tài vạn lí du hành, tích hóa thiên kim mậu dịch; phong sương bất trắc, thân cao ngư phục chi trung, đồ lộ nan phòng, mạng táng dương trường chi hiểm; ô hô, trệ phách bắc tùy vân ám ám, khách hồn đông trục thủy du du; như thị tha hương khách lữ chi lưu, nhất loại cô hồn đẳng chúng (一心召請、江湖羁旅。江湖羈旅、南北经商。南北經商、图财万里游行。圖財萬里遊行、积货千金贸易。積貨千金貿易、风霜不测。風霜不測、身膏鱼腹之中。身膏魚腹之中、途路难防。途路難防、命丧羊肠之险。命喪羊腸之險、嗚呼、滯魄北隨雲黯黯、客魂东逐水悠悠。客魂東逐水悠悠、如是他乡客旅之流。如是他鄉客旅之流、一类孤魂等众。一類孤魂等眾, Một lòng triệu thỉnh: Sông hồ hành lữ, nam bắc bán buôn, cầu tài vạn dặm du hành, tích của ngàn vàng mậu dịch; gió sương bất trắc, thân vào bụng cá ở trong, đường sá khó phòng, mạng táng ruột dê nạn hiểm; than ôi, trệ phách Bắc theo mây u ám, khách hồn Đông chảy nước lững lờ; như vậy tha hương khách lữ hạng người, một loại cô hồn các chúng).”
(司馬光, 1019-1086): Nho gia, chính trị gia, đã từng làm việc dưới các đời vua Nhân Tông, Anh Tông và Thần Tông nhà Bắc Tống, tự là Quân Thật (君實), xuất thân Huyện Hạ (夏縣), Tỉnh Sơn Tây (山西省). Ông đã từng tranh đấu phản đối Tân Pháp của Vương An Thạch (王安石), được tặng cho xưng hiệu là Thái Sư Ôn Quốc Công (太師温國公). Trước tác của ông có Tư Trị Thông Giám (資治通鑑).
(資治通鑑, Shijitsugan): gọi tắt là Thông Giám (通鑑, Tsugan), bộ sách lịch sử, 294 quyển, do Tư Mã Quang (司馬光, 1019-1086) nhà Tống trước tác. Đây là tác phẩm biên thuật theo thể biên niên trong khoảng thời gian 1.362 năm từ Uy Liệt Vương (威烈王) nhà Chu cho đến Thế Tông (世宗) nhà Hậu Chu thời Ngũ Đại, có lời chú giải của Hồ Tam Tỉnh (胡三省) nhà Chu.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.231 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập