Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thời đại Phi Điểu »»

(鞍作止利・鞍作鳥, Kuratsukuri Tori, ?-?): vị thầy điêu khắc tượng Phật Thời đại Phi Điểu, vị tổ nghề điêu khắc tượng Phật của Nhật, cháu của Tư Mã Đạt Đẳng (司馬達等, Shiba Datto) từ Trung Quốc sang. Một số kiệt tác do vị này làm ra như tượng Phật Thích Ca của Phi Điểu Tự (飛鳥寺, Asuka-ji) và tượng Thích Ca Tam Tôn ở Kim Đường của Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji) vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
(道昭, Dōshō, 629-700): vị tăng ở Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji, tức Pháp Hưng Tự [法興寺, Hōkō-ji]) thuộc Thời đại Phi Điểu, tổ sư khai sáng ra Pháp Tướng Tông Nhật Bản, xuất thân vùng Đơn Tỷ (丹比, Tajihi), Hà Nội (河內, Kawachi); con của Thuyền Liên Huệ Thích (船連惠釋). Năm 653, ông nhập Đường cầu pháp, học Pháp Tướng, Duy Thức với Huyền Trang (玄奘), rồi học Thiền yếu với Huệ Mãn (慧滿). Khoảng năm 660, ông trở về nước, kiến lập Thiền viện ở Nguyên Hưng Tự, an trí các kinh luận thỉnh từ Trung Quốc về và bắt đầu hoằng truyền giáo nghĩa Pháp Tướng Tông. Đến cuối đời, ông đi tuần du khắp các nơi, làm những việc xã hội như bắt cầu đường, v.v. Vào năm 698, ông làm Chủ Sám buổi Lễ Khai Nhãn tượng Phật ở Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) và được bổ nhiệm làm chức Đại Tăng Đô (大僧都). Theo di mệnh của ông để lại, sau khi chết thi hài của ông được hỏa táng. Đây là trường hợp hỏa táng đầu tiên trong lịch sử Nhật.
(法隆寺, Hōryū-ji): ngôi chùa trung tâm của Thánh Đức Tông (聖德宗), hiện tọa lạc tại Ikaruka-cho (斑鳩町), Ikoma-gun (生駒郡), Nara-ken (奈良縣), là một trong 7 ngôi chùa lớn vùng Nam Đô. Nguyên gốc chùa này thuộc về Pháp Tướng Tông, nhưng vào năm 607 Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) khai cơ sáng tạo, nên chùa thuộc vào Thánh Đức Tông. Xưa kia, chùa có các tên gọi khác như Pháp Long Học Vấn Tự (法隆學問寺), Ban Cưu Tự (斑鳩寺, Ikaruka-dera), Giác Tự (鵤寺, Ikaruka-dera). Vào năm 670 (năm thứ 9 đời Thiên Trí Thiên Hoàng [天智天皇, Tenchi Tennō]) chùa bị cháy tiêu tan, và cho đến đầu thế kỷ thứ 8 chùa chỉ được tái kiến tạm thời mà thôi. Được phối trí theo dạng thức Pháp Long Tự, chùa có kiến trúc bằng gỗ tối cổ nhất thế giới, bao gồm Tây Viện, lấy Kim Đường (金堂), Ngũ Trùng Tháp (五重塔) của mô dạng Thời đại Phi Điểu (飛鳥, Asuka) làm trung tâm; Đông Viện lấy Mộng Điện (夢殿) của mô dạng thời Thiên Bình (天平, Tempyō) làm trung tâm. Tượng thờ chính tại Kim Đường là Thích Ca Tam Tôn thuộc dạng thức của Phật Giáo hậu kỳ thời Bắc Ngụy (北魏, 386-534). Tương truyền khi Thánh Đức Thái Tử qua đời, vào năm 623 (năm thứ 31 đời Suy Cổ Thiên Hoàng [推古天皇, Suiko Tennō]), nhóm quý tộc đã phát nguyện và ra lệnh cho An Tác Chỉ Lợi (鞍作止利, Karatsukuri-no-Tori, còn gọi là Chỉ Lợi Phật Sư [止利佛師]) đúc tượng này. Ngoài ra, tại Kim Đường còn có một pho tượng Dược Sư Như Lai; tương truyền khi Dụng Minh Thiên Hoàng (用明天皇, ) lâm trọng bệnh, Thánh Đức Thái Tử đã phát nguyện đúc pho tượng này để cầu nguyện cho Thiên Hoàng lành bệnh và đến năm 607 (năm thứ 15 đời Suy Cổ Thiên Hoàng) mới hoàn thành. Pho tượng Dược Sư Như Lai hiện tồn được xem như là mới hơn pho Thích Ca Tam Tôn. Tây Viện Già Lam hiện tồn có Kim Đường (金堂), Ngũ Trùng Tháp (五重塔), Trung Môn (中門), Hành Lang, là những kiến trúc lúc mới thành lập chùa (cuối thế kỷ thứ 7); bên cạnh đó, ngoài Kho Kinh (經藏), Đông Thất (東室), Thực Đường (食堂), Đông Đại Môn (東大門) thuộc thời đại Thiên Bình, còn có Đại Giảng Đường (大講堂, năm 990), Lầu Chuông (金樓, khoảng năm 990), Tây Viên Đường (西圓堂, năm 1250), Nam Đại Môn (南大門, năm 1438), v.v. Quần thể này thể hiện toàn bộ bóng dáng kiến trúc già lam cổ đại. Về mỹ thuật Phật Giáo, ngôi cổ tự này hiện đang tàng trữ tại rất nhiểu bảo vật vô giá như tượng Thích Ca Tam Tôn, Dược Sư Như Lai, Bách Tế Quan Âm (百濟觀音), Mộng Vi Quan Âm (夢違觀音), Ngọc Trùng Trù Tử (玉虫厨子), Quất Phu Nhân Trù Tử (橘夫人厨子), v.v. Vào năm 1949, trong nội bộ và những tranh vẽ trên tường bị cháy tiêu, nhưng sau đó đã được phục nguyên lại toàn bộ. Đến năm 1993, chùa được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
(蘇我稻目, Soga-no-Iname, ?-570): vị hào tộc sống dưới Thời đại Phi Điểu (飛鳥, Asuka, 593-710), đã từng làm Đại Thần cho hai triều đại Tuyên Hóa (宣化, Senka, 535-539) và Khâm Minh (欽明, Kimmei, 539-571). Ông là người đối lập với Vật Bộ Vĩ Dư (物部尾輿, Mononobe-no-Okoshi), chủ trương chấp nhận Phật Giáo, đem tượng Phật an trí tại nhà ông Hướng Nguyên (向原, Mukuhara) và lập nên Hướng Nguyên Tự (向原寺).
(智藏, Chizō, ?-?): vị tăng của Tam Luận Tông Nhật Bản, sống dưới Thời đại Phi Điểu, xuất thân đất Ngô, Trung Quốc, họ Hùng Ngưng (熊凝). Ông là con của Phước Lượng (福亮) lúc chưa xuất gia, cùng với cha sang Nhật dưới thời đại Tề Minh Thiên Hoàng (齊明天皇, Saimei Tennō), sống tại Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), Pháp Hưng Tự (法興寺, Hōkō-ji) và theo Huệ Quán (慧灌, Ekan) học về Tam Luận. Sau đó, ông sang nhà Đường cầu pháp, thọ nhận áo nghĩa của Tam Luận từ Cát Tạng (吉藏) của Gia Tường Tự (吉祥寺) và sau đó trở về nước. Từ đó, ông trú tại Pháp Long Tự để truyền bá Tam Luận Tông, đến năm 673, nhờ công lao quản lý sao chép Đại Tạng Kinh, ông được bổ nhiệm làm chức Tăng Chánh.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập