Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thời đại Nại Lương »»
(s: Bodhisena, j: Bodaisenna, 菩提僊那, 704-760): vị tăng Ấn Độ sang Nhật Bản dưới Thời đại Nại Lương (奈良, Nara), xuất thân dòng dõi Bà La Môn ở Nam Ấn Độ, còn gọi là Bà La Môn Tăng Chánh (婆羅門僧正), Bồ Đề Tăng Chánh (菩提僧正). Truyền ký về ông trong Đại An Tự Bồ Đề Truyền Lai Ký (大安寺菩提傳來記) của Nam Thiên Trúc Bà La Môn Tăng Chánh Bi (南天竺婆羅門僧正碑) do đệ tử Tu Vinh (修榮) soạn cũng như Đông Đại Tự Yếu Lục (東大寺要錄), vẫn còn lưu lại. Tiên Na được khắp nơi trong nước tôn kính và rất nhiều tư tưởng gia tán dương. Ông đi từ Trung Á, Tây Á để sang Trung Quốc, theo bước chân truyền bá Phật Giáo của các danh tăng như An Thế Cao (安世高), v.v., từ rặng Hy Mã Lạp Sơn vượt qua Tây Tạng và cuối cùng đến nước Đại Đường, Trung Hoa. Mục đích chính của ông tại đây là tham bái Bồ Tát Văn Thù (s: Mañjuśrī, 文殊) trên Ngũ Đài Sơn (五台山). Tại nhà Đường, tương truyền ông từng lấy Sùng Phước Tự (崇福寺) ở Trường An (長安) làm cứ điểm hoạt động bố giáo. Sau đó, thể theo lời thỉnh cầu của vị tăng sang nhà Đường cầu pháp là Lý Kính (理鏡) và vị Chánh Sứ Đa Trị Tỉ Quảng (多治比廣), ông cùng với đệ tử xuất thân vùng Lâm Ấp (林邑, Nam bộ Việt Nam)—Phật Triết (佛哲, hay Phật Triệt [佛徹]) và vị Đường tăng Đạo Tuyền (道璿) sang Nhật Bản vào năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平). Ban đầu, cả ba người dừng chân ở Đại Tể Phủ (大宰府, Dazaifu), rồi được Hành Cơ (行基, Gyōki) nghênh đón lên kinh đô, sau đó đến trú ở Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Tại đây, ông thường đọc tụng Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṁsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經) và tinh thông về chú thuật, cho nên chú thuật Ấn Độ đã được Tiên Na truyền trao cho các vị đệ tử tăng Nhật Bản. Vào năm thứ 3 (751) niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寶), ông được bổ nhiệm làm chức Tăng Chánh (僧正), vì vậy ông được gọi là Bà La Môn Tăng Chánh. Năm sau, ông được cung cử làm vị Đạo Sư (Chủ Sám) trong buổi lễ Cúng Dường Khai Nhãn Tượng Đại Phật (大佛開眼供養) Lô Xá Na (s: Vairocana, 盧舍那) ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji). Cây bút ông dùng để khai nhãn lúc bấy giờ hiện vẫn còn lưu lại tại Chánh Thương Viện (正倉院, Shōsō-in) của chùa này. Trong bức nguyện văn của Quốc Gia Trân Bảo Trương (國家珍寶張) có ghi tên ông, chứng tỏ ông có mối quan tâm rất lớn đối với việc xây dựng tượng Đại Phật. Vào năm thứ 2 (758) niên hiệu Thiên Bình Bảo Tự (天平寶字), ông được Thượng Hoàng và Hoàng Thái Hậu ban cho tôn hiệu. Vào ngày 25 tháng 2 năm thứ 4 (760) cùng niên hiệu trên, ông hướng về phương Tây, chấp tay an nhiên thị tịch tại Đại An Tự, hưởng thọ 57 tuổi. Năm sau, ông được an táng tại Hữu Bộc Xạ Lâm (右僕射林) thuộc Đăng Mỹ Sơn (登美山). Mấy năm gần đây, ngôi mộ của Bồ Đề Tăng Chánh được khai quật ở Linh Sơn Tự (靈山寺, Ryōsen-ji, thuộc Nara-ken [奈良縣]), nhưng không tìm thấy di vật nào cả; vì thế nó được xem như là ngôi mộ cúng dường thôi. Về vị Bà La Môn trong Vạn Diệp Tập (萬葉集, Manyōshū) 16, có thuyết cho rằng đó là ám chỉ Bồ Đề Tiên Na. Đệ tử của ông có nhóm Tu Vinh (修榮).
(勤操, Gonzō, 754-827): vị tăng của Tam Luận Tông Nhật Bản, sống dưới hai Thời đại Nại Lương và Bình An, húy là Cần Tháo (勤操), thường gọi là Thạch Uyên Tăng Chánh (石淵僧正), xuất thân vùng Cao Thị (高市), Đại Hòa (大和, Yamato), họ Tần (秦). Năm 12 tuổi, ông theo học Tam Luận với Tín Linh (信靈, Shinrei) và Thiện Nghị (善議, Zengi) của Đại An Tự (大安寺, Daian-ji); đến năm 770, ông được chọn trong số ngàn vị tăng đắc độ. Đến năm 794, ông làm chức Đường Đạt (堂達, Dōtatsu, tên vị tăng dâng bức Chú Nguyện Văn hay Nguyện Văn lên cho vị Chủ Sám hoặc Chú Nguyện Sư khi hành pháp sự). Năm 796, ông cầu nguyện siêu độ cho bạn đồng học là Vinh Hảo (榮好) và bắt đầu tiến hành tổ chức Pháp Hoa Bát Giảng (法華八講, còn gọi là Thạch Uyên Bát Giảng [石淵八講]) tại Thạch Uyên Tự (石淵寺) ngay dưới chân núi Cao Viên (高圓). Vào năm 813, ông luận phá vị tăng Pháp Tướng Tông tại Đại Cực Điện (大極殿) trong cung nội và từ đó mở rộng uy thế của Tam Luận. Năm 820, ông nhậm chức Biệt Đương (別當, Bettō, tên vị tăng quan chuyên trách quản lý sự vụ của những ngôi đại tự) của Hoằng Phước Tự (弘福寺, Gūfuku-ji) và kiêm luôn chức Biệt Đương của Tây Tự (西寺) trong Bình An Kinh khi đang xây dựng. Năm 826, ông được thăng chức Đại Tăng Đô, từng thân giao với Tối Trừng (最澄, Saichō) cũng như Không Hải (空海, Kūkai) và chứng tỏ ông có nhận thức về Phật Giáo mới của Thiên Thai, Chơn Ngôn. Sau ông qua đời tại Đông Bắc Viện của Tây Tự và được truy tặng chức Tăng Chánh.
(藤原仲麻呂, Fujiwara-no-Nakamaro, 706-764): nhà quý tộc sống dưới Thời đại Nại Lương, con của Võ Trí Ma Lữ (武智麻呂, Muchimaro). Ông được Quang Minh Hoàng Hậu (光明皇后) và Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758) tín nhiệm, giao cho làm chức Tử Vi Nội Tướng (紫微內相), lật đỗ phe phản đối của nhóm Quất Nại Lương Ma Lữ (橘奈良麻呂) và chấp chưởng chính quyền. Khi Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō, tại vị 823-833) lên ngôi vua, ông được ban cho tên họ là Huệ Mỹ Áp Thắng (惠美押勝, Emi-no-Oshikatsu) và cuối cùng được thăng cử đến chức Thái Sư Chánh Nhất Vị (太師正一位, tức Thái Chính Đại Thần [太政大臣]). Đến khi vị tăng Đạo Kính (道鏡, Dōkyō) được Hiếu Khiêm Thiên Hoàng trong dụng, ông cử binh để dẹp trừ Đạo Kính, nhưng bị bại trận và bị giết ở vùng Cận Giang (近江, Ōmi).
(藤原武智麻呂, Fujiwara-no-Muchimaro, 680-737): nhà quý tộc sống dưới Thời đại Nại Lương, làm quan đến chức Tả Đại Thần, Chánh Nhất Vị, con của Bất Tỷ Đẳng (不比等, Fuhito), vị tổ của nhà Nam Gia (南家). Trọng Ma Lữ (仲麻呂, Nakamaro) là con trai của ông.
(道鏡, Dōkyō, ?-772): chính trị gia, vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống dưới Thời đại Nại Lương, húy là Đạo Kính (道鏡), xuất thân Cung Tước (弓削), Hà Nội (河內, Kawachi, thuộc Ōsaka [大阪]), họ Cung Tước (弓削). Có thuyết cho rằng ông là con của Hoàng Tử Thí Cơ (施基, Shiki). Lúc còn trẻ, ông theo làm đệ tử của Nghĩa Uyên (義淵, Gien) ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), học về Pháp Tướng cũng như Duy Thức với vị này và học Phạn ngữ với Lương Biện (良辨, Rōben). Sau ông đến ẩn cư tại Cát Mộc Sơn (葛木山) trong vùng và chuyên tu pháp Như Ý Luân (如意輪). Về sau, ông vào cung nội làm việc với tư cách là Đại Thần Thiền Sư (大臣禪師). Vào năm 762 (niên hiệu Thiên Bình Bảo Tự [天平寳字] thứ 6), tại Bảo Lương Cung (保良宮), ông dùng Tú Diệu Bí Pháp (宿曜秘法) chữa lành bệnh cho Hiếu Khiêm Thượng Hoàng (孝謙上皇, Kōken Jōkō, tức Xưng Đức Thiên Hoàng [稱德天皇, Shōtoku Tennō] sau này), cho nên được Thượng Hoàng kính trọng. Sau vụ loạn của Đằng Nguyên Trọng Ma Lữ (藤原仲麻呂, Fujiwara-no-Nakamaro), vào năm 763, ông được phong làm chức Thiếu Tăng Đô (少僧都) và bắt đầu tham gia vào chính giới. Đến năm 764, ông được thăng lên chức Đại Thần Thiền Sư, rồi năm sau thì làm Thái Chính Đại Thần Thiền Sư (太政大臣禪師) và nắm chính quyền trong tay. Từ đó, ông bắt đầu nền chính trị xem trọng Phật Giáo, đến năm 766 thì lên làm Pháp Vương (法王) và âm mưu cưỡng quyền. Vào năm 769, ông bịa đặt ra câu chuyện vị Thần của Vũ Tá Thần Cung (宇佐神宮, Usa Jingū) ở tiểu quốc Phong Tiền (豐前, Buzen, thuộc Ōita-ken [大分縣]) giáng lệnh buộc Thiên Hoàng phải nhường ngôi vị cho Đạo Kính; nhưng trong khi đến tham bái nơi đó cũng có mặt của Hòa Khí Thanh Ma Lữ (和氣清麻呂, Waki-no-Kiyomaro), vị này phủ nhận câu chuyện trên là không có thật, nên đã cùng với Đằng Nguyên Bách Xuyên (藤原百川, Fujiwara-no-Momokawa) ngăn chận âm mưu cướp ngôi vua của Đạo Kính. Năm sau, khi Xưng Đức Thiên Hoàng qua đời, ông bị đày đến Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) ở vùng Hạ Dã (下野, Shimotsuke) với chức Biệt Đương (別當) và qua đời tại đó.
(道慈, Dōji, ?-744): vị tăng của Tam Luận Tông Nhật Bản, sống dưới Thời đại Nại Lương, húy là Đạo Từ (道慈), xuất thân vùng Đại Hòa (大和, Yamato, thuộc Nara [奈良]), họ Ngạch Điền (額田, Nukata). Ông theo học Tam Luận với Trí Tạng (智藏, Chizō) ở Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), Pháp Tướng và Duy Thức với Nghĩa Uyên (義淵, Gien). Vào năm 701, ông sang nhà Đường cầu pháp, được tuyển chọn giảng nghĩa Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經) tại cung nội số 100 vị cao tăng. Đến năm 718, ông trở về nước và tận lực truyền bá Tam Luận Tông tại Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Năm 729, ông làm chức Luật Sư, tham gia vào việc xúc tiến chính sách cải cách Phật Giáo, vạch kế hoạch cung thỉnh Giới Sư, dời chuyển Đại An Tự, biên tập bộ Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshoki), v.v.
(道璿, Dōsen, 702-760): vị tăng sống dưới thời nhà Đường, một trong những người đem Thiền, Luật và Hoa Nghiêm truyền sang Nhật Bản, vị tổ thứ 2 của Thiền Tông Nhật Bản và cũng là sơ tổ của Hoa Nghiêm Tông Nhật Bản, sang Nhật dưới Thời đại Nại Lương, húy là Đạo Tuyền (道璿), xuất thân Hứa Châu (許州, Tỉnh Hà Nam), hậu duệ của Vệ Linh Công (衛靈公). Ông thọ giới với Định Tân (定賓), theo học Luật với vị này, học Thiền và Hoa Nghiêm với Phổ Tịch (普寂), sau đó đến giáo hóa cho chúng tăng ở Đại Phước Tiên Tự (大福先寺). Khi Phổ Chiếu (普照, Fushō), Vinh Duệ (榮叡, Yōei) của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) sang nhà Đường cầu sư truyền giới luật, ông được hai vị này cung thỉnh sang Nhật. Vào năm 734, ông cùng với nhóm Bồ Đề Tiên Na (菩提僊那, Bodaisenna) và Phật Triết (佛哲, Buttetsu) lên thuyền sang Nhật; nhưng giữa đường gặp gió bão, đến năm 736 họ mới lên đất liền được và trú tại Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Năm 751, ông làm Luật Sư, năm sau thì làm Chú Nguyện Sư cho Lễ Cúng Dường Khai Nhãn Tượng Đại Phật tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji). Năm 754, ông đến vấn an Giám Chơn (鑑眞, Ganjin) khi vị này vừa sang Nhật và năm sau thì lui về ẩn cư tại Tỉ Tô Tự (比蘇寺) vùng Cát Dã (吉野, Yoshino). Đạo Tuyền là người rất tinh thông về Hoa Nghiêm lẫn Thiên Thai, và thông qua người đệ tử Hành Biểu (行表, Gyōhyō) của ông đã tạo ảnh hưởng lớn cho Tối Trừng (最澄, Saichō)—tổ khai sáng Thiên Thai Tông Nhật Bản. Vào năm đầu (760) niên hiệu Thượng Nguyên (上元), ông thị tịch, hưởng thọ 59 tuổi.
(唐招提寺, Tōshōdai-ji): ngôi Tổng Bản Sơn trung tâm của Luật Tông Nhật Bản, tọa lạc tại Gojō-chō (五條町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣), một trong 7 ngôi chùa lớn của vùng Nam Đô. Tượng thờ chính của chùa là tượng ngồi Lô Xá Na Phật (盧舍那佛, Thời đại Nại Lương) cao 6 trượng. Là ngôi tự viện có liên quan mật thiết với vị Đường tăng Giám Chơn (鑑眞, Ganjin), về sự tình xây dựng chùa được miêu tả rất rõ trong Đường Đại Hòa Thượng Đông Chinh Truyện (唐大和上東征傳) do Đạm Hải Tam Thuyền (淡海三船, Oumi-no-Mifune) soạn thuật vào năm 779. Vượt qua biết bao gian khổ để đến được triều đình Nhật, vào năm 754 (Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳] 6), Giám Chơn đã thiết lập Giới Đàn trước tượng Đại Phật của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) để truyền thọ giới pháp cho Thiên Hoàng, Hoàng Hậu và hơn 440 người trong cung nội. Từ đó về sau, ông xác lập chế độ thọ giới. Sau đó, ông nhường lại Đường Thiền Viện (唐禪院) ở Đông Đại Tự cho đệ tử Pháp Tấn (法進, Hōshin), rồi xây dựng một ngôi Biệt Viện mới tại khu đất nhà ở cũ của cố Thân Vương Tân Điền Bộ (新田部, Nitabe)—khu đất do triều đình ban tặng vào năm 759 (Thiên Bình Bảo Tự [天平寳字] 3), và chuyển đến trú ở đây với tên do ông đặt là Đường Chiêu Đề Tự. Đây chính là duyên khởi của chùa này. Về quy mô của ngôi già lam, người tạo lập, v.v., có ghi rõ trong Chiêu Đề Tự Kiến Lập Duyên Khởi (招提寺建立緣起, năm 835). Quần thể đại quy mô của ngôi già lam này có Kim Đường (金堂) nối liền với Hành Lang chạy vòng quanh, Giảng Đường (講堂), Lầu Kinh (經樓), Lầu Chuông (金樓), Tăng Phòng (僧房), v.v., là những kiến trúc được dời từ Đông Triều Tập Điện của Bình Thành Kinh (平城京). Sau khi kinh đô được dời về Trường Cương (長岡), chùa vẫn tiếp tục xây dựng thêm. Dưới thời Bình An, do vì kinh đô dời đi nơi khác nên chùa phải chịu số phận suy vong cùng với những ngôi chùa khác của vùng Nam Đô. Trong phần Thật Phạm Luật Sư Truyện (實範律師傳) của bản Chiêu Đề Thiên Tuế Truyện Ký (招提寺千歳傳記) được hình thành vào năm 1701 (Nguyên Lộc [元祿] 14), có ghi lại lần hoang phế của chùa dưới thời đại này. Đến thời đại Liêm Thương, chùa bắt đầu tái hưng nhờ những hoạt động phục hưng giáo học vùng Nam Đô của Trinh Khánh (貞慶, Jōkei), Duệ Tôn (叡尊, Eison), Giác Thạnh (覺盛, Kakujō), v.v. Vào năm 1202 (Kiến Nhân [建仁] 2), Trinh Khánh bắt đầu tu sửa Đông Thất (東室), thiết lập Đạo Tràng Niệm Phật; đến năm 1240 (Nhân Trị [仁治] nguyên niên) thì xây dựng Lầu Kinh, v.v. Năm 1244 (Khoan Nguyên [寬元] 2), Giác Thạnh—người được kính ngưỡng như là vị sơ tổ thời Trung Hưng của chùa—đến làm trú trì. Ông tiến hành phục hưng về mặt giáo học; và vị tổ thứ 2 là Chứng Huyền (証玄, Shōgen) cũng tận lực góp phần làm cho chùa xương thạnh. Bức tượng Thích Ca theo dạng thức của Thanh Lương Tự (清涼寺, Seiryō-ji) được tôn trí tại Lễ Đường (禮堂, năm 1202), tranh vẽ Đông Chinh Truyện (東征傳), v.v., nói lên một cách chân thật thời kỳ phục hưng này. Lịch sử của chùa từ thời Nam Bắc Triều trở đi thì không rõ lắm, nhưng giống như các ngôi tự viện khác, chùa cũng bị suy tàn mãi cho đến thời Cận Đại. Đến năm 1596 (Trường Khánh [長慶] nguyên niên), do vì động đất, toàn bộ ngôi già lam bị hư nát. Sau đó, nhờ Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi) quy y với Long Quang (隆光, Ryūkō)—vị trú trì Hộ Trì Viện (護持院) của chùa, Tướng Quân phát nguyện tu bổ lại toàn bộ già lam để hồi hướng công đức cho thân mẫu ông. Từ khi chùa thành lập chưa có trận hỏa tai nào xảy ra cho đến thời Cận Đại; nhưng vào năm 1802 (Hưởng Hòa [享和] nguyên niên), ngôi tháp được dựng vào năm 810 bị sét đánh làm cháy rụi. Thêm vào đó, vào năm 1833 (Thiên Bảo [天保] 4), Tây Thất (西室), Khai Sơn Đường (開山堂) và năm 1848 (năm đầu niên hiệu Gia Vĩnh [嘉永]) thì Giới Đàn Đường (戒壇堂) bị cháy thành tro bụi. Tuy nhiên, cũng may mắn thay, trung tâm già lam thì không bị ảnh hưởng hỏa tai lớn, các kiến trúc quý giá như Kim Đường, Giảng Đường, Kho Kinh, Kho Báu, v.v., vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay. Bảo vật của chùa hiện có một quần thể tượng điêu khắc giá trị gồm mấy mươi pho như tượng ngồi Lô Xá Na Phật, tượng đứng Thiên Thủ Quan Âm (Thời đại Nại Lương), tượng đứng Dược Sư Như Lai (đầu thời Bình An), tượng ngồi Giám Chơn Hòa Thượng (Thời đại Nại Lương), v.v. Ngoài ra, còn có rất nhiều bảo vật khác như bình đựng xá lợi do Giám Chơn đem sang, tranh vẽ, kinh điển, v.v. Về tên gọi Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺), Đường (唐) ở đây có nghĩa nói đến vị Đường Tăng Giám Chơn sang truyền Luật Tông vào Nhật. Còn Chiêu Đề (招提) là âm dịch của tiếng Pāli hay Sanskrit cātuddisa, nghĩa là tứ phương, bốn phương. Vậy ngôi Đường Chiêu Đề Tự là ngôi chùa của vị Đường Tăng Giám Chơn dành cho người của bốn phương đến tu tập. Có lẽ đây cũng là chân ý của Hòa Thượng Giám Chơn.
(行基, Gyōki, 668-749): vị tăng sống dưới Thời đại Nại Lương (奈良, Nara), húy là Hành Cơ, Pháp Hành (法行), xuất thân vùng Phong Điền (蜂田), Hà Nội (河內, Kawachi, tức Ōsaka [大阪] ngày nay); con trai đầu của Cao Chí Tài Trí (高志才智). Năm 682, ông xuất gia, theo hầu Đạo Chiêu (道昭, Dōshō) và Nghĩa Uyên (義淵, Gien). Đến năm 704, ông biến nhà mình thành Gia Nguyên Tự (家原寺, Ebara-ji), chuyên tâm bố giáo cho dân chúng trong vùng; sau đó đi tuần du khắp nơi, chuyên tâm làm các công việc xã hội như xây dựng chùa chiền, thiết lập đê điều, dựng cầu cống, v.v., nên thông xưng là Hành Cơ Bồ Tát. Tập đoàn những tín đồ tri thức của ông bị liệt vào danh sách vi phạm Tăng Ni Lịnh và bị đàn áp kịch liệt; nhưng đến năm 731, một số đệ tử của ông được phép cho xuất gia. Vào năm 743, ông thống lãnh chúng đệ tử tham gia tạo lập tượng Đại Phật Lô Xá Na (盧舍那) ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), và đến năm 745 thì được bổ nhiệm làm Đại Tăng Chánh. Tương truyền ông từng vào kinh đô, khai mở đạo tràng, số lượng lên đến 49 ngôi viện. Đến năm 749, ông viên tịch tại Quản Nguyên Tự (菅原寺, Sugawara-dera, tức Hỷ Quang Tự [喜光寺, Gikō-ji]) trong khi đang đúc tượng Đại Phật.
(行賀, Gyōga, 729-803): vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống dưới Thời đại Nại Lương, húy là Hành Hạ (行賀), xuất thân Quảng Lại (廣瀬, Hirose), Đại Hòa (大和, Yamato), họ Thượng Dã Mao (上野毛). Ông theo xuất gia và thọ giới với Vĩnh Nghiêm (永嚴), sau đó học về Pháp Tướng, Duy Thức với Bình Bị (平僃) ở Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji). Năm 752, nhận sắc lệnh của triều đình, ông sang nhà Đường cầu pháp, chuyên học cả Thiên Thai lẫn Pháp Tướng. Sau 31 năm lưu học bên đó, ông trở về nước, mang theo hơn 100 quyển kinh sớ. Trước tác của ông có Duy Thức Nghĩa Tinh (唯識義精) 1 quyển, nhưng bị tán thất. Ông được xem là một trong 6 vị tổ của Pháp Tướng Tông Nhật Bản.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập