Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thần Tăng »»
(興圓, Kōen, 1263-1317): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Liêm Thương, húy là Hưng Viên (興圓), hiệu Nghiêu Quang Phòng (堯光房), Truyền Tín Hòa Thượng (傳信和尚), xuất thân vùng Việt Hậu (越後, Echigo), họ Bình (平). Năm 1278, ông xuất gia, sau đó theo học các pháp môn của Hiển, Mật và Giới với Huệ Khải (惠顗) ở Kim Quang Viện (金光院), vùng Đông Sơn (東山, Higashiyama), Sơn Thành (山城, Yamashiro). Đến năm 1305, ông có chí muốn tái hưng Viên Đốn Giới của Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) và năm 1316 thì ẩn tu trong núi trong vòng 12 năm. Trong khoảng thời gian này, vào năm 1310, nhóm đệ tử của ông gồm Quang Tông (光宗), Viên Quán (圓觀), v.v., bắt đầu tiến hành An Cư Kiết Hạ ở Thần Tạng Tự (神藏寺) trong khuôn viên Tỷ Duệ Sơn. Ông phục hưng Viên Đốn Giới để làm luật nghi cho tăng chúng ở Nhất Hướng Đại Thừa Tự (一向大乘寺), và hình thành hệ thống pháp môn Giới Quán Đảnh từ thời Huệ Tầm (惠尋) trở đi. Mặt khác, ông còn tận lực tái tạo các ngôi nhà trên Tỷ Duệ Sơn. Trước tác của ông có Nhất Hướng Đại Thừa Tự Hưng Long Thiên Mục Tập (一向大乘寺興隆篇目集) 3 quyển, Viên Đốn Bồ Tát Giới Thập Trọng Tứ Thập Bát Hành Nghi Sao (圓頓菩薩戒十重四十八行儀鈔) 1 quyển, Giới Quán Đảnh Thập Lục Thiếp Khẩu Quyết (戒灌頂十六帖口決) 16 quyển, v.v.
(悟達, Gotatsu, 811-883): vị cao tăng sống dưới thời nhà Đường, xuất thân Hồng Nhã (洪雅), Mi Châu (眉州, nay là Tỉnh Tứ Xuyên), họ Trần (陳), pháp danh Tri Huyền (知玄), tự Hậu Giác (後覺). Hồi nhỏ ông rất thích hình tượng Phật và hình ảnh chư tăng. Đến năm lên 7 tuổi, nhân đến nghe Pháp Thái (法泰) ở Ninh Di Tự (寧夷寺) giảng về Kinh Niết Bàn (涅槃經), đêm đó chợt mộng thấy đức Phật ở chánh điện chùa lấy tay xoa đầu mình. Đến năm 11 tuổi, ông theo xuất gia với Pháp Thái, chuyên nghiên cứu về Kinh Niết Bàn. Hai năm sau, ông vâng mệnh vị Thừa Tướng thăng đường thuyết pháp ở Đại Từ Tự (大慈寺) đất Thục, thính giả đến nghe lên đến cả vạn người, ai cũng mến phục trí tuệ của ông, bèn tôn xưng ông là Trần Bồ Tát. Sau ông theo Luật Sư Biện Trinh (辯貞) thọ Cụ Túc giới, rồi theo Pháp Sư An Quốc Tín (安國信) học về Duy Thức, và tự mình nghiên cứu thêm các kinh điển của những tông phái khác. Ông thường hận mình không thể thuyết kinh được bằng tiếng địa phương. Nhân tụng chú Đại Bi, cảm ứng được vị Thần Tăng thay lưỡi cho ông trong mộng; hôm sau khi thức dậy, tiếng nói thay đổi. Một thời gian lâu sau, ông ngao du lên kinh đô, gặp lúc vua Võ Tông đang mến mộ phép thuật thành tiên của các đạo gia, nhà vua mời ông cùng luận tranh với các đạo sĩ ấy. Ông biện tài lanh lợi, nói thẳng chẳng sợ, nhà vua tuy không thích lời nói của ông nhưng cũng rất vui lòng với kiến thức của ông. Đến thời vua Tuyên Tông, nhà vua mời ông vào cung nội giảng kinh, ban cho Tử Y, phong làm vị Thủ Tòa của Tam Giáo. Vua Ý Tông thường thân lâm đến nghe giảng kinh và ban cho tòa ngồi bằng gỗ trầm hương; do vì ông sanh tâm hoan hỷ nên sanh ra mụt nhọt có mặt người nơi đầu gối của nhiều đời oan nghiệp chất chồng, sau nhờ tôn giả Ca Nặc Ca (迦諾迦) giúp cho rửa sạch mụt ấy. Về sau ông xin trở về chùa cũ của mình, đến sống tại Đơn Cảnh Sơn (丹景山) thuộc Bành Châu (膨州). Khi vua Hy Tông đến viếng thăm đất Thục, có ban cho ông hiệu Ngộ Đạt Quốc Sư. Khá nhiều tầng lớp sĩ phu cùng giao du với ông, như Lý Thương Ẩn (李商隱) sau khi về vui thú điền viên, đã cùng sống với ông trong một thời gian rất lâu. Ông thị tịch vào năm thứ 3 (883) niên hiệu Trung Hòa (中和), hưởng thọ 73 tuổi đời và 54 hạ lạp. Trước tác của ông có Từ Bi Thủy Sám Pháp (慈悲水懺法) 3 quyển, Thắng Man Kinh Sớ (勝鬘經疏) 4 quyển, Bát Nhã Tâm Kinh Sớ (般若心經疏), Kim Cang Kinh Sớ (金剛經疏), v.v. Trong bài cung văn đầu Kinh Thủy Sám có đoạn: “Quốc Sư Ngộ Đạt, quyên trừ lụy thế chi khiên vưu, sự khải nhất thời, pháp lưu thiên cổ, soạn vi Thượng Trung Hạ tam quyển chi nghi văn, nhân thiên kính ngưỡng, sám ma thân khẩu ý Thập Ác chi tội nghiệp, phàm thánh quy sùng (國師悟達、蠲除累世之愆尤、事啟一時、法流千古、撰爲上中下三卷之儀文、人天敬仰、懺摩身口意十惡之罪業、凡聖皈崇, Quốc Sư Ngộ Đạt trừ sạch các oan khiên của nhiều đời, việc mở ra một lúc, pháp lưu lại muôn thưở, soạn thành văn nghi thức ba quyển Thượng Trung Hạ, người trời đều kính ngưỡng; sám hối tội nghiệp Mười Điều Ác của thân, miệng, ý, phàm thánh thảy quy sùng).” Trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 51, phần Tăng Chức Sư Hiệu (僧職師號) có câu: “Hiến Tông tứ Sa Môn Tri Huyền Ngộ Đạt Quốc Sư (憲宗賜沙門知玄悟達國師, vua Hiến Tông [tại vị 805-820] nhà Đường ban tặng cho Sa Môn Tri Huyền là Ngộ Đạt Quốc Sư).” Hay như trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳) quyển 3, Truyện Đường Kinh Sư Mãn Nguyệt (唐京師滿月傳) cũng có câu: “Thời Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền, hiếu học Thanh Minh, lễ Nguyệt vi sư (時悟達國師知玄、好學聲明、禮月爲師, lúc bấy giờ Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền thích học về Thanh Minh, bèn bái Mãn Nguyệt làm thầy).”
(言念): tưởng nghĩ rằng, trộm nghĩ rằng; tương đương với thiết niệm (竊 [窃]念, nép nghĩ, thiết nghĩ, trộm nghĩ); là từ dùng để biểu thị một cách khiêm hạ về ý kiến, suy nghĩ của kẻ dưới với đấng bề trên. Ngôn (言) ở đây chỉ đóng vai trò là trợ từ. Như trong Chu Thư (周書), Truyện Lý Viễn (李遠傳) có câu: “Ngôn niệm trinh lương, truy tăng thương điệu (言念貞良、追增傷悼, tưởng nghĩ trinh lương, càng nhớ càng thêm thương xót).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 2, phần Gia Trì Pháp Sự Trần Tình Văn (加持法事陳情文), có đoạn: “Cung văn, Phật chơn Pháp Thân do nhược hư không, ứng vật hiện hình như thủy trung nguyệt; ngôn niệm Thần Tăng mỗ giáp, hạnh xử Trung Hoa, thao vi Thích tử, hà thiên địa bao hàm chi đức, cảm quân sư ban huấn chi ân (恭聞、佛眞法身猶若虛空、應物現形如水中月、言念臣僧某甲、幸處中華、叨爲釋子、荷天地包含之德、感君師頒訓之恩, Cúi nghe: Phật thật Pháp Thân giống như hư không, theo vật hiện hình như trăng trong nước; tưởng nghĩ nạp tăng …, may ở Trung Hoa, làm đệ tử Phật; mang trời đất che chở muôn đức, cảm thầy tổ dạy dỗ công ơn).”
(天厨): Bếp Trời. Từ này có nhiều nghĩa khác nhau.
(1) Tên gọi của một vì sao, như trong phần Thiên Văn Chí Thượng (天文志上) của Tấn Thư (晉書) có câu: “Tử Vi thản, đông bắc duy ngoại lục tinh viết Thiên Trù, chủ thịnh soạn (紫微垣、東北維外六星曰天廚、主盛饌, trong khu vực sao Tử Vi, sáu ngôi sao ngoài phương đông bắc gọi là Thiên Trù, chủ quản về cỗ ăn uống).”
(2) Nhà Bếp của Thiên Đình, như trong bài thơ Đề Tuyên Luật Sư Họa Tượng (題宣律師畫像) của Lục Du (陸游, 1125-1210) nhà Tống có câu: “Bình sanh nhất ngõa bát, hà xứ hữu Thiên Trù (平生一瓦缽、何處有天廚, bình sanh một bình bát, nơi đâu có Bếp Trời).” Hay trong bài Mai Hoa Am Đồng Lâm Nhã Phủ Thoại Vũ Liên Cú (梅花庵同林若撫話雨聯句) của Ngô Vĩ Nghiệp (吳偉業, 1609-1672) nhà Thanh lại có câu: “Tiên lạc Thanh Thương thái, Thiên Trù pháp tửu triêm (仙樂清商奏、天廚法酒霑, tiên vui Thanh Thương rộn, Bếp Trời rượu thấm ngon).”
(3) Nhà Bếp của Hoàng Đế, như trong bài Nguyên Hựu Bát Niên Sanh Nhật Tạ Biểu (元祐八年生日謝表) của Tô Triệt (蘇轍, 1039-1112) nhà Tống có đoạn: “Lão phùng đản nhật, khấp dưỡng thân chi vô tùng, tứ xuất Thiên Trù, quý quân tư chi mạc báo (老逢誕日、泣養親之無從、賜出天廚、愧君恩之莫報, già gặp ngày sinh nhật, khóc xót nuôi song thân không được toại nguyện, nhận ân sủng Nhà Bếp triều đình, thẹn ơn nhà vua chưa báo đáp).”
Trong Phật Giáo, có những câu chuyện của các vị Thần Tăng đã từng được trời cúng dường cho thức ăn như trong Ngọc Thanh Vô Cực Tổng Chơn Văn Xương Đại Động Tiên Kinh (玉清無極總眞文昌大洞仙經) quyển 6 của Đạo Giáo có đoạn rằng: “Tích hữu tăng tọa Thiền, văn Hương Tích chi khí, tâm niệm viết tất thị trai cúng, hoặc kiến thiên tiên lai thỉnh phó Thiên Trù cúng, tăng ư định trung tiện khứ, nhật mỗi như thị; hoặc nhật minh, nhãn sư kiến chi, vị viết: 'Nhữ đọa nhất xí trung hỉ'. Tăng bất tín, toại linh tái phó cúng, hồi, sư thủ xí trung nhất trùng sát chi, tăng phương ngộ (昔有僧坐禪、聞香積之炁、心念曰必是齋供、或見天仙來請赴天厨供、僧於定中便去、日每如是、或日明、眼師見之、謂曰汝墮一廁中矣、僧不信、遂令再赴供、回、師取廁中一蟲殺之、僧方悟, xưa kia có vị tăng đang ngồi Thiền, chợt nghe mùi thơm xứ Hương Tích, tâm niệm cho rằng đó là đồ chay cúng dường, hoặc có khi thấy tiên trên trời đến mời dự cúng dường trên Thiên Trù, vị ấy trong định mà đi; mỗi ngày đều như vậy; có hôm nọ lúc trời sáng, thầy ông thấy vậy, bảo rằng: 'Ngươi đọa vào trong nhà xí rồi !' Vị tăng chẳng tin, lại tiếp tục đi tham dự lễ cúng dường; đến khi trở về, thầy ông lấy trong nhà xí ra một con trùng và giết đi; khi ấy vị tăng mới tỉnh ngộ).” Hay như trong Thần Tăng Truyện (神僧傳, Taishō No. 2064) quyển 6, truyện Khuy Cơ (窺基) có đoạn kể rằng: “Sơ Nam Sơn Tuyên Luật Sư, dĩ hoằng luật danh chấn Ngũ Đại, cảm thiên trù cúng soạn; Cơ thường phỏng Tuyên, kỳ nhật quá ngọ nhi thiên soạn bất chí, cập Cơ từ khứ Thiên Thần nãi giáng, Tuyên trách dĩ hậu thời, Thiên viết: 'Thích kiến Đại Thừa Bồ Tát tại thử dực vệ nghiêm thậm, cố vô tự nhi nhập.' Tuyên văn chi đại kinh (初南山宣律師、以弘律名震五天、感天廚供饌、基嘗訪宣、其日過午而天饌不至、及基辭去天神乃降、宣責以後時、天曰、適見大乘菩薩在此翊衛嚴甚、故無自而入、宣聞之大驚, lúc ban đầu Nam Sơn Đạo Tuyên Luật Sư truyền bá Luật Tông danh thanh vang khắp mọi nơi, cảm động khiến cho trời dâng cúng thức ăn; Khuy Cơ thường đến thăm Đạo Tuyên, có hôm nọ đến quá ngọ mà cơm trời vẫn chưa đến, khi Khuy Cơ chuẩn bị ra về thì Thiên Thần giáng xuống; Đạo Tuyên phiền trách vì sao đến trễ; Thiên Thần thưa rằng: 'Tôi thấy có các vị Bồ Tát Đại Thừa canh giữ nơi đây rất nghiêm mật, nên không tự tiện vào.' Đạo Tuyên nghe vậy rất kinh sợ).” Trong Thiền môn có các bài tán về Thiên Trù Cúng như “Thiên Trù cúng, Thuần Đà tối hậu lai, cơ xan ma mạch sung bì đại, tiên nhân hựu hiến trai thực tại, song song mục nữ hiến hương mi, Tứ Thiên Vương bổng bát, diêu vọng Linh Sơn bái. Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát (天厨供、淳陀最後來、飢飡麻麥充皮袋、仙人又献齋食在、雙雙牧女献香糜、四天王捧鉢、遙望靈山拜、南無香供養菩薩, món trời cúng, Thuần Đà đến cuối cùng, đói khát mè thóc cũng no đủ, tiên nhân lại dâng thức chay đến, hai hàng mục nữ cúng cháo thơm, Tứ Thiên Vương nâng bát, xa hướng Linh Sơn vái. Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát)”; hay “Thiền duyệt Tô Đà, tạo xuất Thiên Trù cúng, thành đạo đương sơ, mục nữ tiền lai tống Lão Mẫu, phó thác tại kim bàn, phụng hiến thượng Như Lai, hiền thánh vô biên chúng. Nam Mô Thiền Duyệt Tạng Bồ Tát (禪悅酥酡、造出天厨供、成道當初、牧女前來送老母、付托在金盤、奉献上如來、賢聖無邊眾。南無禪悅藏菩薩, Thiền vui Tô Đà, tạo nên món trời cúng, thành đạo ban sơ, mục nữ đến trước dâng Lão Mẫu, phó thác tại bàn vàng, dâng cúng lên Như Lai, hiền thánh vô biên chúng. Nam Mô Thiền Duyệt Tạng Bồ Tát)”, v.v. Từ đó, chúng ta thấy rằng Thiên Trù Cúng còn có nghĩa là món thức ăn trân quý do trời cúng, hay món thức ăn cao quý đem dâng cúng cho các bậc cao tăng, thạc đức.
(修齋): tập trung tu sĩ Phật Giáo hay đạo sĩ của Đạo Giáo để cúng dường cơm chay. Như trong bài thơ Đăng Linh Sơn Thủy Các Di Điếu Giả (登靈山水閣貽釣者) của thi nhân Đỗ Tuần Hạc (杜荀鶴, 846-904) nhà Đường có câu: “Giang thượng kiến tăng thùy thị liễu, tu trai bổ nạp nhật lao thân (江上見僧誰是了、修齋補衲日勞身, trên sông gặp tăng là ai nhỉ, cúng chay lão nạp bớt nhọc thân).” Hay trong kịch bản Đào Hoa Phiến (桃花扇), phần Nhập Đạo (入道), của Khổng Thượng Nhiệm (孔尚任, 1648-1718) nhà Thanh có đoạn: “Quảng diên đạo chúng, đại kiến kinh đàn, yếu dữ tiên đế tu trai truy tiến (廣延道眾、大建經壇、要與先帝修齋追薦, rước khắp các đạo sĩ, kiến lập đàn tràng lớn, chủ yếu dâng cúng cỗ chay để cầu siêu độ cho tiên đế).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu Trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 1 cũng có đoạn: “Giác Hoàng mẫn Diệm Khẩu chi đồ, sơ linh phụng hộc; Lương Đế cảm Thần Tăng chi mộng, toại khải tu trai (覺皇憫燄口之徒、初令奉斛、梁帝感神僧之夢、遂啟修齋, Giác Hoàng thương Diệm Khẩu [miệng bốc lửa] muôn loài, mới bày hộc thực; Lương Đế cảm Thần Tăng ứng mộng, bèn cúng cỗ chay).” Hoặc như trong Phật Thuyết Dự Tu Thập Vương Sanh Thất Kinh (佛說預修十王生七經, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 21) lại có đoạn: “Nhất thân Lục Đạo khổ mang mang, Thập Ác Tam Đồ bất dị đương, nỗ lực tu trai công đức cụ, hằng sa chư tội tự tiêu vong (一身六道苦茫茫、十惡三塗不易當、努力修齋功德具、恆沙諸罪自銷亡, một thân sáu nẻo khổ mênh mang, mười ác ba đường khó thoát nàn, tận lực cúng chay công đức đủ, hằng sa tội chướng tự tiêu vong).”
(社僧, Shasō): còn gọi là Cung Tăng (宮僧), Thần Tăng (神僧), là tên gọi của những tu sĩ làm Phật sự ở các đền thờ Thần Xã, thường sống ở những ngôi Thần Cung Tự (神宮寺). Địa vị của họ cao hơn Thần Quan; trong số đó có người có quyền mang theo vũ khí bên mình nữa. Chức này có nhiều giai cấp khác nhau như Biệt Đương (別當, Bettō), Tọa Chủ (座主, Zasu), Viện Chủ (院主, Inju), Kiểm Hiệu (檢校, Kengyō, Kenkō), v.v. Chức này được đặt ra vào cuối thời Nại Lương và đến năm 1869 (Minh Trị [明治] 2) thì không còn nữa.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập