Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiền phong »»
(隱元隆琦, Ingen Ryūki, 1592-1673): vị tổ khai sáng Hoàng Bá Tông Nhật Bản, người vùng Phúc Thanh (福清), Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Lâm (林), hiệu là Ẩn Nguyên (隱元), sinh ngày mồng 4 tháng 11 năm thứ 20 niên hiệu Vạn Lịch (萬曆) nhà Minh. Năm lên 9 tuổi, ông có chí ham học, nhưng năm sau thì bỏ học, theo nghiệp trồng tiêu. Có đêm nọ ông ngồi nằm dưới gốc cây tùng, mới ngộ được rằng muốn hiểu rõ diệu lý của trời đất, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, v.v., thì không còn con đường nào hơn là quy y vào cửa Phật. Cuối cùng với lòng quyết tâm, năm 23 tuổi ông lên Phổ Đà Sơn (普陀山) ở Nam Hải, thuộc Ninh Ba (寧波, Tỉnh Triết Giang), tham bái Triều Âm Động Chủ (潮音洞主). Năm lên 29 tuổi, ông đến viếng thăm Hoàng Bá Sơn (黃檗山), theo Giám Nguyên Hưng Thọ (鑑源興壽) xuống tóc xuất gia, và sau đó đi tham bái khắp các nơi. Trong thời gian này, ông có học Kinh Pháp Hoa ở Hưng Thiện Tự (興善寺) vùng Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang), rồi Kinh Lăng Nghiêm ở Bích Vân Tự (碧雲寺). Bên cạnh đó ông còn đến gõ cửa Mật Vân Viên Ngộ (密雲圓悟) và thọ nhận tâm ấn của vị này. Vào năm thứ 6 (1633) niên hiệu Sùng Trinh (崇貞), khi Phí Ẩn Thông Dung (費隱通容) đang sống tại Hoàng Bá Sơn, ông được cử làm chức Tây Đường, sau thể theo lời thỉnh cầu, ông lên quản lý cả Hoàng Bá Tông và đã làm cho tông phong rạng rỡ tột đỉnh; bên cạnh đó ông còn tận lực cho xây dựng các ngôi đường vũ khang trang hơn, và trở thành pháp từ của Phí Ẩn. Ông đã từng sống qua một số chùa như Phước Nghiêm Tự (福嚴寺) ở Sùng Đức (崇德, Tỉnh Triết Giang), Long Tuyền Tự (龍泉寺) ở Trường Lạc (長樂, Tỉnh Phúc Kiến). Đến năm thứ 11 (1654) niên hiệu Thuận Trị (順治), nhận lời cung thỉnh của mấy vị tăng nhóm Dật Nhiên Tánh Dung (逸然性融) ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) vùng Trường Khi (長崎, Nagasaki), ông cùng với Đại Mi Tánh Thiện (大眉性善), Độc Trạm Tánh Oanh (獨湛性瑩), Độc Ngôn Tánh Văn (獨言性聞), Nam Nguyên Tánh Phái (南源性派), v.v., hơn 30 người đệ tử lên thuyền sang Nhật, đến Hưng Phước Tự. Khi ấy ông đã 63 tuổi. Năm sau, ông chuyển đến Sùng Phước Tự (崇福寺, Sūfuku-ji), rồi thể theo lời mời của Long Khê Tánh Tiềm (龍溪性潜) ở Phổ Môn Tự (普門寺, Fumon-ji) vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu), ông đến làm trú trì chùa này. Sau đó, vào tháng 9 năm đầu (1651) niên hiệu Vạn Trị (萬治), ông đi lên phía đông, đến trú ngụ tại Lân Tường Viện (麟祥院) ở Thang Đảo (湯島, Yushima) vùng Giang Hộ (江戸, Edo, thuộc Tokyo), đến yết kiến Tướng Quân Đức Xuyên Gia Cương (德川家綱, Tokugawa Ietsuna), và vì hàng sĩ thứ mà thuyết pháp lợi sanh. Vào tháng 5 năm đầu (1661) niên hiệu Khoan Văn (寬文), ông sáng lập Hoàng Bá Sơn Vạn Phước Tự (黃檗山萬福寺) tại vùng đất Vũ Trị (宇治, Uji), làm căn cứ truyền bá Thiền phong của Hoàng Bá Tông tại Nhật Bản; và đến tháng 9 năm thứ 4 đồng niên hiệu trên, ông nhường ngôi trú trì lại cho Mộc Am Tánh Thao (木菴性瑫), và lui về ẩn cư. Vào tháng 2 năm thứ 13 cùng niên hiệu trên, ông bị bệnh nhẹ; ngày 30 cùng tháng này Hậu Thủy Vĩ Thượng Hoàng (後水尾上皇, Gomizunō Jōkō) sai sứ đến vấn an ông. Đến ngày mồng 2 tháng 4, ông được ban cho hiệu là Đại Quang Phổ Chiếu Quốc Sư (大光普照國師). Vào ngày mồng 3 tháng 4 năm sau, ông thị tịch, hưởng thọ 82 tuổi đời, 54 hạ lạp, và được ban tặng thêm cho thụy hiệu là Phật Từ Quảng Giám Thiền Sư (佛慈廣鑑禪師). Ngoài ra ông còn có một số hiệu khác như Kính Sơn Thủ Xuất Thiền Sư (徑山首出禪師), Giác Tánh Viên Minh Thiền Sư (覺性圓明禪師). Trước tác của ông để lại có Hoàng Bá Ngữ Lục (黃檗語錄) 2 quyển, Long Tuyền Ngữ Lục (龍泉語錄) 1 quyển, Hoàng Bá Sơn Chí (黃檗山誌) 8 quyển, Hoằng Giới Pháp Nghi (弘戒法儀) 2 quyển, Dĩ Thượng Trung Quốc Soạn Thuật (以上中國撰術), Phù Tang Hội Lục (扶桑會錄) 2 quyển, Phổ Chiếu Quốc Sư Quảng Ngữ Lục (普照國師廣語錄) 20 quyển, Hoàng Bá Hòa Thượng Thái Hòa Tập (黃檗和上太和集) 2 quyển, Đồng Kết Tập (同結集) 2 quyển, Sùng Phước Tự Lục (崇福寺錄), Phật Tổ Đồ Tán (佛祖圖賛), Phật Xá Lợi Ký (佛舎利記), Ẩn Nguyên Pháp Ngữ (隱元法語), Phổ Môn Thảo Lục (普門艸錄), Tùng Ẩn Tập (松隱集), Vân Đào Tập (雲濤集), Hoàng Bá Thanh Quy (黃檗清規), v.v.
(龐蘊居士, Hōun Koji, ?-808): vị cư sĩ môn hạ của Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一), tự Đạo Huyền (道玄), thông xưng là Bàng Cư Sĩ (龐居士), xuất thân Hành Dương (衡陽, Tỉnh Hồ Nam). Gia đình ông đời đời sùng tín Nho Giáo, nhưng ông lại lánh xa trần tục, chuyển đến Tương Dương (襄陽, Tỉnh Hồ Bắc), chuyên đan rỗ tre cho con gái đem ra chợ bán kiếm sống qua ngày. Khoảng đầu niên hiệu Trinh Nguyên (貞元, 785), ông đến tham yết Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), lãnh ngộ được Thiền chỉ của vị này, rồi sau đó theo tham học với Mã Tổ trong vòng 2 năm. Bên cạnh đó, ông còn trao đổi vấn đáp qua lại với các Thiền tăng đương thời như Đơn Hà Thiên Nhiên (丹霞天然), Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼), Tề Phong (齊峰), Bách Linh (百靈), Tùng Sơn (松山), Đại Đồng Phổ Tế (大同普濟), Trường Tì Khoáng (長髭曠), Bổn Hoát (本豁), Đại Mai Pháp Thường (大梅法常), Phù Dung Thái Dục (芙蓉太毓), Tắc Xuyên (則川), Lạc Phố (洛浦), Thạch Lâm (石林), Ngưỡng Sơn (仰山), Cốc Ẩn Tư (谷隱孜), v.v. Suốt cả đời ông không mang hình thức tăng sĩ mà chỉ cư sĩ mà thôi, nhưng vẫn đạt được cảnh giới giác ngộ riêng biệt của mình, được gọi là Duy Ma Cư Sĩ của Trung Hoa. Hơn nữa, tương truyền ông còn có việc làm quái dị như đem tài sản chất lên thuyền rồi nhận chìm xuống đáy biển. Ngoài ra, ông còn được dịp tri ngộ vị Sắc Sứ Tương Châu Vu Do (于頔), và ngay khi lâm chung ông nằm kê đầu trên bắp đùi Vu Do mà thác hóa. Sau này chính Vu Do biên bộ Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục (龐居士語錄) 2 quyển để truyền bá Thiền phong độc đáo của Bàng Uẩn. Về năm tháng thị tịch của ông, bộ Tổ Đường Tập (祖堂集) cho rằng ông thị tịch vào ngày nhật thực, và căn cứ vào thời gian nhiệm kỳ Sắc Sứ của Vu Do tại Tương Châu, người ta cho rằng ông thị tịch vào ngày mồng 1 tháng 7 năm thứ 3 (808) niên hiệu Nguyên Hòa (元和). Ngoài ra, con gái ông là Linh Chiếu (靈照) cũng đã từng triệt ngộ Thiền chỉ.
(保寧仁勇, Hōnei Ninyū, ?-?): vị tăng của Phái Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, sống vào khoảng dưới thời nhà Tống, xuất thân Tứ Minh (四明, Tỉnh Triết Giang). Ban đầu ông học giáo lý Thiên Thai, rồi chuyển sang Thiền và đến tham yết Tuyết Đậu Trùng Hiển (雪竇重顯). Sau nghe Dương Kì Phương Hội (楊岐方會) đang tuyên dương giáo pháp tại Vân Cái (雲蓋), ông đến tham học và ngộ được Thiền chỉ. Sau khi Phương Hội qua đời, ông cùng với bạn đồng tham học là Bạch Vân Thủ Đoan (白雲守端) đi du phương đó đây, cuối cùng đến trú tại Bảo Ninh Tự (保寧寺), Kim Lăng (金陵, Tỉnh Giang Tô) và tận lực xiển dương Thiền phong của mình. Đệ tử của ông có Thọ Thánh Trí Uyên (壽聖智淵), Thọ Thánh Sở Văn (壽聖楚文), Bảo Tích Tông Ánh (寶積宗映), Cảnh Phước Nhật Dư (景福日余), v.v. Ông có tác phẩm Bảo Ninh Dũng Thiền Sư Ngữ Lục (保寧勇禪師語錄) 1 quyển với lời tựa của Dương Kiệt (楊傑) ghi năm đầu (1078) niên hiệu Nguyên Phong (元豐). Chính ông và Thủ Đoan đã cùng nhau biên tập bộ Viên Châu Dương Kì Hội Hòa Thượng Ngữ Lục (袁州楊岐會和尚語錄).
(蓬萊): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ Bồng Lai Sơn (蓬萊山), tên ngọn núi thần trong truyền thuyết cổ đại, cũng thường chỉ chung cho cảnh tiên. Như trong Sử Ký (史記), thiên Phong Thiền Thư (封禪書), có ghi lại rằng: “Tự Uy, Tuyên, Yến Chiêu sử nhân nhập hải cầu Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu, thử tam thần sơn giả, kỳ phó tại Bột Hải trung (自威、宣、燕昭使人入海求蓬萊、方丈、瀛洲、此三神山者、其傅在勃海中, từ thời vua Uy [Tề Uy Vương, 378-320 ttl.], Tuyên [Tề Tuyên Vương, 350-301 ttl.], Yến Chiêu [tức Tương Vương, ?-279] đã cho người vào biển tìm Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu; ba ngọn núi thần này, gắn liền nhau ở trong Bột Hải).” Hay trong tác phẩm Vô Xuân Ký (春蕪記), phần Thuyết Kiếm (說劍), của Vương Lăng (王錂, ?-?) nhà Minh có câu: “Tha bổn Bồng Lai tiên chủng, ngẫu nhiên ký tích nhân gian (他本蓬萊仙種、偶然寄跡人間, người ấy vốn hạt giống tiên ở chốn Bồng Lai, ngẫu nhiên lưu dấu chốn nhân gian).” Trong Hoa Nghiêm Kinh Sớ Chú (華嚴經疏注, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 7, No. 234) cũng khẳng định rằng: “Tiên nhân sơn giả, tương truyền thị Đông Hải Bồng Lai Sơn (仙人山者、相傳是東海蓬萊山, núi tiên nhân tương truyền là Bồng Lai Sơn ở biển Đông).” (2) Trong Hậu Hán Thư (後漢書), Truyện Đậu Chương (竇章傳), có đoạn rằng: “Thị thời học giả xưng Đông Quán vi Lão Thị tàng thất, Đạo gia Bồng Lai Sơn (是時學者稱東觀爲老氏臧室、道家蓬萊山, học giả lúc bấy giờ gọi Đông Quán là nhà tàng ẩn của Lão Tử, là Bồng Lai Sơn của Đạo gia).” Cho nên, sau này người ta dùng từ bồng lai để chỉ cho nhà bí mật. Như trong bài Đăng Bí Thư Tỉnh Các Thi Tự (登秘書省閣詩序) của Dương Quýnh (楊炯, 650-692) nhà Đường có câu: “Chu vương quần ngọc chi sơn, Hán đế bồng lai chi thất (周王群玉之山、漢帝蓬萊之室, núi đủ thứ ngọc của Chu vương, nhà bí mật của Hán đế).” (3) Chỉ cho Bồng Lai Cung. Như trong bài thơ Túc Tích (宿昔) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường có câu: “Túc tích thanh môn lí, Bồng Lai trượng sổ di (宿昔青門裏、蓬萊仗數移, xưa kia cổng xanh biếc, Bồng Lai muôn trượng xa).”
(乾開坤闔): càn mở khôn đóng, tức trời mở ra và đất đóng lại. Trong Hệ Từ Truyện (繫辭傳) có giải thích rằng: “Hạp hộ vị chi khôn, tịch hộ vị chi càn, nhất hạp nhất tịch vị chi biến, vãng lai vô cùng vị chi thông (闔戶謂之坤、闢戶謂之乾、一闔一闢謂之變、徃來無窮謂之通, Đóng cửa gọi là khôn, mở cửa gọi là càn, một đóng một mở gọi là biến, qua lại không cùng gọi là thông).” Hay trong phần Huyền Quan Hiển Bí Luận (玄關顯秘論) của Tử Thanh Chỉ Huyền Tập (紫清指玄集) do Bạch Ngọc Thiềm (白玉蟾, 1194-?) nhà Tống soạn, cũng có đoạn rằng: “Khai hạp càn khôn tạo hóa quyền, đoán luyện nhất lô chơn nhật nguyệt (開闔乾坤造化權、煅煉一爐眞日月, Đóng mở trời đất tạo hóa quyền, nung luyện một lò đúng trời trăng).” Trong bài (望海亭賦) của Phạm Thành Đại (范成大) nhà Tống có câu: “Thiên phong kích xuy, ba đào hạp khai (天風激吹、波濤闔開, gió trời thổi mạnh, sóng cả đóng mở).”
(大歇了心, Taiketsu Ryōshin, ?-?): vị tăng của Phái Hoàng Long thuộc Lâm Tế Tông, sống vào khoảng giữa thời đại Liêm Thương, húy Liễu Tâm (了心), đạo hiệu Đại Hiết (大歇), thường được gọi là Bát Nhã Phòng (般若房). Sau khi xuất gia, ông đến tham yết Thối Canh Hành Dũng (退耕行勇) để thâm cứu áo nghĩa giáo học của vị này, rồi ông lại sang nhà Tống cầu pháp, đi tham cứu khắp chốn Thiền lâm, và quay về nước sống tại Thọ Phước Tự (壽福寺, Jufuku-ji), làm chức Thủ Bản (首版). Trong thời gian này, ông cung thỉnh Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) đến để cử xướng Thiền phong thuần túy nơi đây. Sau đó, ông đến trú tại Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji) ở trên kinh đô Kyoto và tiếp thu đồ chúng dạy dỗ. Chính Đại Hiết là người đã hoàn chỉnh hình thức cũng như quy tắc y phục lễ nhạc của Thiền lâm Nhật Bản.
(道吾圓智, Dōgo Enchi, 769-835): xuất thân vùng Hải Hôn (海昏), Dự Chương (豫章, Tỉnh Giang Tây), họ là Trương (張). Lúc còn nhỏ, ông xuất gia với Hòa Thượng Niết Bàn (涅槃), rồi đến Dược Sơn (藥山), theo học với Duy Nghiễm (惟儼), được tâm ấn của thầy và kế thừa dòng pháp của vị này. Về sau, ông đi tham vấn khắp chốn thiền lâm, đến Đạo Ngô Sơn (道吾山) và nỗ lực cử xướng Thiền phong của mình. Vào ngày 11 tháng 9 năm thứ 9 (835) niên hiệu Thái Hòa (太和), ông thị tịch, hưởng thọ 67 tuổi, được ban cho thụy hiệu là Tu Nhất Đại Sư (修一大師).
(鼎新): cách tân, đổi mới. Như trong bài Thỉnh Cải Quan Chế Tiền Dự Tuyển Quan Tập Hành Trục Ty Sự Vụ Trát Tử (請改官制前預選官習行逐司事務劄子) của Tằng Củng (曾鞏, 1019-1083) nhà Tống có câu: “Quan hiệu pháp chế, đỉnh tân ư thượng (官號法制、鼎新於上, pháp chế về quan hiệu, đổi mới từ bên trên).” Trong Thanh Châu Bách Vấn (青州百問, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 67, No. 1313) có câu: “Cung duy Thanh Châu Pháp Tổ Đại Sư đề cương chấn lĩnh, đỉnh tân Tào Động chi tông, vận trí hưng bi, di phú nhi tôn chi ấn (恭惟青州法祖大師提綱振領、鼎新曹洞之宗、運智興悲、彌覆兒孫之癊, cúi mong Pháp Tổ Đại Sư ở Thanh Châu đề xướng cương lĩnh, đổi mới Tào Động Tông phong, vận trí tuệ hưng khởi từ bi, che khắp tâm bệnh của con cháu).” Hay trong Nam Tống Nguyên Minh Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện (南宋元明禪林僧寶傳, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 79, No. 1562) quyển 14 cũng có đoạn: “Công tam tọa đạo tràng, điện vũ Thiền phường, hoán nhiên đỉnh tân, biệt kiến Lan Nhã, nhị thập dư sở (公三坐道塲、殿宇禪坊、煥然鼎新、別建蘭若、二十餘所, ông ba lần ngồi đạo tràng, nhà cửa Thiền phòng, đổi mới sáng sủa, dựng thêm ngôi chùa khác, hơn hai mươi chỗ).”
(丹霞子淳, Tanka Shijun, 1064-1117): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, họ là Cổ (賈), xuất thân Huyện Tử Đồng (梓潼), Kiếm Châu (劍州, Tỉnh Tứ Xuyên), còn gọi là Đức Thuần (德淳). Năm 27 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới, rồi đi tham vấn một số danh tăng như Chơn Như Cung Triết (眞如恭喆), Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文), Đại Hồng Báo Ân (大洪報恩), v.v., cuối cùng đến tham yết Đạo Giai (道楷) ở Đại Dương Sơn (大陽山) và kế thừa dòng pháp của vị này. Vào năm thứ 3 (1104) niên hiệu Sùng Ninh (崇寧), ông đến trú tại Đơn Hà Sơn (丹霞山) vùng Nam Dương (南陽), sau chuyển đến Đại Thừa Sơn (大乘山) ở Đường Châu (唐州) và Đại Hồng Sơn (大洪山) ở Tùy Châu (隨州). Tại những nơi này ông đều cổ xướng Thiền phong của mình. Vào ngày 11 tháng 3 năm thứ 7 (1117) niên hiệu Chính Hòa (政和), ông thị tịch. Môn nhân của ông có một số nhân vật tài danh như Chơn Hiết Thanh Liễu (眞歇清了), Thiên Đồng Chánh Giác (天童正覺), Đại Thừa Lợi Thăng (大乘利昇), Đại Hồng Khánh Dự (大洪慶預), v.v. Các trước tác của ông như Đơn Hà Thuần Thiền Sư Ngữ Lục (丹霞淳禪師語錄) 2 quyển, Hư Đường Tập (虛堂集) 3 quyển, vẫn còn hiện hành.
(家風, kafū): Gia (家) nghĩa là sư gia, Thiền gia, gia đình, v.v.; phong (風) là phong nghi, phong tục, phong cách. Như vậy, gia phong ở đây có nghĩa là phong nghi của một nhà nào đó. Trong Thiền Tông, đây là phong nghi sinh ra từ Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗); còn gọi là tông phong (宗風), Thiền phong (禪風). Như trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 7, phần Hàng Châu Phủ Linh Ẩn Lãn Am Đạo Xu Thiền Sư (杭州府靈隱懶菴道樞禪師) có câu: “Tuyết lí mai hoa xuân tin tức, trì trung nguyệt sắc dạ tinh thần, niên lai bất thị vô giai thú, mạc bả gia phong cử tợ nhân (雪裡梅華春信息、池中月色夜精神、年來不是無佳趣、莫把家風舉似人, trong tuyết hoa mai xuân báo tin, bên hồ trăng tỏ đêm tinh thần, xuân về chẳng phải không thú đẹp, chớ lấy gia phong nói cùng người).” Hay trong Viên Ngộ Phật Quả Thiền Sư Ngữ Lục (圓悟佛果禪師語錄, Taishō Vol. 47, No. 1997) quyển 6 có đoạn: “Xích nhục đoàn thượng, nhân nhân cổ Phật gia phong; Tỳ Lô đảnh môn, xứ xứ Tổ sư ba tỷ; niêm nhất cơ thiên cơ vạn cơ thông thấu; dụng nhất cú thiên cú vạn cú lưu thông (赤肉團上、人人古佛家風、毘盧頂門、處處祖師巴鼻、拈一機千機萬機通透、用一句千句萬句流通, trên đống thịt đỏ, người người gia phong cổ Phật; cửa đỉnh Tỳ Lô, chốn chốn xuất xứ Tổ sư; đưa ra một cơ duyên thì ngàn cơ duyên, vạn cơ duyên đều thông thấu; dùng một câu thôi mà ngàn câu, vạn câu thảy lưu thông).” Hoặc như trong Liệt Tổ Đề Cương Lục (列祖提綱錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1260) quyển 11 có câu: “Độc lâu thường can thế giới, tỷ khổng ma xúc gia phong, vạn lí thần quang đảnh hậu tướng, trực hạ hội đắc, chuyển phàm thành Thánh chỉ tại phiến thời (髑髏常干世界、鼻孔摩觸家風、萬里神光頂後相、直下會得、轉凡成聖只在片時, đầu lâu thường chạm thế giới, lỗ mũi xát đụng gia phong, vạn dặm hào quang sau đỉnh đầu, ngay đó ngộ được, chuyển phàm thành Thánh chỉ trong phút chốc).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập