Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiện Như »»
(s: kalaviṅka, p: karavika, 迦陵頻伽): còn gọi là Ca La Tần Già (歌羅頻伽), Ca Lan Già (加蘭伽), Ca Lan Tần Già (迦蘭頻伽), Yết La Tần Già (羯羅頻迦), Ca Lăng Tần Già (迦楞頻伽), Ca Lăng Tỳ Già (迦陵毘伽), Ca Lăng Già (迦陵伽), Yết Lăng Già (羯陵伽), Yết Tỳ Già La (羯毘伽羅), Yết Lăng Già La (羯陵伽羅), Ca Tỳ Già La (迦毘伽羅), Hạt Thất Già La (鶡鵯伽羅), Ca Vĩ La (迦尾羅), v.v.; ý dịch là hảo thanh điểu (好聲鳥, chim có tiếng hót hay), mỹ dung điểu (美容鳥, chim có hình dáng đẹp), diệu thanh điểu (妙聲鳥, chim có âm thanh tuyệt diệu). Đây là tên của một loài chim, thường thấy chủ yếu ở Ấn Độ, xuất xứ từ trên Tuyết Sơn (s, p: Himālaya, 雪山); nó sắc màu đen mượt giống như chim sẻ, bộ lông rất đẹp, ở phần cổ có màu đỏ. Khi còn trong trứng, chim đã có thể cất tiếng hót, âm thanh trong trẻo, hòa nhã, vi diệu, so với tiếng của Trời, người, Khẩn Na La (s: kiṃnara, 緊那羅) cũng như tất cả những loài chim khác đều thua xa. Như trong A Di Đà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao (阿彌陀經要解便蒙鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 430) quyển Trung có giải thích rằng: “Sơn cốc khoáng dã, kỳ trung đa hữu Ca Lăng Tần Già, xuất diệu âm thanh, nhược thiên nhược nhân, Khẩn Na La đẳng, vô năng cập giả (山谷曠野、其中多有迦陵頻伽、出妙音聲、若天若人、緊那羅等、無能及者, nơi hang núi đồng rộng, trong đó có nhiều chim Ca Lăng Tần Già, phát ra tiếng hót vi diệu, dẫu Trời dẫu người, Khẩn Na La vân vân, không thể sánh bằng).” Trong kinh điển Phật Giáo, thường lấy âm thanh của loài chim này để ví cho tiếng vi diệu của chư Phật, Bồ Tát; hoặc xem Ca Lăng Tần Già như là loài chim của thế giới Cực Lạc. Trong đồ hình Mạn Trà La Tịnh Độ, Ca Lăng Tần Già được vẽ dưới hình dạng đầu người thân chim. Trong Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận (大乘集菩薩學論, Taishō Vol. 32, No. 1636) quyển 23 có câu: “Mâu Ni Tam Nghiệp siêu Tam Hữu, thí nhược phù cừ bất trước thủy, Ca Lăng Tần Già tịnh diệu thanh, thị cố ngã kim khể cụ lễ (牟尼三業超三有、譬若芙蕖不著水、迦陵頻伽淨妙聲、是故我今稽具禮, Mâu Ni Ba Nghiệp vượt Ba Cõi, giống như hoa sen chẳng thấm nước, Ca Lăng Tần Già tiếng vi diệu, vì vậy con nay cúi đầu lạy).” Hay trong Phật Thuyết Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Đại Thừa Kinh (佛說護國尊者所問大乘經, Taishō Vol. 12, No. 321) quyển 3 có đoạn: “Phước Quang Thái Tử viên uyển chi nội, hữu chủng chủng phi điểu, Anh Vũ, Cù Dục, Uyên Ương, Nga Áp, Khổng Tước Xá Lợi, Câu Chỉ La Điểu, Câu Nỗ La Điểu, Ca Lăng Tần Già, Mạng Mạng Điểu đẳng (福光太子園苑之內、有種種飛鳥、鸚鵡、鴝鵒、鴛鴦、鵝鴨、孔雀舍利、俱枳羅鳥、俱拏羅鳥、迦陵頻伽、命命鳥等, trong vườn của Thái Tử Phước Quang có nhiều loại chim bay, như chim vẹt, sáo, uyên ương, vịt trời, chim sẻ Xá Lợi, chim Câu Chỉ La, chim Câu Nỗ La, chim Ca Lăng Tần Già, chim Mạng Mạng, vân vân).” Trong Tam Thời Hệ Niệm Nghi Quỹ (三時繫念儀範, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1465) lại có đoạn: “Lục thời hành đạo bảo lâm gian, Cửu Phẩm tiêu danh kim chiểu nội, thủy điểu thọ lâm năng thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già cọng đàm Thiền, bảo lan bảo can ảnh linh lung, bảo tọa bảo tràng quang xán lạn (六時行道寶林間、九品標名金沼內、水鳥樹林能說法、迦陵頻伽共談禪、寶欄寶網影玲瓏、寶座寶幢光燦爛, sáu thời hành đạo nơi rừng báu, Chín Phẩm đề danh trong hồ vàng, chim nước rừng cây còn thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già thảy bàn Thiền, lan can quý báu ảnh lung linh, tòa báu tràng phan sáng rực rỡ).”
(s: Maheśvara, p: Mahissara, 大自在天): âm dịch là Ma Hê Thủ La (摩醯首羅), Ma Hê Y Thấp Phạt La (摩醯伊濕伐羅), tên gọi khác của vị thần Thấp Bà (s: Śiva, 濕婆) trong Ấn Độ Giáo. Vị thần này ngày xưa đã cùng với thần Tỳ Nữu Noa (s: Viṣṇu, 毘紐拏) hiện hữu dưới trời Phạm Thiên (s: Braḥma, 梵天), nhưng sau đó cả ba đều có cùng ngôi vị ngang nhau. Trong Ấn Độ Giáo, Đại Tự Tại Thiên được xem như là vị thần của thế giới tối cao, sáng tạo ra vạn vật, thế giới vũ trụ. Trong Phật Giáo, vị thần này cũng được trọng thị, được xem như là vị thánh trú trên cõi Ngũ Tịnh Cư Thiên (五淨居天) trên cả sắc giới, đặc biệt là ở cõi cao nhất Sắc Cứu Cánh Thiên (s: Akaniṣṭha, 色究竟天, âm dịch là A Ca Nị Tra Thiên [阿迦膩吒天]). Ngoài ra, Đại Thừa Phật Giáo xem vị trời này là vị thánh ở cảnh giới Pháp Vân Địa (法雲地) cao nhất trong 10 Địa của vị Bồ Tát. Vị Bồ Tát ở cảnh địa thứ 10 này được xem như là sẽ thành Phật và trở thành vua của Ma Hê Thủ La Thiên. Cõi này được gọi là Tịnh Cư Ma Hê Thủ La (淨居摩醯首羅), khác với Tỳ Xá Xà Ma Hê Thủ La (s: Piśāca maheśvara, 毘舍闍摩醯首羅) do ngoại đạo lập nên. Về hình tượng, vị này thường có 3 mắt 6 cánh tay, cỡi con trâu trắng, và cũng có trường hợp 2 tay, 10 tay hay 18 tay. Vị trời này còn có những tên gọi khác như Thương Yết La (s: Śaṅkara, 商掲羅), Lô Na La (s: Rudra, 嚕捺羅), Y Xa Na (s: Īśāna, 伊賖那), Thú Chủ (s: Paśupati, 獸主), Ma Ha Đề Bà (s: Mahādeva, 摩訶提婆), v.v. Ngoài ra, trong Trí Độ Luận (智度論) cũng có trường hợp xem Tự Tại Thiên và Đại Tự Tại Thiên như nhau.
(行應玄節, Gyōō Gensetsu, 1756-1831): vị tăng của Lâm Tế Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ (江戸, Edo), húy là Huyền Tiết (玄節), đạo hiệu Hành Ứng (行應), thụy là Tâm Giám Từ Chiếu Thiền Sư (心鑑慈照禪師), xuất thân vùng Thỉ Dã (矢野), Y Do (伊予, Iyo, thuộc Ehime-ken [愛媛縣]). Năm lên 19 tuổi, ông theo hầu Đề Châu Thiền Nhứ (提洲禪恕) ở Tự Tánh Tự (自性寺), vùng Trung Tân (中津, Nakatsu) Phong Tiền (豐前, Buzen). Sau khi vị này qua đời thì ông đến tham Thiền với Hải Môn Thiền Cách (海門禪恪). Năm 1779, ông lên tham dự lễ kỵ lần thứ 500 của Viên Nhĩ Biện Viên (圓爾辨圓) ở Đông Phước Tự (東福寺) vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro), nhân đó tham yết Thiên Nghê Huệ Khiêm (天猊慧謙) ở chùa này; và sau được ấn khả của Từ Trác (慈棹). Năm 1794, ông đến sống tại Long Đàm Tự (龍潭寺) vùng Y Do, rồi năm 1803 đến Đẳng Giác Tự (等覺寺).
(興福寺奏狀, Kōfukujisōjō): bản tấu trạng do chúng môn đồ của phía Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) dâng lên triều đình thỉnh cầu cấm chế giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật (專修念佛). Người viết bản thảo là Giải Thoát Phòng Trinh Khánh (貞慶, Jōkei). Bản trạng văn ghi tháng 10 năm 1205 (Nguyên Cửu [元久] nhị niên), nêu lên 9 điều sai trái và phê phán giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật của Pháp Nhiên (法然, Hōnen). Tám tông phái lớn đương thời như Pháp Tướng, Thiên Thai, v.v., tất nhiên đã được sắc hứa của triều đình nên công nhiên hoạt động, riêng Pháp Nhiên thì lập ra một tông phái mới mà vẫn chưa có sự hứa khả (sai lầm thứ nhất), vẽ bức Nhiếp Thủ Bất Xả Mạn Trà La (攝取不捨曼荼羅) với tư tưởng cho rằng ánh quang minh của đức Di Đà không chiếu soi đến các học sinh của Hiển Tông cũng như hành giả của Chơn Ngôn; thể hiện sự khinh miệt trắng trợn đối với những nhà tu hành của Thánh Đạo Môn (sai lầm thứ hai). Phái này chỉ biết trọng thị Phật Di Đà, xem thường đấng giáo chủ Thích Ca (sai lầm thứ ba); bỏ đi các việc làm Thiện Như đọc tụng kinh điển, kiến lập chùa tháp, v.v. (sai lầm thư tư); rồi không lễ lạy các đền thờ, tông miếu (sai lầm xem thường Ngũ Linh Thần [五靈神] thư năm); phủ nhận đạo đức của thế gian và thiện căn ngoài việc niệm Phật, do đó không công nhận các hạnh vãng sanh (sai lầm thứ sáu). Họ chỉ biết lấy pháp môn miệng niệm hồng danh mà bỏ qua việc niệm Phật theo hình thứ quán niệm cũng như tâm niệm (sai lầm về quan niệm niệm Phật thứ bảy); thậm chí còn khuyến khích phá giới như phạm nữ sắc, ăn thịt, v.v. (sai lầm làm tổn hại chúng đệ tử Thích Tôn thứ tám); làm phá tan nguyên tắc Vương Pháp Phật Pháp và dấy sinh loạn lạc (sai lầm làm cho quốc gia loạn lạc thứ chín). Bản tấu trạng này đã nêu lên 9 điều sai lầm nghiêm trọng (bằng Hán văn) của giáo đoàn niệm Phật, thỉnh cầu đình chỉ pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật, và xử phạt Pháp Nhiên cũng như chúng đệ tử ông. Khoảng 1, 2 năm sau đó, Pháp Nhiên cùng môn đệ bị lưu đày.
(徑山法欽, Keizan Hōkin, 714-792): vị tăng của Ngưu Đầu Tông (牛頭宗) Trung Quốc, xuất thân Côn Sơn (崑山), Quận Ngô (呉郡, Tỉnh Triết Giang), còn gọi là Đạo Khâm (道欽), họ Chu (朱). Năm 28 tuổi, trên đường đi lên kinh đô, ông ghé qua tham yết Hạc Lâm Huyền Tố (鶴林玄素), rồi xuất gia ngay trong ngày ấy và về sau kế thừa dòng pháp của vị này. Sau đó, ông đến sống tại Tây Sơn (西山, tức Kính Sơn [徑山]) thuộc Dư Hàng (餘杭, Tỉnh Triết Giang) và trở thành sơ tổ của Phái Kính Sơn. Đến năm thứ 3 (768) niên hiệu Đại Lịch (大曆), ông vào cung nội, thuyết pháp cho vua Đại Tông, cho nên ông được ban tặng hiệu Quốc Nhất Đại Sư (國一大師) và tên chùa Kính Sơn Tự (徑山寺). Các vị Tướng Công Thôi Hoán (崔渙), Bùi Tấn Công Độ (裴晉公度), Đệ Ngũ Kỳ (第五琦), Trần Thiếu Du (陳少遊), v.v., đã từng bái ông làm thầy. Ngay chính như những nhân vật nổi tiếng của Nam Tông Thiền như Tây Đường Trí Tàng (西堂智藏), Thiên Hoàng Đạo Ngộ (天皇道悟), Đơn Hà Thiên Nhiên (丹霞天然), v.v., cũng đã từng đến tham vấn với ông. Vào năm thứ 6 (790) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông chuyển đến trú tại Tịnh Độ Viện (淨土院) của Long Hưng Tự (龍興寺) và đến tháng 12 năm thứ 8 (792) thì thị tịch, hưởng thọ 79 tuổi đời và 50 hạ lạp. Vua Đức Tông ban cho thụy hiệu là Đại Giác Thiền Sư (大覺禪師); Lý Cát Phụ (李吉甫) soạn ra Hàng Châu Kính Sơn Tự Đại Giác Thiền Sư Bi Minh Tinh Tự (杭州徑山寺大覺禪師碑銘幷序).
(日仁, Nichinin, ?-1416): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, vị Tổ đời thứ 3 của Diệu Mãn Tự (妙滿寺); húy là Nhật Nhân (日仁); thông xưng là Tể Tướng A Xà Lê (宰相阿闍梨); hiệu Thiện Như Phòng (善如房), Bổn Giác Phòng (本覺房). Ông được Nhật Thập (日什) giao lại cho Diệu Pháp Tự (妙法寺) ở vùng Lục Áo (陸奥, Michinoku, thuộc Fukushima-ken [福島縣]); rồi sau đó thì được bổ nhiệm làm trú trì đời thứ 3 của Diệu Mãn Tự ở kinh đô Kyoto. Ông tiếp tục kế thừa phong trào dâng lời can gián của Nhật Thập; và năm 1398 đã cùng với Nhật Thật (日實) tố cáo Túc Lợi Nghĩa Mãn (足利義滿). Nhân đó, Nghĩa Mãn nổi giận, bắt ông đem khảo tra, nhưng ông vẫn không hề khuất phục. Ông là một trong 6 đệ tử chân truyền của Nhật Thập.
(一人作虚) [tạp]: tên gọi một công án trong Thiền Tông, nghĩa là một người làm (cho là, nói) sai. Có công án rằng: “Nhất nhân thổ hư ngôn, tắc vạn nhân tương truyền vi thật dã (一人吐虚言、則萬人相傳爲實也, một người nói lời sai tất vạn người truyền nhau là thật)”. Hư Cốc Tập (虚谷集) có đoạn rằng: “Hữu tăng vấn Hưng Hóa Tồn Tương, Đa Tử tháp tiền, cọng đàm hà sự ? Hóa vân: 'Nhất nhân tác hư vạn nhân truyền thật' (有僧問興化存奬、多子塔前、共談何事, có vị tăng hỏi Hưng Hóa Tồn Tương (興化存奬, 830-888) rằng: 'Trước tháp Đa Tử, cùng luận việc gì ? Hưng Hóa đáp: 'Một người cho là sai, vạn người truyền là thật)”. Như vậy chân lý là cái mà mọi người tự ngộ tự đắc, mỗi bước cũng như ngôn ngữ, chữ nghĩa đều mất đi cái chân thật của chân lý. Câu này cùng nghĩa với câu nói của Thiền sư Diên Chiểu (延沼, 896-973) rằng: “Nhất khuyển phệ hư, thiên nhu nhai thật (一犬吠虚、千猱啀實, một con chó sủa lên sai, ngàn con vượn hùa nhau cho là thật)”.
(十牛圖): do Quách Am Sư Viễn (郭庵師遠) soạn, là tác phẩm dụ con trâu như là tự kỷ xưa nay của mình, miêu tả quá trình dẫn dắt con trâu trở về sau khi nó chạy đi mất, được phân chia thành 10 giai đoạn gồm:
(1) Tìm Trâu, - (2) Thấy Dấu,
(3) Thấy Trâu, - (4) Được Trâu,
(5) Chăn Trâu, - (6) Cỡi Trâu Về Nhà,
(7) Quên Trâu Còn Người, - (8) Người Trâu Đều Quên,
(9) Về Lại Nguyên Gốc, - (10) Thỏng Tay Vào Chợ.
Mỗi giai đọan như vậy được biểu hiện bằng tranh, lời giải thích và thơ. Tác phẩm này đã được truyền vào Nhật rất sớm, được thâu tập vào trong Tứ Bộ Lục (四部錄, Shiburoku) cũng như Ngũ Vị Thiền (五味禪, Gomizen), và thỉnh thoảng cũng được san hành phổ biến. Với nội dung rất đơn giản nhằm mục đích miêu tả hết toàn bộ diện mạo tu hành Thiền như thế nào, cho nên mãi đến ngày nay người ta vẫn còn quan tâm đến. Điều này vốn phát xuất từ khuynh hướng muốn truy tìm cho bằng được về mặt nhất nguyên tâm con người mang tính đặc trưng nhất. Khuynh hướng này có điểm cọng thông với Thiền Công Án, phản ánh trạng huống đương thời của tùng lâm. Hơn nữa, loại trước tác như vậy đã thấm sâu vào trong tận cùng thể chế quản lý mà bao trùm khắp chốn tùng lâm, và chúng ta cũng không thể nào bỏ qua được mặt trái của nó. Tuy nhiên, ngoài bản này ra còn có bản Thập Ngưu Đồ khác của Phổ Minh (普明, ?-?, đệ tử của Viên Thông Pháp Tú [圓通法秀, 1027-1090] thuộc Vân Môn Tông) cũng rất nổi tiếng. Nó cũng được lưu nhập vào Nhật vào thời Cận Đại.
(尚直編, Shōjikiben): 2 quyển, trước tác của Không Cốc Cảnh Long (空谷景隆) nhà Minh, san hành vào năm thứ 5 (1440) niên hiệu Chánh Thống (正統). Không Cốc Cảnh Long―pháp từ của Sư Tử Lâm Thiên Như Duy Tắc (師子林天如惟則), pháp hệ của Trung Phong Minh Bổn (中峰明本)―phản bác thuyết bài xích Phật Giáo của Nho Giáo nhà Tống và Chu Tử và khẳng định rõ rằng đạo của chư vị thánh nhân của 3 tôn giáo Nho, Phật, Đạo là kết hợp trời đất với đức, ánh sáng với trời trăng, tất cả đều là tư lương để chứng đạo nguyên sơ.
(追薦): còn viết là truy thiện (追善), truy phước (追福), truy tu (追修), truy nghiêm (追嚴), v.v. Truy tiến nghĩa là tiến cúng cầu phước cho người quá vãng. Truy thiện lại có nghĩa là vì người quá vãng mà tiến hành những việc Thiện Như tụng kinh, bái sám, cầu vong linh siêu độ. Cho nên, truy tiến là điển ngữ, còn truy thiện là từ thông tục. Như trong Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh Sớ (佛說盂蘭盆經疏, Taishō Vol. 39, No. 1792) quyển Thượng, do Sa Môn Tông Mật (宗密, 780-841) thuật, có câu: “Toại sưu sách Thánh hiền chi giáo, kiền cầu truy tiến chi phương (逐搜索聖賢之敎、虔求追薦之方, bèn tìm tòi lời dạy Thánh hiền, khẩn cầu phương cách cầu siêu).” Hay trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 60, có đoạn: “Trại nội dương khởi trường phan, thỉnh phụ cận tự viện tăng chúng thượng sơn tố công đức, truy tiến Triều Thiên Vương (寨內揚起長旛、請附近寺院僧眾上山做功德、追薦晁天王, trong làng dựng lên là phan dài, cung thỉnh tăng chúng ở tự viện lân cận lên núi làm công đức, cầu siêu độ cho Triều Thiên Vương).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập