Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiền lưu »»
(半言): nửa lời, còn gọi là bán kệ (半偈, nửa bài kệ). Theo Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經) quyển 14, Phẩm Thánh Hạnh (聖行品), xưa kia khi Như Lai chưa xuất hiện trên đời, lúc bấy giờ đức Phật Thích Ca thị hiện là một người ngoại đạo Bà La Môn, tinh thông hết thảy các học vấn, hành vi rất nhu hòa, tịch tĩnh, tâm thanh tịnh, vô nhiễm. Vị ấy có chí nguyện muốn tìm học kinh điển Đại Thừa; nhưng trãi qua một thời gian lâu mà không có kết quả. Sau ông vào trong núi Tuyết Sơn tu khổ hạnh, hành Thiền định và chờ đợi đấng Như Lai xuất hiện để được nghe giáo pháp Đại Thừa. Thấy vậy, Trời Đế Thích bèn biến hóa thành một con quỷ La Sát rất hung dữ, đáng sợ, bay đến gần chỗ vị tiên nhân, rồi lớn tiếng tuyên thuyết nửa bài kệ tụng do trước kia đã từng nghe từ đức Như Lai rằng: “Chư hành vô thường, hữu sinh hữu diệt (諸行無常、有生有滅, các hành vô thường, có sinh thì có diệt)”, và đến bên tiên nhân đảo mắt hung tợn nhìn khắp bốn phương. Nghe xong nửa bài kệ này, tiên nhân cảm thấy như có được thuốc hay để trị lành căn bệnh lâu ngày, như rơi xuống nước mà được thuyền cứu vớt, như đất hạn hán lâu ngày gặp nước mưa, như thân hình bị giam hãm lâu ngày nay được phóng thích; nên thân tâm rất hoan hỷ. Tiên nhân đứng dậy nhìn quanh, chỉ thấy con quỷ La Sát thân hình hung tợn, nên rất hồ nghi không biết ai đã tuyên thuyết câu kệ vi diệu như vậy; cuối cùng mới biết do con quỷ La Sát thuyết. Vị tiên nhân chí thành cầu xin con quỷ nói tiếp nửa bài kệ sau; sau nhiều lần thử thách, con quỷ vẫn không bằng lòng; cho nên vị tiên nhân phát nguyện hiến cả thân mạng cho con quỷ đói, chỉ với mục đích là nghe được chánh pháp mà thôi. Nhân đó, quỷ La Sát thuyết nửa bài kệ sau: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc (生滅滅已、寂滅爲樂, Sinh diệt diệt hết, vắng lặng an vui)”. Nghe xong, vị Bà La Môn biết câu kệ này rất có lợi ích cho mọi người, liền khắc lên khắp nơi như vách đá, thân cây, v.v., để lưu truyền cho hậu thế. Sau đó, ông leo lên cây cao, buông mình xuống để xả thân cho con quỷ đói ăn, theo như lời phát nguyện. Lúc bấy giờ, trên không trung văng vẳng âm thanh vi diệu, các vua trời cùng Trời Đế Thích hiện nguyên thân hình đón lấy thân thể vị Bà La Môn, cung kính đãnh lễ và cầu xin hóa độ cho họ trong tương lai. Nhờ nhân duyên xả thân mạng để nghe được nửa câu kệ như vậy, sau 12 kiếp tu hành, vị Bà La Môn thành Phật trước cả Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, 彌勒). Hơn nữa, trong Bách Nghiệp Kinh (百業經), có đề cập đến câu chuyện tiền thân của đức Phật là của Tích Phổ Quốc Vương (昔普國王) cũng tương tự như vậy; song nội dung chuyện và văn kệ có phần khác. Đức vua là người có tâm từ bi lớn, chuyên bố thí khắp mọi người, thương yêu thần dân hết mực. Trời Đế Thích thấy vậy muốn thử tâm của nhà vua, bèn biến thành con quỷ La Sát, đến trước vua tuyên thuyết nửa bài kệ rằng: “Chư pháp giai vô thường, nhất thiết sinh diệt tánh (諸法皆無常、一切生滅性, các pháp đều vô thường, tất cả có tánh sinh diệt)”. Nghe xong pháp xong, đức vua sanh tâm hoan hỷ, liền cung kính đãnh lễ La Sát và cầu xin cho nghe nửa bài kệ sau với lời phát nguyện sẽ dâng hiến thịt máu của vua cho con quỷ. Trước lời thỉnh cầu chí thành của nhà vua, quỷ La Sát nói tiếp nửa bài kệ sau là: “Sinh diệt tức diệt tận, bỉ đẳng tịch diệt lạc (生滅卽滅盡、彼等寂滅樂, Sinh diệt đã diệt hết, ấy niềm vui vắng lặng)”. Sau khi nghe được cả bài kệ, đức vua lấy toàn bộ thịt máu của mình dâng cho quỷ La Sát. Lúc bấy giờ, đại địa chấn động, trời người rải hoa cúng dường và tán thán đại nguyện của Tích Phổ Quốc Vương. Sau này, Huyền Trang (玄奘, 602-664) có làm bài “Đề Bán Kệ Xả Thân Sơn (題半偈捨身山)” rằng: “Hốt văn bát tự siêu thi cảnh, bất tích đơn xu xả thử sơn, kệ cú thiên lưu phương thạch thượng, nhạc âm thời tấu bán không gian (忽聞八字超詩境、不惜丹軀捨此山、偈句篇留方石上、樂音時奏半空間, chợt nghe tám chữ siêu thi hứng, chẳng tiếc thân mình bỏ núi non, câu kệ còn lưu trên vách đá, nhạc âm vang vọng nửa không gian)”. Ngoài ra, Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺, 675-713), tác giả của bài Chứng Đạo Ca (証道歌), cũng có Bán Cú Kệ rằng: “Sanh dã điên đảo, tử dã điên đảo (生也顚倒、死也顚倒, sống cũng điên đảo, chết cũng điên đảo).”
(蝶夢): giấc mơ biến thành con bướm, còn gọi là hồ điệp mộng (蝴蝶夢), hồ điệp chi mộng (蝴蝶之夢). Sự tích này được thuật lại trong Tề Vật Luận (齊物論) của Trang Tử (莊子). Một hôm nọ, Trang Chu nằm mộng thấy mình biến thành con bướm, bản thân ông rất vui mừng, hân hoan tự đắc, quên đi chẳng biết mình là Trang Chu. Đến khi tỉnh dậy, mới biết mình là Trang Chu; chẳng biết giấc mộng của Trang Chu chính la con bướm, giấc mộng của con bướm lại là Trang Chu. Câu chuyện này nói lên tâm cảnh Vạn Vật Nhất Thể (萬物一體, vạn vật cùng một thể), không có sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể. Trong U Mộng Ảnh (幽夢影) của Trương Triều (張潮, 1650-?) nhà Thanh có một câu nổi tiếng là: “Trang Chu mộng vi hồ điệp, Trang Chu chi hạnh dã; hồ điệp mộng vi Trang Chu, hồ điệp chi bất hạnh dã (莊周夢爲蝴蝶、莊周之幸也、蝴蝶夢爲莊周、蝴蝶之不幸也, Trang Chu mơ làm con bướm, Trang Chu thật may mắn vậy; con bướm mơ làm Trang Chu, con bướm quả bất hạnh vậy).” Câu chuyện này còn nêu rõ triết lý nhân sinh vô thường, như mộng huyễn, thời gian trôi qua như chớp mắt, giàu sang, phú quý chẳng thể cầu mong được. Trong bài Cổ Phong Ngũ Thập Cửu Thủ (古風五十九首) của thi sĩ Lý Bạch (李白, 701-762) có đoạn: “Trang Chu mộng hồ điệp, hồ điệp vi Trang Chu, nhất thể cánh biến dị, vạn sự lương du du, nãi tri bồng lai thủy, phục tác thanh thiển lưu (莊周夢蝴蝶、蝴蝶爲莊周、一體更變易、萬事良悠悠、乃知蓬萊水、復作清淺流, Trang Chu mơ bươm bướm, bươm bướm là Trang Chu, một thể lại thành khác, vạn sự tốt dài lâu, mới biết bèo trôi dạt, lại làm dòng nước trôi).” Hơn nữa, trong bài Mãn Giang Hồng (滿江紅) của Cát Đàm (葛郯, ?-?) nhà Tống, được thâu lục trong Toàn Tống Từ (全宋詞), có câu: “Bất quản phù sanh như điệp mộng (不管浮生如蝶夢, chẳng kể phù sinh như mộng bướm).” Câu “điệp mộng mang mang, Tây Trúc hà bằng chi siêu độ (蝶夢茫茫、西竺何憑之超度)” có nghĩa giấc mơ bướm mờ mịt, mênh mang, không biết nương vào đâu để được siêu độ về cõi Tây Trúc, quốc độ của chư Phật.
(五方蠻雷使者): tên gọi vị sứ giả bộ hạ của Lôi Tổ trong Lôi Bộ. Từ này thấy xuất hiện trong Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn Ngọc Xu Bảo Kinh (九天應元雷聲普化天尊玉樞寶經) của Đạo Giáo: “Cửu Thiên Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Lôi Bộ Binh Sứ Giả, Mạc Trám Phán Quan, phát hiệu thi lịnh, tật như phong hỏa (九天雷公將軍、五方雷公將軍、八方雲雷將軍、五方蠻雷使者、雷部兵使者、莫賺判官、發號施令、疾如風火, Cửu Thiên Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Lôi Bộ Binh Sứ Giả, Mạc Trám Phán Quan ban hành hiệu lịnh, nhanh như gió lửa).” Hay trong Tử Vi Huyền Đô Lôi Đình Ngọc Kinh (紫微玄都雷霆玉經) cũng có đoạn rằng: “Bắc Cực Tử Vi Đại Đế thống lãnh Tam Giới, chưởng ác Ngũ Lôi; Thiên Bồng Quân, Thiên Du Quân, Dực Thánh Quân, Huyền Võ Quân phân ty lãnh trị; Thiên Cương Thần, Hà Khôi Thần, thị vi chiêu lôi hịch đình chi ty; Cửu Thiên Lưu Kim Hỏa Linh Đại Tướng Quân, Thiên Đinh Lực Sĩ, Lục Đinh Ngọc Nữ, Lục Giáp Tướng Quân, thị vi tiết độ lôi đình chi sứ; Cửu Thiên Khiếu Mạng Phong Lôi Sứ Giả, Lôi Lịnh Sứ Giả, Hỏa Lịnh Đại Tiên Hỏa Bá, Phong Lịnh Hỏa Lịnh Phong Bá, Tứ Mục Hạo Ông, Thương Nha Phích Lịch Đại Tiên, thị vi nhiếp hạt lôi đình chi thần; Hỏa Bá Phong Đình Quân, Phong Hỏa Nguyên Minh Quân, Lôi Quang Nguyên Thánh Quân, Vũ Sư Trượng Nhân Tiên Quân, thị vi lôi đình phong vũ chi chủ; trung hữu Tam Ngũ Thiệu Dương Lôi Công Hỏa Xa Thiết Diện Chi Thần, trung hữu Phụ Phong Mãnh Lại Ngân Nha Diệu Mục Tiên Hỏa Luật Lịnh Đại Thần, Lang Nha Mãnh Lại Đại Phán Quan, Ngũ Lôi Phi Tiệp Sứ Giả, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Bát Phương Vân Lôi Đại Tướng, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Tam Giới Man Lôi Sứ Giả, Cửu Xã Man Lôi Sứ Giả, thật ty kỳ lịnh, dụng Tán Kì quyền (北極紫微大帝統禦三界、掌握五雷、天蓬君、天猷君、翊聖君、玄武君分司領治、天罡神、河魁神、是爲召雷檄霆之司、九天流金火鈴大將軍、天丁力士、六丁玉女、六甲將軍、是爲節度雷霆之使、九天嘯命風雷使者、雷令使者、火令大仙火伯、風令火令風伯、四目皓翁、蒼牙霹靂大仙、是爲攝轄雷霆之神、火伯風霆君、風火元明君、雷光元聖君、雨師丈人仙君、是爲雷霆風雨之主、中有三五邵陽雷公火車鐵面之神、中有負風猛吏銀牙耀目飆火律令大神、狼牙猛吏大判官、五雷飛捷使者、五方雷公將軍、八方雲雷大將、五方蠻雷使者、三界蠻雷使者、九社蠻雷使者、實司其令、用贊其權, Bắc Cực Tử Vi Đại Đế thống lãnh Ba Cõi, chưởng quản Ngũ Lôi; Thiên Bồng Quân, Thiên Du Quân, Dực Thánh Quân, Huyền Võ Quân phân chia các ban mà thống trị; Thiên Cương Thần, Hà Khôi Thần là các thần quản lý việc kêu sấm gọi sét; Cửu Thiên Lưu Kim Hỏa Linh Đại Tướng Quân, Thiên Đinh Lực Sĩ, Lục Đinh Ngọc Nữ, Lục Giáp Tướng Quân là sứ điều chỉnh sấm sét; Cửu Thiên Khiếu Mạng Phong Lôi Sứ Giả, Lôi Lịnh Sứ Giả, Hỏa Lịnh Đại Tiên Hỏa Bá, Phong Lịnh Hỏa Lịnh Phong Bá, Tứ Mục Hạo Ông, Thương Nha Phích Lịch Đại Tiên là thần cai quản sấm sét; Hỏa Bá Phong Đình Quân, Phong Hỏa Nguyên Minh Quân, Lôi Quang Nguyên Thánh Quân, Vũ Sư Trượng Nhân Tiên Quân là chủ tể quản lý gió mưa, sấm sét; trong đó có Thần Tam Ngũ Thiệu Dương Lôi Công Hỏa Xa Thiết Diện, trong đó lại có Phụ Phong Mãnh Lại Ngân Nha Diệu Mục Tiên Hỏa Luật Lịnh Đại Thần, Lang Nha Mãnh Lại Đại Phán Quan, Ngũ Lôi Phi Tiệp Sứ Giả, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Bát Phương Vân Lôi Đại Tướng, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Tam Giới Man Lôi Sứ Giả, Cửu Xã Man Lôi Sứ Giả thật sự thi hành lịnh của Bắc Cực Tử Vi Đại Đế để tán dương quyền lực Người).”
(s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊): còn gọi là Ngũ Ấm (五陰), Ngũ Chúng (五眾), Ngũ Tụ (五聚). Uẩn (s: skandha, p: khandha, ) âm dịch là Tắc Kiện Đà (塞健陀), ý là tích tụ, loại biệt, tức là 5 loại khác nhau về các pháp hữu vi; về mặt khách quan, là chỉ cho toàn thể thế giới vật chất cũng như tinh thần. Ngũ Uẩn gồm:
(1) Sắc Uẩn (s: rūpa-skandha, p: rūpa-khandha, 色蘊), tức chỉ cho nhục thể hữu tình, thế giới vật chất, các yếu tố Đất, Nước, Gió, Lửa, cũng như những loại được hình thành từ các yếu tố ấy. Trong 75 pháp của Câu Xá Luận (具舍論), 11 pháp Nhãn (眼, mắt), Nhĩ (耳, tai), Tỷ (鼻, mũi), Thiệt (舌, lưỡi), Thân (身, thân thể), Sắc (色, sắc màu), Thanh (聲, âm thanh), Hương (香, mùi hương), Vị (味, mùi vị), Xúc (觸, xúc chạm), Vô Biểu (無表, không thể hiện) là chỉ cho Sắc Uẩn.
(2) Thọ Uẩn (s: vedanā-skandha, p: vedanā-khandha, 受蘊), chỉ cho tác dụng cảm thọ của khổ, vui, v.v., mang tính tinh thần (tri giác), mang tính nhục thể (cảm giác); được phân loại thành 3 loại Thọ là Khổ, Vui, Không Khổ Không Vui; hay 5 loại Thọ là Ưu (憂, buồn), Hỷ (喜, mừng), Khổ (苦, khổ), Lạc (樂, vui), Xả (捨, xả bỏ).
(3) Tưởng Uẩn (s: sañjā-skandha, p: saññā-khandha, 想蘊), tương đương với khái niệm, biểu tượng.
(4) Hành Uẩn (s: saṁkhāra-skandha, p: saṅkhāra-khandha, 行蘊), nghĩa hẹp là chỉ cho tư duy (ý chí); nghĩa rộng là chỉ cho các pháp tâm bất tương ứng với tính cách là sức mạnh để vận động hết thảy tác dụng tinh thần, tác dụng vật chất, trừ ba uẩn Thọ, Tưởng và Thức. Tỷ dụ như Đắc (得, đạt được), Phi Đắc (非得, không đạt được), Sanh (生, sanh), Trụ (住, tồn tại), Dị (易, thay đổi), Diệt (滅, hoại diệt), Danh (名), Cú (句), Văn (文), v.v.
(5) Thức Uẩn (s: vijñāna-skandha, p: viññāṇa-khandha, 識蘊), với tính cách là chủ thể của tâm, nó chỉ cho Nhãn Thức (眼識) cho đến 6 thức kia; hơn nữa thức thứ 7 Mạt Na (末那) cũng như thức thứ 8 A Lại Da (s, p: ālaya, 阿賴耶) của Duy Thức Học, cũng thuộc về Thức Uẩn này.
Trong Đại Huệ Phổ Giác Thiền Sư Thư (大慧普覺禪師書, Taishō No. 1998A) quyển 28 có đoạn rằng: “Phật vi nhất thiết mê nhân nhận Ngũ Uẩn hòa hợp vi tự thể tướng, phân biệt nhất thiết pháp vi ngoại trần tướng, háo sanh ố tử niệm niệm thiên lưu, bất tri mộng huyễn hư giả, uổng thọ luân hồi (佛爲一切迷人認五蘊和合爲自體相、分別一切法爲外塵相、好生惡死念念遷流、不知夢幻虛假、枉受輪回, Phật vì hết thảy người mê nhận Năm Uẩn hòa hợp là tướng tự thể, phân biệt tất cả pháp là tướng ngoại trần, thích sống sợ chết mỗi niệm trôi nỗi, chẳng biết mộng huyễn giả dối, uổng thọ luân hồi).” Hay như trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, CBETA No. 1456) quyển 38 cũng có câu: “Ngũ Uẩn sơn trung tịch diệt trường, lục song hư sưởng dạ sanh quang, chỉ tu hoán tỉnh yểm trung chủ, mạc sử hôn trầm tự cái tàng (五蘊山中寂滅塲、六窗虛敞夜生光、只須喚醒弇中主、莫使昏沉自蓋藏, Năm Uẩn trong rừng vắng lặng trường, sáu cửa toang mở đêm phát quang, chỉ nên tỉnh thức làm chủ cả, chớ để hôn trầm che kín màng).” Hoặc trong phần Bát Nhã (般若) của Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh (六祖大師法寶壇經, Taishō No. 2008) có đoạn: “Đương dụng đại trí tuệ, đả phá Ngũ Uẩn phiền não trần lao, như thử tu hành, định thành Phật đạo, biến Tam Độc vi Giới Định Tuệ (當用大智慧、打破五蘊煩惱塵勞、如此修行、定成佛道、變三毒為戒定慧, nên dùng trí tuệ lớn, đả phá Năm Uẩn phiền não trần lao; tu hành như vậy, nhất định thành Phật đạo, biến Ba Độc thành Giới Định Tuệ).” Trong Kinh Bát Nhã có câu rất nổi tiếng là: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách (觀自在菩薩行深般若波羅蜜多時、照見五蘊皆空、度一切苦厄, khi Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành sâu trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật Đa, thấy rõ Năm Uẩn đều không, thoát khỏi hết thảy khổ ách).” Từ đó, Ngũ Uẩn Giai Không (五蘊皆空, Năm Uẩn Đều Không) hay Nhất Thiết Giai Không (一切皆空, Tất Cả Đều Không) được xem như là tư tưởng căn bản của Phật Giáo. Như trong Thiền Gia Quy Giám (禪家龜鑑, CBETA No. 1255) có đoạn: “Phàm nhân lâm mạng chung thời, đản quán Ngũ Uẩn giai không, Tứ Đại vô ngã, chân tâm vô tướng, bất khứ bát lai, sanh thời tánh diệc bất sanh, tử thời tánh diệc bất khứ, trạm nhiên viên tịch, tâm cảnh nhất như (凡人臨命終時、但觀五蘊皆空、四大無我、眞心無相、不去不來、生時性亦不生、死時性亦不去、湛然圓寂、心境一如, phàm người khi đến lúc lâm chung, nên quán Năm Uẩn vô thường, Bốn Đại vô ngã, chân tâm vô tướng, không đến không đi, khi sanh tánh cũng không sanh, khi chết tánh cũng không mất, vắng lặng tròn đầy, tâm cảnh như một).”
(淨瓶): bình bằng gốm sứ hay kim thuộc, đựng nước sạch để uống hoặc rửa, còn gọi là Thủy Bình (水瓶), Tháo Bình (澡瓶), Phạn ngữ là kuṇḍikā, âm dịch là Quân Trì (君持、君遲、軍遲), là vật dụng thường mang bên mình của vị Tỷ Kheo. Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規) có giải thích rằng: “Tịnh Bình, Phạm ngữ Quân Trì, thử vân bình, thường trữ thủy tùy thân, dụng dĩ tịnh thủ (淨瓶、梵語軍遲、此云瓶、常貯水隨身、用以淨手, Tịnh Bình, tiếng Phạn là Quân Trì, Tàu gọi là bình, thường đựng nước mang theo bên mình, dùng để rửa sạch tay).” Đặc biệt Tịnh Bình này cũng là vật mang bên mình của Phạm Thiên, Bồ Tát Quán Thế Âm Ngàn Tay, v.v. Hình tượng đức Bồ Tát Quán Thế Âm cầm Tịnh Bình và nhành Dương Liễu rất phổ biến ở Việt Nam và các nước Phật Giáo Đại Thừa thuộc Châu Á. Trong Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni (千手千眼觀世音菩薩大悲心陀羅尼) có đề cập đến Tịnh Bình như là một trong 40 vật cầm trên tay của đức Quan Âm Ngàn Tay. Hơn nữa, trong chư tôn của Thai Tạng Giới Khinh Trà La (胎藏界輕茶羅), Di Lặc Bồ Tát (彌勒菩薩) của Bát Diệp Viện (八葉院) ở giữa, Bất Không Quyên Sách Bồ Tát (不空羂索菩薩) cũng như Tỳ Câu Chi Bồ Tát (毘倶胝菩薩) của Quan Âm Viện (觀音院), Thập Nhất Diện Quán Tự Tại Bồ Tát (十一面觀自在菩薩) của Tô Tất Địa Viện (蘇悉地院), và Hỏa Thiên (火天) của Kim Cang Bộ (金剛部), v.v., đều cầm Quân Trì. Trong bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh của thi hào Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) có đoạn rằng: “Tiết đầu thu lập đàn giải thoát, nước Tịnh Bình rưới hạt dương chi, muôn nhờ Đức Phật từ bi, giải oan cứu khổ độ về Tây Phương.” Hay như trong Chánh Nguyên Lược Tập (正源略集, CBETA No. 1587) quyển 15 có câu: “Hồ hải Thiền lưu, thập phương cọng tập, Quan Âm y cựu Tịnh Bình, Thế Chí biệt khai sanh diện (湖海禪流、十方共集、觀音依舊淨瓶、勢至別開生面, hồ biển dòng Thiền, mười phương cùng gặp, Quan Âm như cũ Tịnh Bình, Thế Chí riêng bày mặt thật).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập