Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiên luân »»
(古尊宿語錄, Kosonshukugoroku): 48 quyển, do Tăng Đĩnh Thủ Trách (僧挺守賾) nhà Tống biên tập, san hành vào năm thứ 45 (1617) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (古尊宿語要) 4 quyển được cư sĩ Giác Tâm (覺心) tái san hành vào năm thứ 3 (1267) niên hiệu Hàm Thuần (咸淳). Trong khoảng thời gian đó, bộ này được rất nhiều Thiền giả thuộc hệ Lâm Tế bổ sung thêm, đến khi được cho thâu lục vào Đại Tạng Kinh nhà Minh (Nam Tạng), nó trở thành bản hiện hành với 48 quyển và 35 bậc Thiền tượng và được san hành tại Hóa Thành Tự (化城寺) ở Kính Sơn (徑山) vào năm thứ 45 niên hiệu Vạn Lịch. Đây là bộ Ngữ Lục rất quan trọng để có thể biết được những lời dạy về cơ duyên, hành trạng của các bậc cao tăng thạc đức dưới thời nhà Tống. Bên cạnh các Ngữ Lục liệt kê trong bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu, có 17 Ngữ Lục của các Thiền sư khác lại được thêm vào nữa, gồm có:
(1) Nam Nhạc Đại Huệ Thiền Sư Ngữ (南嶽大慧禪師語, Nangakudaiezenjigo) của Nam Nhạc Hoài Nhượng (南嶽懷讓),
(2) Mã Tổ Đại Tịch Thiền Sư Ngữ (馬祖大寂禪師語, Basodaijakuzenjigo) của Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一),
(3) Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư Ngữ (百丈懷海禪師語, Hakujōekaizenjigo) của Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海),
(4) Quân Châu Hoàng Bá Đoạn Tế Thiền Sư Ngữ (筠州黃檗斷濟禪師語, Kinshūōbakudanzaizenjigo) và Uyển Lăng Lục (苑陵錄, Enryōroku) của Hoàng Bá Hy Vận (黃檗希運),
(5) Hưng Hóa Thiền Sư Ngữ Lục (興化禪師語錄, Kōkezenjigoroku) của Hưng Hóa Tồn Tương (興化存奬),
(6) Phong Huyệt Thiền Sư Ngữ Lục (風穴禪師語錄, Fuketsuzenjigoroku) của Phong Huyệt Diên Chiểu (風穴延沼),
(7) Phần Dương Chiêu Thiền Sư Ngữ Lục (汾陽昭禪師語錄, Funyōshōzenjigoroku) của Phần Dương Thiện Chiêu (汾陽善昭),
(8) Từ Minh Thiền Sư Ngữ Lục (慈明禪師語錄, Jimyōzenjigoroku) của Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓),
(9) Bạch Vân Đoan Thiền Sư Ngữ (白雲端禪師語, Hakuuntanzenjigo) của Bạch Vân Thủ Đoan (白雲守端),
(10) Phật Chiếu Thiền Sư Kính Sơn Dục Vương Ngữ (佛照禪師徑山育王語, Busshōzenjikeizanikuōgo) của Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光),
(11) Bắc Nhàn Giản Thiền Sư (北礀簡禪師, Hokkankanzenji) của Bắc Nhàn Cư Giản (北礀居簡),
(12) Vật Sơ Quán Thiền Sư (物初觀禪師, Mosshokanzenji) của Vật Sơ Đại Quán (物初大觀),
(13) Hối Cơ Thiền Sư Ngữ Lục (晦機禪師語錄, Kaikizenjigoroku) của Hối Cơ Nguyên Hy (晦機元熙),
(14) Quảng Trí Toàn Ngộ Thiền Sư (廣智全悟禪師, Kōchizengozenji) của Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢),
(15) Trọng Phương Hòa Thượng Ngữ Lục (仲方和尚語錄, Chūhōoshōgoroku) của Trọng Phương Thiên luân (仲方天倫),
(16) Giác Nguyên Đàm Thiền Sư (覺原曇禪師, Kakugendonzenji) của Giác Nguyên Từ Đàm (覺原慈曇), và
(17) Phật Chiếu Thiền Sư Tấu Đối Lục (佛照禪師奏對錄, Busshōzenjisōtairoku) của Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光).
Trong khi đó, người biên tập là Định Nham Tịnh Giới (定巖淨戒, ?-1418) đã lược bớt khá nhiều, về sau trong bộ Vạn Lịch Bản Đại Tạng Kinh (萬曆版大藏經, tức Gia Hưng Tạng) đã có ý hồi phục lại nguyên hình và trở thành hình thức hiện tại. Trên đây là quá trình phát triển từ bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu cho đến Bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Lục đã trải qua như thế nào, ngoài ra Hối Thất Sư Minh (晦室師明, tiền bán thế kỷ thứ 13) còn tiếp tục biên tập lại bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu và cho san hành vào năm 1238 ở Cổ Sơn bộ Tục Khai Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (續開古尊宿語要, Zokukaikosonshukugoyō) gồm 80 Ngữ Lục của các Thiền sư. Dường như ông có ý muốn thâu tập cho được 100 Ngữ Lục, nhưng rốt cuộc không thành công.
(建長寺, Kenchō-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Kiến Trường Tự thuộc Lâm Tế Tông, hiện tọa lạc tại số 8 Yamanouchi (山之內), Kamakura-shi (鎌倉市), Kanagawa-ken (神奈川縣); tên núi là Cự Phước Sơn (巨福山), tên chính thức của chùa là Cự Phước Sơn Kiến Trường Hưng Quốc Thiền Tự (巨福山建長興國禪寺). Tượng thờ chính là Diên Mạng Địa Tạng (延命地藏). Chùa được Tướng Quân Bắc Điều Thời Lại (北條時賴, Hōjō Tokiyori) xây dựng vào năm 1253 (Kiến Trường 5) để cho Đại Giác Thiền Sư (大覺禪師, tức Lan Khê Đạo Long [蘭溪道隆, Ranke Dōryū]) từ bên nhà Nam Tống Trung Quốc sang trú trì. Tên chùa được lấy theo niên hiệu năm ấy là Kiến Trường (建長), và Thiền Sư trở thành Tổ khai sơn đầu tiên của chùa. Mối quan hệ của Thời Lại với Đại Giác Thiền Sư cũng giống như mối thâm giao giữa Bắc Điều Thời Tông (北條時宗, Hōjō Tokimune) với Phật Quang Quốc Sư (佛光國師, tức Phật Quang Tổ Nguyên [佛光祖元, Bukkō Sogen]). Sau khi Thời Lại qua đời, Đại Giác Thiền Sư mất đi thế chủ đạo, rồi bị lưu đày đến một tiểu quốc xa xôi. Ông có viết bộ Tọa Thiền Luận (坐禪論), truyền bá Thiền Lâm Tế chính thống của Trung Quốc cho hàng võ sĩ cũng như dân chúng Liêm Thương, và đến 66 tuổi thì qua đời. Từ đó về sau, Kiến Trường Tự cũng đã trãi qua biết bao phen thạnh suy; song cũng có rất nhiều cao tăng từ Trung Quốc sang, cọng thêm những du học tăng từ bên Trung Quốc trở về, đều có đến lưu trú tại đây; nên chùa trở thành nguồn gốc của Thiền Tông Nhật Bản, và đứng đầu trong 5 ngôi chùa lớn vùng Liêm Thương. Chùa đã từng gặp mấy lần hỏa tai, quần thể kiến trúc hiện tại của chùa gồm Sơn Môn, Điện Phật, Đường Môn (唐門), Pháp Đường (法堂), Tây Lai Trung Môn (西來中門), Chiêu Đường (昭堂, tức Lễ Đường [禮堂]), Khai Sơn Đường (開山堂), Phương Trượng (方丈), Thiền Đường (禪堂), v.v. Trong khuôn viên chùa có Tháp Khai Sơn, mộ của Đại Ứng Quốc Sư (大應國師), mộ Hoàng Tử Hậu Tha Nga Viện (後嵯峨院), mộ Phật Đăng Quốc Sư (佛燈國師), v.v.
(日輝, Nichiki, 1800-1859): học Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng cuối thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Huy (日輝), Giác Thiện (覺善); tự Nghiêu Sơn (堯山), hiệu là Ưu Đà Na Viện (優陀那院), xuất thân vùng Kim Trạch (金澤, Kanazawa, thuộc Ishikawa-ken [石川縣]). Ông xuất gia năm lên 9 tuổi, rồi đã từng đến học các trường Đàn Lâm. Ông rất ghét học phong vốn coi trọng giáo lý Thiên Thai, sau được Nhật Lâm (日臨), Nhật Trí (日智) chỉ dẫn cho, ông có chí muốn xác lập Tông phong thích hợp với thời đại, nên mới thiết lập trường tư thục trong khuôn viên Lập Tượng Tự (立像寺) ở Kim Trạch. Chính ông đã hình thành nên hệ thống giáo học của Nhật Liên Tông thời Cận Đại vốn dựa trên cơ sở Tam Học Kiêm Tu, Quán Tâm Trọng Thị và Chủ Nghĩa Nhiếp Thọ. Về sau, ông tận lực chỉ đạo đàn hậu tấn, và nuôi dưỡng những nhân vật quan trongj sau này nắm vai trò lãnh đạo giáo đoàn Nhật Liên Tông như Nhật Tát (日薩), Nhật Giám (日鑑), Nhật Tu (日修), v.v. Trước tác của ông có Nhất Niệm Tam Thiên Luận (一念三千論) 6 quyển, Bổn Tích Quy Tông Luận (本迹歸宗論) 1 quyển, Diệu Kinh Tông Nghĩa Sao (妙經宗義抄) 17 quyển, Tổ Thư Cương Yếu Chánh Nghĩa (祖書綱要正義) 2 quyển, Sung Trị Viên Toàn Tập (充治園全集) 5 quyển, v.v.
(僧肇, Sōjō, 384-414?): một trong Tứ Triết của La Thập, học tăng sống dưới thời Hậu Tần, đã từng theo hầu hạ và học với Cưu Ma La Thập (鳩摩羅什), rất thiên tài nhưng lại chết sớm. Ông rất thích tư tưởng Lão Trang, nhưng sau khi đọc Kinh Duy Ma do Chi Khiêm (支謙) dịch, ông quy đầu theo Phật pháp. Ông đến vùng Cô Tàng (姑藏) thuộc Kinh Châu để yết kiến La Thập, trở thành môn hạ và đã từng giúp vị này trong việc dịch kinh ở Trường An. Một số trước tác được xem như là của ông gồm có Bát Nhã Vô Tri Luận (般若無知論), Vật Bất Thiên Luận (物不遷論), Bất Chơn Không Luận (不眞空論), Niết Bàn Vô Danh Luận (涅槃無名論), v.v. và chúng được gọi chung là Triệu Luận. Chính các tư tưởng Bát Nhã, Không, Niết Bàn của ông thông qua mấy bộ luận này đã thể hiện lối tư duy độc đáo của người Trung Hoa, và mở ra một phương hướng mang tính quyết định cho Phật Giáo Trung Hoa.
(p: heṭṭhā pāda-talesu cakkāni jātāni, 千輻輪相): chỉ cho tướng tốt vi diệu có đầy đủ ngàn bánh xe dưới chân, thuộc một trong 32 tướng tốt, còn gọi là Túc Hạ Thiên Bức Luân Tướng (足下千輻輪相), Thường Hiện Thiên Bức Luân Tướng (常現千輻輪相), Song Túc Hạ Hiện Thiên Bức Luân Triển Chuyển Chúng Tướng (雙足下現千輻輪輾轉眾相). Tướng này chỉ cho các hoa văn dưới lòng bàn chân Phật có hình dáng cả ngàn bánh xe rõ ràng. Tướng này do nghiệp nhân mà cảm được, do thời quá khứ đức Phật đã từng cúng dường, bố thí các thứ cho cha mẹ, sư trưởng, bạn tốt cho đến hết thảy chúng sanh. Tướng này không những chỉ thấy hiện nơi chân Phật, mà còn có cả nơi hai bàn tay Ngài. Tướng ngàn bánh xe còn thể hiện cho sự chuyển bánh xe giáo pháp của ngài; nếu hiện dưới chân là thể hiện cho việc du hóa khắp mọi nơi để chuyển pháp luân; khi thuyết pháp thì tướng này hiện ra nơi lòng bàn tay. Tướng này có thể hàng phục được oán địch, ác ma, thể hiện công đức chiếu phá vô minh và ngu si. Khi nói chân có nghĩa là cả tay chân, nên gọi là tướng tay chân có vòng tròn (s: cakrāṅkita-hasta-pāda-tala). Từ ngàn xưa đã có truyền thống lễ bái dưới lòng bàn chân Phật rồi. Trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō No. 2122) quyển 9, phần Xuất Thai Bộ (出胎部) có câu: “Thân biên tắc quang sắc nhất trượng, mi gian tắc bạch hào ngũ xích, khai Vạn tự ư hung tiền, nhiếp Thiên luân ư túc hạ (身邊則光色一丈、眉间则白毫五尺。眉間則白毫五尺、开万字于胸前。開萬字於胸前、蹑千轮于足下。躡千輪於足下, bên thân sắc ánh sáng một trượng, giữa lông mi có lông mày trắng năm tấc, mở chữ Vạn nơi trước ngực, hiện ngàn bánh xe ở dưới chân).” Hay trong Đại Bát Niết Bàn Kinh Hậu Phần (大般涅槃經後分, Taishō No. 377) quyển hạ có đoạn: “Thế Tôn đại bi tức hiện nhị túc thiên bức luân tướng, xuất ư quan ngoại hồi thị Ca Diếp, tùng thiên bức luân phóng thiên quang minh, biến chiếu thập phương nhất thiết thế giới (世尊大悲卽現二足千輻輪相、出於棺外迴示迦葉、從千輻輪放千光明、遍照十方一切世界, Thế Tôn có lòng thương xót lớn, tức hiện tướng hai bàn chân có ngàn bánh xe, ra bên ngoài quan tài cho Ca Diếp biết rõ, từ ngàn bánh xe ấy phong ra ngàn ánh sáng, chiếu khắp mười phương hết thảy các thế giới).” Hoặc như trong Biệt Thích Tạp A Hàm Kinh (別譯雜阿含經, Taishō No. 100) quyển 13 cũng có đoạn rằng: “Thời hữu nhất Bà La Môn tánh viết Yên thị, tại Phật hậu lai, kiến Phật tích trung thiên bức luân tướng quái vị tằng hữu, tức tự tư duy, ngã vị kiến nhân hữu như thọ tích (時有一婆羅門姓曰煙氏、在佛後來、見佛跡中千輻輪相怪未曾有、卽自思惟、我未見人有如是跡, lúc bấy giờ có một Bà La Môn họ Yên, từ phía sau Phật đến, thấy trong dấu chân Phật có hình tướng ngàn bánh xe, lấy làm lạ chưa từng có, bèn tự suy nghĩ rằng ta chưa hề thấy người nào có dấu chân như vậy).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập