Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiện Loan »»
(証誠寺, Shōjō-ji): ngôi chùa Tổ trung tâm của Phái Sơn Nguyên (山元派) thuộc Chơn Tông, hiện tọa lạc tại số 13-43 Yokogoshi-chō (横越町), Sabae-shi (鯖江市), Fukui-ken (福井縣); hiệu là Sơn Nguyên Sơn Hộ Niệm Viện (山元山護念院), thường được gọi là Hoành Việt Bản Sơn (横越本山), là một trong 4 ngôi chùa Tổ trung tâm ở vùng Việt Tiền (越前, Echizen). Phái Sơn Nguyên là một trong 10 phái lớn của Chơn Tông. Xưa kia, Thân Loan (親鸞, Shinran) kiến lập một ngôi chùa ở vùng Sơn Nguyên (山元), rồi sau đó Thiện Loan (善鸞, Zenran), Tịnh Như (淨如, Jōnyo) kế thế làm trú trì chùa, đến năm 1304 (Gia Nguyên [嘉元] 2) thì được sắc phong của Hậu Nhị Điều Thiên Hoàng (後二條天皇, Gonijō Tennō) với hiệu chùa như hiện tại. Vào năm 1475 (Văn Minh [文明] 7), dưới thời vị trú trì thứ 8 của chùa là Đạo Tánh (道性), chùa được dời về vị trí hiện tại. Dưới thời đại Giang Hộ, chùa phụ thuộc vào Thánh Hộ Viện (聖護院) của Thiên Thai Tông, nhưng đến thời Minh Trị (明治, Meiji) thì được hoàn trả cho Phái Bổn Nguyện Tự và sau đó thì hoàn toàn độc lập, tách riêng hẳn thành một tông phái. Tương truyền tượng thờ chính của chùa là A Di Đà Như Lai do Tăng Đô Huệ Tâm (惠心) sáng tác.
(惠信, Eshin, 1182-?): vị Ni sống vào khoảng đầu và giữa thời đại Liêm Thương, vợ của Thân Loan (親鸞, Shinran), xuất thân vùng Việt Hậu (越後, Echigo, thuộc Niigata-ken [新潟縣]); con của Binh Bộ Đại Phụ Tam Thiện Vi Giáo (三善爲敎, Miyoshi Tamenori). Bà kết hôn với Thân Loan trong thời gian vị này bị lưu đày ở vùng Việt Hậu, và hạ sanh được 3 trai và 3 gái, trong đó có Thiện Loan (善鸞, Zenran), Tín Liên Phòng (信蓮房), v.v. Sau bà cùng với Thân Loan chuyển đến sống ở vùng Quan Đông (關東, Kantō), và đã cùng chồng mình tích cực bố giáo cho đến khi trở về kinh đô. Đến cuối đời, bà quay trở về quê của mình, rồi sau khi Thân Loan qua đời thì bà đã ghi lại tất cả hành trạng cuộc đời của ông và trao lại cho người con gái của mình đang sống ở kinh đô là Ni Giác Tín (覺信, Kakushin). Trước tác của bà để lại có Huệ Tín Ni Văn Thư (惠信尼文書), 10 bức.
(如信, Nyoshin, 1239-1300): vị Tăng của Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa và cuối thời Liêm Thương, vị Tổ kế thế đời thứ 2 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), vị Tổ thứ 2 của Cẩm Chức Tự (錦織寺, Kinshoku-ji), húy Như Tín (如信) cháu của Thân Loan(親鸞, Shinran), con của Thiện Loan (善鸞, Zenran). Tương truyền lúc ông còn nhỏ tuổi thì đã được Thân Loan truyền thọ cho giáo nghĩa của Chơn Tông. Ông chủ yếu sống và giáo hóa ở vùng Lục Áo (陸奥, Michinoku), rồi sáng lập ra Nguyện Nhập Tự (願入寺). Vào năm 1287, ông truyền trao tông nghĩa cho Giác Như (覺如, Kakunyo) ở Kyoto. Đến năm 1299, nhận lời thỉnh cầu của người môn đệ Thừa Thiện (乘善), ông chuyển đến sống tại một thảo am ở vùng Kim Trạch (金澤, Kanazawa) thuộc Thường Lục (常陸, Hitachi) và qua đời ở nơi đó. Vì Giác Như chủ trương Bổn Nguyện Tự thuộc dòng chánh thống, nên Như Tín được xem như là đệ tử thứ 2 của Bổn Nguyện Tự.
(隱し念佛, Kakushinembutsu): tên gọi một loại tín ngưỡng dân gian rất thịnh hành ở Đông bộ địa phương Đông Bắc, trung lâm là Iwate-ken (岩手縣). Mặc dầu tín ngưỡng này được tiến hành trùng lặp với Pháp Môn Bí Sự của Chơn Tông, nhưng về thể chất của nó thì thuộc hệ thống của Chơn Ngôn Niệm Phật, khác biệt với pháp môn trung tên của Chơn Tông. Chính Liễu Điền Quốc Nam (柳田國男, Yanagita Kunio) cũng như Tá Tá Mộc Hỷ Thiện (佐佐木喜善, Sasaki Kizen) đã khẳng định rõ rằng tín ngưỡng Niệm Phật Che Giấu ở địa phương Đông Bắc này thuộc hệ Chơn Ngôn; nhưng Cao Kiều Phạn Tiên (高橋梵仙, Takahashi Bonsen) đã tiến hành điều tra, báo cáo rõ ràng về nguồn gốc và thực trạng của loại tín ngưỡng này, và chứng minh cho chúng ta thấy rõ rằng nó khác với Pháp Môn Bí Sự. Theo điều tra nghiên cứu của Cao Kiều, trong các kinh điển được dùng làm truyền thừa áo nghĩa, có bản Ngũ Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích (五輪九字明秘密釋) của Giác Noan (覺鑁); có việc các phái tương truyền các tượng của Hoằng Pháp Đại Sư (弘法大師), Hưng Giáo Đại Sư (興敎大師), Thân Loan Thánh Nhân (親鸞聖人); hay có nghi thức nhập môn gọi là “đan kết các ngón tay (指を組む, yubi wo kumu)”, có nghĩa là bắt ấn quyết; cho nên, đó là bản chất của Chơn Ngôn, là hình thức niệm Phật theo kiểu Chơn Ngôn. Nguyên lưu của tín ngưỡng Niệm Phật Che Giấu ở địa phương Đông Bắc này vốn phát xuất từ sự việc vào năm 1753 (Bảo Lịch [寶曆] 3) một nhóm 4 người lên kinh đô Kyoto, được Ngũ Binh Vệ Thiện Hưu (五兵衛善休), người đang tá túc tại Xương Tạng Viện (昌藏院) của Phật Quang Tự (佛光寺) của Chơn Tông, truyền trao cho pháp môn này; nên họ quay trở về và bắt đầu truyền bá; nhưng bị chính quyền của Phiên bắt giữ, xem như là tà pháp và bị xử hình kéo phanh thây vào ngày 25 tháng 5 năm 1754. Hệ thống của Ngũ Binh Vệ dần dần phân phái và phát triển qua các thời Minh Trị (明治, Meiji, 1868-1911), Đại Chánh (大正, Taishō, 1912-1926), Chiêu Hòa (昭和, Shōwa, 1926-1989). Mặt khác, phân phái của Pháp Môn Bí Sự (Thân Loan, Thiện Loan, Như Tín) thuộc hệ thống của Thường Thoại Tự (常瑞寺) ở Đại Cương (大綱, Ōzuna), Bạch Hà (白河, Shirakawa, thuộc Fukushima-ken [福島縣]), cũng rất phổ biến ở địa phương này. Nghi thức của tín ngưỡng Niệm Phật Che Giấu cũng giống như Pháp Môn Bí Sự, được tiến hành trong bóng tối với vài ngọn đèn leo lét, theo sự hướng dẫn của vị thiện tri thức thế tục, được người phụ tá trợ giúp, nhất tâm niệm Phật, xướng to rằng “cứu tôi với (助けたまえ, tasuketamae)” và vị thiện tri thức cho biết rằng khi đạt đến trạng thái gọi là phóng tâm (放心) thì quyết định vãng sanh. Người nào mới vào đạo thì phải giữ bí mật tín ngưỡng này. Khi vào đạo cũng có trường hợp người tuổi thành nhân (20 trở lên); nhưng tại địa phương này, trường hợp các em nhỏ trước khi vào tiểu học lại rất nhiều. Trong các thôn xóm, 9/10 là tín đồ của pháp môn này và ngay như trong cuộc sống thường nhật của họ cũng được các thiện tri thức giúp đỡ. Cho nên, tín ngưỡng này hoàn toàn khác với Pháp Môn Bí Sự của Chơn Tông.
(秘事法門, Hijihōmon): tên gọi của tập đoàn tín ngưỡng giả thác vào giáo nghĩa của Tịnh Độ Chơn Tông. Đó là Pháp Môn Che Giấu (御藏法門, Ngự Tàng Pháp Môn), Pháp Môn Che Giấu Trong Đất (土藏法門, Thổ Tàng Pháp Môn), Pháp Môn Trong Nhà Kho (庫裏法門, Khố Lí Pháp Môn), Pháp Môn Trong Đêm (夜中法門, Dạ Trung Pháp Môn), Pháp Môn Nội Pháp (內法法門, Nội Pháp Pháp Môn), Nội Chứng Giảng (內証講), Iwazu Giảng (いわず講), Pháp Môn Giờ Sửu (丑の時法門), v.v., vẫn tồn tại từ thời Trung Đại cho đến ngày nay. Khuynh hướng toàn thể có thể nói là tính bí mật, tính cưỡng ép, vốn có ảnh hưởng của Dòng Lập Xuyên (立川流) vốn cường điệu hóa cho rằng nam nữ hợp thể là Tức Thân Thành Phật (卽身成佛, thành Phật ngay chính nơi thân này), được thực hành từ khoảng đầu thời Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333). Người được xem như là Tổ của Pháp Môn Bí Sự có liên quan đến Chơn Tông là Thiện Loan (善鸞, Zenran), con của Thân Loan (親鸞, Shinran), đã bị phụ thân tuyệt tình vì chủ thuyết dị đoan. Tính chất bí mật trong tư tưởng của Thiện Loan như thế nào thì cũng không rõ lắm. Sau đó, trong điều thứ 18 của cuốn Cải Tà Sao (改邪鈔) do Giác Như (覺如, Kakunyo), Tổ đời thứ 13 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji) trước tác dưới thời Nam Bắc Triều, có ghi rằng tà nghĩa vào thời ấy có Pháp Môn Trong Đêm (夜中法門, Dạ Trung Pháp Môn), cũng có người của Thánh Đạo Môn vốn phản đối Chơn Tông, mà tuyên thuyết giống như “Di Đà tự thân, duy tâm Tịnh Độ”. Lại nữa, trong bản Phản Cố Lí Thư (反故裏書) do Hiển Thệ (顯誓), cháu của Liên Như (蓮如, Rennyo), viết vào năm 1568 (Vĩnh Lộc [永祿] 11), cũng có đề cập rằng Như Đạo (如道[導], Nyodō), môn hạ của Giác Như, ở Đại Đinh (大町, Ōmachi), Việt Tiền (越前, Echizen) chủ trương Pháp Môn Bí Sự nên bị đuổi đi; rồi Đạo Tánh (道性) ở Hoành Việt (橫越, Yokogoshi), Như Giác (如覺, Nyokaku, Thành Chiếu Tự [誠照寺, Jōshō-ji]) ở Chinh Ốc (鯖屋, Sabaya), Trung Dã Phường Chủ (中野坊主, tức Tịnh Nhất [淨一], Chuyên Chiếu Tự [專照寺, Senshō-ji]) cũng cổ xúy pháp môn này, được gọi là “Chúng Tam Môn Đồ không lễ bái (三門徒拝まずの眾)” và vẫn còn duy trì cho đến ngày nay. Dưới thời Trung Đại, thực tế Pháp Môn Bí Sự này được tiến hành như thế nào thì không rõ lắm. Đến thời Cận Đại, phần lớn pháp môn này bị chính quyền Mạc Phủ xử phạt, cấm đoán. Những vụ xét xử trứ danh nhất diễn ra ở kinh đô Kyoto, Nhiếp Tân (攝津, Settsu), Hà Nội (河內, Kawachi) vào năm 1757 (Bảo Lịch [寶曆] 7); ở Giang Hộ (江戸, Edo), Quan Đông (關東, Kantō), Áo Vũ (奥羽, Ōu) vào năm 1767 (Minh Hòa [明和] 4); ở Đại Phản (大阪, Ōsaka) vào năm 1788 (Thiên Minh [天明] 8); ở kinh đô Kyoto vào năm 1797 (Khoan Chính [寛政] 9), v.v. Mãi cho đến hiện tại, vẫn có những báo cáo về sự hiện hữu của Pháp Môn Bí Sự này; như trường hợp Nội Pháp Giáo Đoàn (內法敎團) ở địa phương Thủy Trạch Thị (水澤市, Mizusawa-shi) cũng như Đảm Trạch Quận (胆澤郡, Isawa-gun, thuộc Iwate-ken [岩手縣]); hay ở Mễ Nguyên Đinh (米原町, Maihara-chō, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]), v.v.
(性信, Shōshin, 1187-1275): vị tăng của Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa và đầu thời đại Liêm Thương, đệ tử đầu của Thân Loan (親鸞, Shinran), húy là Tánh Tín (性信), tên tục là Ác Ngũ Lang (惡五郎), Dữ Ngũ Lang (與五郎), thông xưng là Tánh Tín Phạn Chiểu (性信飯沼), xuất thân vùng Ibaraki-ken (茨城縣). Năm 1204, trên đường đi thăm bái ở Hùng Dã (熊野, Kumano) trở về, ông đến nghe Nguyên Không (源空, Genkū, tức Pháp Nhiên) thuyết pháp rồi quy y với vị này luôn, nhưng tương truyền rằng Nguyên Không tuổi già nên mới gởi Tánh Tín cho Thân Loan dạy dỗ tu tập. Sau ông đến sống ở vùng Hoành Tằng Căn (横曾根) thuộc Hạ Tổng (下總, Shimōsa) sáng lập nên Báo Ân Tự (報恩寺) và chỉ đạo môn đồ của Chơn Tông. Vào năm 1256, ông nhận được tin Thân Loan đoạn tuyệt nghĩa tình với con mình là Thiện Loan (善鸞), ông chịu nhận trách nhiệm truyền thừa bản thảo của Bộ Giáo Hành Tín Chứng (敎行信証).
(淨土眞宗, Jōdoshin-shū): tên gọi của một tông phái thuộc tịnh độ giáo do Thân Loan (親鸞, Shinran) sáng lập. Vào năm đầu (1201) niên hiệu Kiến Nhân (建仁), sau khi từ bỏ Thánh Đạo Giáo tự lực, Thân Loan quy y theo Tịnh Độ Giáo tha lực dưới trướng của Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (法然房源空, Hōnenbō Genkū). Tin tưởng vào pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật do nguyên không khải sáng, ông có ý muốn tự mình lập ra một tông phái riêng. Tịnh Độ Chơn Tông là cách xưng hô do Thân Loan đặt ra theo tông chỉ của Nguyên Không. Trong Cao Tăng Hòa Tán (高僧和讚), ông có khẳng định rằng: “Từ sức mạnh của ánh sáng trí tuệ, bổn sư Nguyên Không hiện ra, khai mở Tịnh Độ Chơn Tông, theo chân Tuyển Trạch Bổn Nguyện”. Tông phái này cũng theo giáo lý của Nguyên Không, nhưng lập trường tôn giáo của Thân Loan cũng được thể hiện qua tác phẩm Giáo Hành Tín Chứng (敎行信証) và ông nhấn mạnh rằng nhờ tin vào bản nguyện của đức Phật A Di Đà mà được cứu độ. Ông cho rằng ngay cả người ác cũng là đối tượng cứu độ của ngài. Cũng có trường hợp ông ví những người ác đó là giai cấp xã hội đặc biệt như võ sĩ, thương nhân hay người đánh cá, thợ săn, v.v., để họ có thể hiểu được lập trường của ông. Trong Chánh Tượng Mạt Hòa Tán (正像末和讚), ông khẳng định rằng: “Nếu quay về với Tịnh Độ Chơn Tông, bằng tất cả tâm chân thật, cái hư giả không thật nơi thân ta đây, cũng trở thành tâm chân thật”. Cho nên chính bản thân ông cũng tự xem mình là kẻ ác không có tâm thanh tịnh và hết thảy tồn tại, hành vi của thế giới hiện thực đều là hư giả. Ngay từ trong cái hư giả ấy, cần phải tìm cầu cái chân thật thông qua sự tự giác và đáp ứng sự khẩn thỉnh đó đấng chân thật là đức Phật A Di Đà xuất hiện. Trong Thán Dị Sao (歎異抄), ông đã nói về yếu chỉ cơ duyên của người ác rằng: “Chúng ta những kẻ đầy đủ phiền não, trong bất cứ việc làm nào, đều ngầm chứa đựng mầm sanh tử; nếu với bổn ý mà phát khởi nguyện lực, để cho người ác cũng được thành Phật, người ác nương tựa vào tha lực, sẽ trở thành nhân chính để vãng sanh; người tốt nếu được vãng sanh, người ác cũng vậy thôi”. Những người niệm Phật lấy nhân cách và giáo thuyết của Thân Loan làm trung tâm, dần dần gia tăng và bắt đầu nhân giống cho việc hình thành giáo đoàn. Tuy nhiên, ông lại tuyên bố rằng “Thân Loan ta không có một người đệ tử nào (Thán Dị Sao)” để phủ định mối quan hệ giữa thầy và đệ tử. Tự thân ông cho rằng những người cùng niệm Phật là “đồng hành đồng bạn” để phủ định việc cấu thành giáo đoàn theo quan hệ thầy trò trên dưới. Tuy nhiên, vào cuối đời Thân Loan, Thiện Loan (善鸞, Zenran), con trai của ông và cũng là người được xem như kế thừa cha mình, đã phản lại lời dạy của cha, tạo nên sự kiện làm hỗn loạn giáo đoàn Đông Quốc (東國, Tōgoku). Nhân đó, Thân Loan bắt đầu đề xướng rằng những người Niệm Phật phải tăng cường củng cố liên đới nhằm bảo vệ chánh pháp. Từ việc bảo trì tín ngưỡng chánh thống, đối ứng với sự phê phán từ phía các tông phái khác, v.v., dần dần thể chế của giáo đoàn được chỉnh bị. Sau khi được ân xá lưu đày ở vùng Việt Hậu (越後, Echigo), Thân Loan dời đến Quan Đông (關東, Kantō) và trải qua hơn 20 năm truyền đạo tại trung tâm tiểu quốc Thường Lục (常陸). Chính vì vậy, số lượng người niệm Phật thọ nhận giáo nghĩa của Thân Loan ở địa phương Đông Quốc (東國, Tōgoku) rất đông. Trong Thân Loan Thánh Nhân Môn Lữ Giao Danh Điệp (親鸞聖人門侶交名牒) có ghi 48 người gồm: Thường Lục (常陸) 20, Hạ Tổng (下總, Shimōsa) 4, Hạ Dã (下野, Shimotsuke) 6, Võ Tàng (武藏, Musashi) 1, Lục Áo (陸奥, Mutsu) 7, Việt Hậu (越後, Echigo) 1, Viễn Giang (遠江) 1, Kinh Đô (京都, Kyōto) 8. Tuy nhiên, ngoài Giao Danh Điệp ra, trong các thư trạng của Thân Loan có ghi thêm 30 người nữa, như vậy tổng cọng gần trăm người. Hơn nữa, các môn đệ này là những người trực tiếp thọ nhận sự chỉ dạy của Thân Loan; mỗi người còn có vài mươi môn đồ, nếu tính vào thì số lượng sẽ đông hơn nhiều. Sau khi Thân Loan kết thúc truyền đạo vùng Đông Quốc và quay trở về Kinh Đô, giáo đoàn Niệm Phật ở Đông Quốc đã kết tập những môn đệ có thế lực làm trung tâm, và lấy tên địa danh của họ để gọi tên môn đồ. Tỷ dụ như tập đoàn lấy Chơn Phật (眞佛, Shinbutsu), Hiển Trí (顯智, Kenchi) ở Cao Điền (高田, Takada) thuộc tiểu quốc Hạ Tổng làm trung tâm được gọi là Môn Đồ Cao Điền (高田門徒). Sau khi Thân Loan qua đời, môn đệ Đông Quốc cùng với người con gái út của ông là Ni Giác Tín (覺信, Kakushin) tiến hành xây dựng ngôi Đại Cốc Miếu Đường (大谷廟堂) ở Đông Sơn (東山, Higashiyama), Kyōto. Giác Như (覺如, Kakunyo), người canh giữ miếu đường đời thứ 3, gọi nó là Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), biến nơi đây thành chùa làm trung tâm với mưu đồ thống lãnh toàn bộ giáo đoàn. Thế nhưng, môn đồ ở các nơi phản đối ý đồ của Giác Như; mỗi người tự lâp ra pháp phái hệ phổ riêng mang đậm sắc thái của giáo đoàn tự lập. Trong số các giáo đoàn địa phương, Môn Đồ Cao Điền (Chuyên Tu Tự Phái [專修寺派]) là giáo đoàn có thế lực nhất, sau này phân chia thành Võ Tàng Quốc Hoang Mộc Môn Đồ (武藏國荒木門徒) và Tam Hà Quốc Hòa Điền Môn Đồ (三河國和田門徒). Môn Đồ Hòa Điền đã kết hợp được Tín Tịch (信寂), Tịch Tĩnh (寂靜) làm trung tâm, từ đó xuất hiện Như Đạo (如道, Nyodō) để truyền bá pháp môn Niệm Phật đến tiểu quốc Việt Hậu (越後, Echigo) như Sơn Nguyên Phái (山元派, Yamamoto-ha), Tam Môn Đồ Phái (三門徒派, Sanmonto-ha), Thành Chiếu Tự Phái (誠照寺派, Jōshōji-ha). Liễu Nguyên (了源, Ryōgen), người lôi kéo Môn Đồ Hoang Mộc, sáng lập một ngôi chùa ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina), Kyōto, mở ra cơ đồ cho Phật Quang Tự Phái (佛光寺派, Bukkōji-ha). Giáo đoàn này phát triển từ vùng Cận Kì (近畿, Kinki) đến Trung Quốc (中國, Chūgoku), Tứ Quốc (四國, Shikoku). Cùng thời điểm đó, Cẩm Chức Tự (錦織寺, Kinshoku-ji, Mộc Biên Phái [木邊派, Kibe-ha]) của Từ Không (慈空, Jikū) ở vùng Mộc Biên (木邊, Kibe) thuộc tiểu quốc Cận Giang (近江, Ōmi) cũng từ vùng Cận Giang triển khai đến tiểu quốc Đại Hòa (大和, Yamato). Đến thời Liên Như (蓮如, Rennyo), vị tổ đời thứ 8 của Bổn Nguyện Tự, giáo tuyến của ông đã trải rộng khắp toàn quốc và hấp thu môn đồ ở các nơi. Trong đó, từ Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji) phân phái thành Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji), lôi kéo hơn nữa chùa con về phía Bổn Nguyện Tự (vào năm thứ 9 [1876] đời vua Minh Trị [明治, Meiji], Hưng Chánh Phái [興正派, Kōshō-ha] độc lập). Đến đầu thời Giang Hộ (江戸, Edo), Bổn Nguyện Tự lại phân liệt thành đông và tây. Tại đó, cơ sở của 10 phái Chơn Tông được hình thành. Trước kia, không có cách xưng hô của giáo đoàn như Nhất Hướng Tông (一向宗), Môn Đồ Tông (門徒宗), v.v.; nhưng vào năm thứ 3 (1774) niên hiệu An Vĩnh (安永), giáo đoàn đã thỉnh nguyện lên chính quyền Mạc Phủ các xưng hô công khai của tông phái là Tịnh Độ Chơn Tông. Tuy nhiên, họ đã gặp phải sự phản đối của Tịnh Độ Tông, cuối cùng sự thỉnh nguyện đó không được thực hiện. Đến năm thứ 5 niên hiệu Minh Trị, tên gọi Chơn Tông đã được chấp thuận và vào năm thứ 21 (1946) niên hiệu Chiêu Hòa (昭和), Bổn Nguyện Tự Phái (本願寺派, Honganji-ha) được gọi là Tịnh Độ Chơn Tông. Hiện tại theo bản Tôn Giáo Niên Giám (宗敎年鑑, năm 1997) của Bộ Văn Hóa Nhật Bản cho biết rằng sau 700 năm từ khi lập giáo khai tông, vào năm 1923 (Đại Chánh [大正] 12), các phái của Tịnh Độ Chơn Tông đã liên hợp thành một đoàn thể thống nhất và có 10 phái chính (liệt kê theo thứ tự tên phái, chùa bản sơn trung tâm, số lượng chùa tùng thuộc), gồm: (1) Tịnh Độ Chơn Tông Bổn Nguyện Tự Phái (淨土眞宗本願寺派, Jōdoshinshūhonganji-ha), Tây Bổn Nguyện Tự (西本願寺, Nishihongan-ji), khoảng 10.500; (2) Chơn Tông Đại Cốc Phái (眞宗大谷派, Shinshūōtani-ha), Đông Bổn Nguyện Tự (東本願寺, Higashihongan-ji), khoảng 8.900; (3) Chơn Tông Cao Điền Phái (眞宗高田派, Shinshūtakada-ha), Chuyên Tu Tự (專修寺, Senjū-ji), khoảng 640; (4) Chơn Tông Phật Quang Tự Phái (眞宗佛光寺派, Shinshūbukkōji-ha), Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji), khoảng 390; (5) Chơn Tông Hưng Chánh Phái (眞宗興正派, Shinshūkōshō-ha), Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji), 500; (6) Chơn Tông Mộc Biên Phái (眞宗木邊派, Shinshūkibe-ha), Cẩm Chức Tự (錦織寺, Kinshoku-ji), khoảng 200; (7) Chơn Tông Xuất Vân Lộ Phái (眞宗出雲路派, Shinshūizumoji-ha), Hào Nhiếp Tự (亳攝寺, Gōshō-ji), 60; (8) Chơn Tông Thành Chiếu Tự Phái (眞宗誠照寺派, Shinshūjōshōji-ha), Thành Chiếu Tự (誠照寺, Jōshō-ji), 70; (9) Chơn Tông Tam Môn Đồ Phái (眞宗三門徒派, Shinshūsanmonto-ha), Chuyên Chiếu Tự (專照寺, Senshō-ji), 36; và (10) Chơn Tông Tam Nguyên Phái (眞宗山元派, Shinshūsangen-ha), Chứng Thành Tự (證誠寺, Shōjō-ji), 21. Hơn nữa, từ cuối thời Minh Trị (明治, Meiji, 1868-1911) trở đi, trong Tịnh Độ Chơn Tông có một số phân phái khác như Chơn Tông Tịnh Hưng Tự Phái (眞宗淨興寺派, Shinshūjōkō-ha), Chơn Tông Trường Sanh Phái (眞宗長生派, Shinshūchōsei-ha), Chơn Tông Bắc Bổn Nguyện Tự Phái (眞宗北本願寺派, Shinshūkitahonganji-ha), Tịnh Độ Chơn Tông Tịnh Quang Tự Phái (淨土眞宗淨光寺派, Jōdoshinshūjōkōji-ha), Môn Đồ Tông Nhất Vị Phái (門徒宗一味派, Montoshūichimi-ha), (淨土眞宗遣迎院派, Jōdoshinshūkengōin-ha), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.186 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập