Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiên gia »»
(碧巖錄, Hekiganroku): 10 quyển, trước tác do Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤) biên tập lại bản Tụng Cổ Bách Tắc (頌古百則) mà Tuyết Đậu Trùng Hiển (雪竇重顯) đã từng thuyết giảng khắp nơi, được san hành vào năm thứ 4 (1300) niên hiệu Đại Đức (大德), gọi đủ là Phật Quả Viên Ngộ Thiền Sư Bích Nham Lục (佛果圜悟禪師碧巖錄, Bukkaengozenjihekiganroku) hay còn gọi là Bích Nham Tập (碧巖集, Hekiganshū). Tên bộ này phát xuất từ bức ngạch nơi Giáp Sơn Linh Tuyền Thiền Viện (夾山靈泉禪院) mà Khắc Cần đã từng trú trì. Mỗi tắc công án được hình thành bởi các phần như Thùy Thị (垂示, lời tựa), Bổn Tắc (本則, công án); Bình Xướng (評唱) đối với Bổn Tắc, Tụng Cổ (頌古) và Bình Xướng đối với Tụng Cổ. Bổn Tắc và Tụng Cổ thì thuộc về phần của Tuyết Đậu Trùng Hiển, vốn là người được xem như là vị tổ thứ 3 của Vân Môn Tông, các Tụng Cổ của ông rất phong phú về tính chất văn học có truyền thống, cho nên được rất nhiều người ưa chuộng. Việc Khắc Cần tiến hành giảng nghĩa bộ này cũng là nhằm đáp ứng trào lưu đương thời. Bản Tụng Cổ Bách Tắc của Tuyết Đậu Trùng Hiển vừa hàm chứa sự châm biếm, mà cũng thể hiện tràn đầy niềm yêu thương đối với các bậc Thiền sư ngày xưa. Viên Ngộ đã thêm vào đó những lời giáo giới cho hàng đệ tử mình cũng như những giai thoại trong lịch sử Thiền Tông mà người tu hành cần phải khắc cốt ghi tâm bằng các câu Thùy Thị và Bình Xướng. Đối ứng với Bổn Tắc và Tụng Cổ, Viên Ngộ đã thêm vào lời phê bình cay chua dưới hình thức gọi là Trước Ngữ, cho nên ba nhân vật là Thiền giả xuất hiện trong công án, cùng Tuyết Đậu và Viên Ngộ, vốn có các tánh khác nhau, đã được nối kết lại với nhau, và đây là tác phẩm rất hy hữu mang âm hưởng về mối quan hệ căng thẳng chồng chất lên nhau. Chính vì lẽ đó, khi tác phẩm này xuất hiện, đã được người đời tuyên truyền ngay lập tức, nhưng tương truyền đệ tử của Viên Ngộ là Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) lại cho rằng nó có hại cho người tu hành nên ông cho tập trung tất cả ấn bản rồi đem đốt hết. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tác phẩm này quá to lớn, một số tập công án khác có hình thức tương tợ như vậy lại thay nhau ra đời như Tùng Dung Lục (從容錄, năm 1224, Tụng Cổ của Hoằng Trí Chánh Giác [宏智正覺], bình xướng của Vạn Tùng Hành Tú [萬松行秀]), Không Cốc Tập (空谷集, năm 1285, Tụng Cổ của Đầu Tử Nghĩa Thanh [投子義清], trước ngữ của Đơn Hà Tử Thuần [丹霞子淳], và bình xướng của Lâm Tuyền Tùng Luân [林泉從倫]), Hư Đường Tập (虛堂集, Tụng Cổ của Đơn Hà Tử Thuần, bình xướng của Lâm Tuyền Tùng Luân), v.v. Thiền của Nhật Bản là sự di nhập của Thiền nhà Tống, cho nên Bích Nham Lục cũng được xem như là "thư tịch số một của tông môn", được đem ra nghiên cứu, giảng nghĩa, và từ thời Nam Bắc Triều trở đi thỉnh thoảng có khai bản ấn hành. Ngoài ra, Viên Ngộ Khắc Cần còn có trước tác Phật Quả Viên Ngộ Kích Tiết Lục (佛果圜悟擊節錄, Niêm Cổ của Tuyết Đậu Trùng Hiển, trước ngữ và bình xướng của Viên Ngộ Khắc Cần) và nó cũng được lưu hành rộng rãi. Còn Thỉnh Ích Lục (請益錄, năm 1230, Niêm Cổ của Hoàng Trí Chánh Giác, trước ngữ và bình xướng của Vạn Tùng Hành Tú) là bản mô phỏng theo tác phẩm Phật Quả Viên Ngộ Kích Tiết Lục này. Bản Bích Nham Lục hiện tồn là bản do Trương Minh Viễn (張明遠) nhà Thục san hành vào năm thứ 4 niên hiệu Đại Đức (大德), có khác với Tụng Cổ Bách Tắc về thứ tự của các tắc công án. Tại Nhật Bản, Bản Ngũ Sơn cũng là bản khắc lại nguyên hình bản của Trương Minh Viễn. Tuy nhiên, trong bản này có lời hậu tựa của Quan Vô Đảng (關無黨) ghi năm thứ 7 (1125) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), và lời tựa của Phổ Chiếu (普照) ghi năm thứ 2 (1128) niên hiệu Kiến Viêm (建炎), chúng ta biết được rằng trước đó đã có san hành rồi. Như trong lời hậu tựa của Hư Cốc Hy Lăng (虛谷希陵) có đoạn: “Ngu trung Trương Minh Viễn, ngẫu hoạch tả bản hậu sách, hựu hoạch Tuyết Đường san bản cập Thục bản, hiệu đính ngoa suyễn, san thành thử thư (嵎中張明遠、偶獲寫本後册、又獲雪堂刊本及蜀本、校訂訛舛、刊成此書, Trương Minh Viễn tình cờ có được quyển sau của tả bản trong hẽm núi, lại có thêm san bản của Tuyết Đường và bản nhà Thục, bèn hiệu đính những chỗ sai lầm, in thành sách này)” và san bản của Tuyết Đường Đạo Hạnh (雪堂道行) cũng nói lên vấn đề trên.
(卜築): hay bốc cư (卜居), nghĩa là người xưa dùng phương pháp bói toán, Phong Thủy để chọn lựa chỗ ở với khát vọng muốn được an cư lạc nghiệp. Như trong bài Đông Chí Hậu Quá Ngô Trương Nhị Tử Đàn Khê Biệt Nghiệp (冬至後過吳張二子檀溪別業) của Mạnh Hạo Nhiên (孟浩然, 689-740) nhà Đường có câu: “Bốc trúc nhân tự nhiên, Đàn Khê bất cánh xuyên (卜築因自然、檀溪不更穿, chọn nơi ở tự nhiên, Đàn Khê chớ xuyên qua).” Hay trong bài thơ Hán Thượng Đề Vi Thị Trang (漢上題韋氏莊) của Nhung Dục (戎昱, ?-?) nhà Đường cũng có câu: “Kết mao đồng Sở khách, bốc trúc Hán giang biên, nhật lạc sổ quy điểu, dạ thâm văn khấu huyền, thủy ngấn xâm ngạn liễu, sơn thúy tá trù yên, điều tiếu đề khuôn phụ, xuân lai tàm kỉ miên (結茅同楚客、卜築漢江邊、日落數歸鳥、夜深聞扣舷、水痕侵岸柳、山翠借廚煙、調笑提筐婦、春來蠶幾眠, làm nhà cùng khách Sở, chọn chỗ sông Hán bên, chiều lặn chim về tổ, đêm khuya nghe mái thuyền, mực nước thấm bờ liễu, núi xanh vương khói tiên, khúc khích mang giỏ nữ, xuân về tằm ngủ yên).” Hoặc như trong Cư Sĩ Truyện (居士傳, CBETA No. 1646) quyển 10, truyện Lưu Sĩ Quang (劉士光) lại có đoạn rằng: “Sảng Độ thâm tín Phật pháp, tằng dữ Sĩ Quang thính giảng ư Chung Sơn chư tự; nhân cọng bốc trúc Tống Hy Tự đông giản, hữu chung yên chi chí; Thiên Giám thập thất niên tốt ư Sĩ Quang xá (彥度深信佛法、曾與士光聽講於鍾山諸寺、因共卜築宋熙寺東澗、有終焉之志、天監十七年卒於士光舍, Sảng Độ thâm tín Phật pháp, đã từng cùng với Sĩ Quang nghe thuyết giảng ở các chùa Chung Sơn; nhân đó cả hai cùng chọn nơi ở khe suối phía Đông Tống Hy Tự và cuối cùng thỏa chí nguyện của họ; vào năm thứ 17 [518] niên hiệu Thiên Giám, Sảng Độ qua đời tại nhà của Sĩ Quang).”
(高僧傳, Kōsōden): trước tác của Huệ Kiểu (慧皎, 497-554), viết vào năm thứ 18 (519) niên hiệu Thiên Giám (天監) nhà Lương, gồm 14 quyển, là tuyển tập ghi lại những truyện ký của 257 vị cao tăng sống trong vòng 453 năm, kể từ năm thứ 10 (67) niên hiệu Thiên Bình (天平) đời vua Minh Đế (明帝, tại vị 57-75) nhà Hậu Hán cho đến năm thứ 18 (519) đời nhà Lương. Cọng thêm những phần phụ ký, tuyển tập này thâu lục 500 câu chuyện của những vị cao tăng. Thông thường người ta gọi đây là Cao Tăng Truyện bản nhà Lương. Phần Tự và Tổng Mục Lục là 1 quyển, phần Chánh Văn gồm 13 quyển. Phần Chánh Văn lại được chia thành 10 khoa, gồm: (1) Dịch Kinh (譯經), (2) Nghĩa Giải (義解), (3) Thần Dị (神異), (4) Tập Thiền (習禪), (5) Minh Luật (明律), (6) Vong Thân (亡身), (7) Tụng Kinh (誦經), (8) Hưng Phước (興福), (9) Kinh Sư (經師), (10) Xướng Đạo (唱道). Quyển thứ 14 là phần Tựa của Huệ Kiểu và Tổng Mục Lục. hiện bộ này được thâu tập trong quyển 50 của bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (大正新脩大藏經, Taishō).
(倶舍宗, Gusha-shū): tên gọi của một tông phái lớn trong 8 tông phái ở Trung Quốc và trong 6 tông lớn của Phật Giáo vùng Nam Đô, Nhật Bản. Tại Ấn Độ, người ta chia thành 18 bộ phái của Phật Giáo Thượng Tọa Bộ (xưa gọi là Tiểu Thừa). Lần đầu tiên sau khi đức Phật diệt độ được 400 năm, thể theo lời thỉnh cầu của vua Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦王) của vương quốc Kiện Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄羅), 500 vị A La Hán đã tiến hành kết tập bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận (s: Abhidharma-mahāvibhāṣa-śāstra, 大毘婆沙論), 200 quyển; cho nên trong số 18 bộ phái ấy, tông nghĩa của Tát Bà Đa Bộ (薩婆多部, tức Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ [s: Sarvāstivādin, p: Sabbatthivādin, 說一切有部]) được thành lập. Bộ luận này theo nghĩa của Lục Túc Luận (s: Śaḍpadaśāstra, 六足論) để giải thích về Phát Trí Luận (s: Abhidharma-jñāna-prasthāna, 發智論), vì vậy giáo nghĩa của Tát Bà Đa Bộ đều tập trung vào bộ luận này. Trải qua 500 năm sau, Bồ Tát Thế Thân (s, p: Vasubandhu, 世親) xuất hiện, đầu tiên xuất gia tu tập theo Tát Bà Đa Bộ (薩婆多部), học tông nghĩa của bộ phái này, rồi sau đó học giáo lý của Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部), nhưng có điều không hài lòng về tông này, nên ông đã y cứ vào bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận mà trước tác ra bộ Câu Xá Luận (s: Abhidharmakośa-bhāṣya, 倶舍論). Trong mỗi phần ông đều lấy ý của Kinh Lượng Bộ để đả phá giáo thuyết của Tát Bà Đa Bộ. Vì vậy, từ đó ông đã tách riêng ra khỏi 18 bộ phái trên. Tại Ấn Độ, bộ luận này được gọi là Thông Minh Luận (聰明論), tất cả mọi người trong và ngoài tông phái đều học cả. Kể từ khi Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nhà Tùy bên Trung Quốc dịch bộ này sang Hán ngữ vào năm thứ 4 (563) niên hiệu Thiên gia (天嘉), người ta bắt đầu nghiên cứu về nó. Kế đến, Huyền Trang (玄奘, 602-664) nhà Đường lại dịch Câu Xá Luận lần thứ hai vào năm thứ 5 (654) niên hiệu Vĩnh Huy, rồi các môn nhân của ông như Thần Thái (神泰), Phổ Quang (普光), Pháp Bảo (法寳) đã chú sớ cho bộ này. Từ đó Câu Xá Tông bắt đầu hưng thạnh ở Trung Quốc. Tại Nhật Bản, tông này được Đạo Chiêu (道昭, Dōshō, 629-700) truyền vào cùng với Pháp Tướng Tông. Vị này sang nhà Đường cầu pháp vào năm thứ 4 (653) niên hiệu Bạch Trỉ (白雉), theo hầu Huyền Trang và trở về nước vào năm thứ 7 (661) đời Tề Minh Thiên Hoàng (齊明天皇, Saimei Tennō, tại vị 655-661). Ông được xem như là người đầu tiên truyền bá Câu Xá Tông vào Nhật. Tiếp theo, có Trí Thông (智通, Chitsū, ?-?), Trí Đạt (智達, Chitatsu, ?-?), hai người sang nhà Đường vào năm thứ 4 (658) đời Tề Minh Thiên Hoàng, cũng như Huyền Phưởng (玄昉, Gembō, ?-746), vị tăng sang cầu pháp vào năm đầu (717) niên hiệu Dưỡng Lão (養老), đều có truyền tông này vào Nhật. Trong bản Tả Kinh Sở Khải (冩經所啓) ghi ngày mồng 8 tháng 7 năm thứ 12 (740) niên hiệu Thiên Bình (天平) còn lưu lại trong Chánh Thương Viện Văn Khố (正倉院文庫), ta thấy có ghi “Câu Xá Tông 30 quyển”; như vậy sách mà Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch ra đã được bắt đầu nghiên cứu từ khoảng thời gian này. Tên gọi Câu Xá Tông cũng được tìm thấy lần đầu tiên trong bản Tăng Trí Cảnh Chương Sớ Phụng Thỉnh Khải (僧智憬章疏奉請啓). Vì Câu Xá Tông được xem giống như Tát Bà Đa Tông vốn được tìm thấy trong bản Lục Tông Trù Tử Trương (六宗厨子張) ghi ngày 18 tháng 3 nhuận năm thứ 3 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寳), có thể sự thành lập của học phái này là trong khoảng thời gian năm thứ 3 hay 4 của niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo. Kế đến, trong phần quy định về số người được xuất gia và tu học mỗi năm của các tông phái như trong bức công văn của quan Thái Chính ghi ngày 26 tháng giêng năm thứ 25 (806) niên hiệu Diên Lịch (延曆), ta thấy có quy định Pháp Tướng Tông là 3 người, 2 người đọc Duy Thức Luận (s: Vijñānamātrasiddhi-śāstra, 唯識論) và 1 người đọc về Câu Xá Luận (s: Abhidharmakośa-bhāṣya, 倶舍論); như vậy ta biết được rằng lúc bấy giờ Câu Xá Tông vẫn là tông phái phụ thuộc vào Pháp Tướng Tông. Giáo nghĩa của tông này phân tích các pháp thành 5 vị và 75 pháp, công nhận tính thực tại của các pháp ấy, chủ trương rằng thế giới được thành lập dựa trên các pháp đó và con người tồn tại trong vòng luân hồi đau khổ, vì vậy cần phải đoạn diệt phiền não căn bản và chứng đạt Vô Dư Y Niết Bàn. Cũng giống như Pháp Tướng Tông, tông này cũng chia thành 2 phái là Bắc Tự Truyền (北寺傳) và Nam Tự Truyền (南寺傳). Phái Nam Tự Truyền thì chủ trương thuyết Dụng Diệt (用滅), nghĩa là các pháp hoại diệt nhưng thật thể của chúng vẫn tồn tại và cái tiêu diệt chính là tác dụng. Phái Bắc Tự Truyền đứng trên lập trường của thuyết Thể Diệt (体滅), tức là các pháp sanh khởi nhờ duyên và thật thể của chúng tiêu diệt theo từng Sát Na.
(古尊宿語錄, Kosonshukugoroku): 48 quyển, do Tăng Đĩnh Thủ Trách (僧挺守賾) nhà Tống biên tập, san hành vào năm thứ 45 (1617) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (古尊宿語要) 4 quyển được cư sĩ Giác Tâm (覺心) tái san hành vào năm thứ 3 (1267) niên hiệu Hàm Thuần (咸淳). Trong khoảng thời gian đó, bộ này được rất nhiều Thiền giả thuộc hệ Lâm Tế bổ sung thêm, đến khi được cho thâu lục vào Đại Tạng Kinh nhà Minh (Nam Tạng), nó trở thành bản hiện hành với 48 quyển và 35 bậc Thiền tượng và được san hành tại Hóa Thành Tự (化城寺) ở Kính Sơn (徑山) vào năm thứ 45 niên hiệu Vạn Lịch. Đây là bộ Ngữ Lục rất quan trọng để có thể biết được những lời dạy về cơ duyên, hành trạng của các bậc cao tăng thạc đức dưới thời nhà Tống. Bên cạnh các Ngữ Lục liệt kê trong bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu, có 17 Ngữ Lục của các Thiền sư khác lại được thêm vào nữa, gồm có:
(1) Nam Nhạc Đại Huệ Thiền Sư Ngữ (南嶽大慧禪師語, Nangakudaiezenjigo) của Nam Nhạc Hoài Nhượng (南嶽懷讓),
(2) Mã Tổ Đại Tịch Thiền Sư Ngữ (馬祖大寂禪師語, Basodaijakuzenjigo) của Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一),
(3) Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư Ngữ (百丈懷海禪師語, Hakujōekaizenjigo) của Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海),
(4) Quân Châu Hoàng Bá Đoạn Tế Thiền Sư Ngữ (筠州黃檗斷濟禪師語, Kinshūōbakudanzaizenjigo) và Uyển Lăng Lục (苑陵錄, Enryōroku) của Hoàng Bá Hy Vận (黃檗希運),
(5) Hưng Hóa Thiền Sư Ngữ Lục (興化禪師語錄, Kōkezenjigoroku) của Hưng Hóa Tồn Tương (興化存奬),
(6) Phong Huyệt Thiền Sư Ngữ Lục (風穴禪師語錄, Fuketsuzenjigoroku) của Phong Huyệt Diên Chiểu (風穴延沼),
(7) Phần Dương Chiêu Thiền Sư Ngữ Lục (汾陽昭禪師語錄, Funyōshōzenjigoroku) của Phần Dương Thiện Chiêu (汾陽善昭),
(8) Từ Minh Thiền Sư Ngữ Lục (慈明禪師語錄, Jimyōzenjigoroku) của Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓),
(9) Bạch Vân Đoan Thiền Sư Ngữ (白雲端禪師語, Hakuuntanzenjigo) của Bạch Vân Thủ Đoan (白雲守端),
(10) Phật Chiếu Thiền Sư Kính Sơn Dục Vương Ngữ (佛照禪師徑山育王語, Busshōzenjikeizanikuōgo) của Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光),
(11) Bắc Nhàn Giản Thiền Sư (北礀簡禪師, Hokkankanzenji) của Bắc Nhàn Cư Giản (北礀居簡),
(12) Vật Sơ Quán Thiền Sư (物初觀禪師, Mosshokanzenji) của Vật Sơ Đại Quán (物初大觀),
(13) Hối Cơ Thiền Sư Ngữ Lục (晦機禪師語錄, Kaikizenjigoroku) của Hối Cơ Nguyên Hy (晦機元熙),
(14) Quảng Trí Toàn Ngộ Thiền Sư (廣智全悟禪師, Kōchizengozenji) của Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢),
(15) Trọng Phương Hòa Thượng Ngữ Lục (仲方和尚語錄, Chūhōoshōgoroku) của Trọng Phương Thiên Luân (仲方天倫),
(16) Giác Nguyên Đàm Thiền Sư (覺原曇禪師, Kakugendonzenji) của Giác Nguyên Từ Đàm (覺原慈曇), và
(17) Phật Chiếu Thiền Sư Tấu Đối Lục (佛照禪師奏對錄, Busshōzenjisōtairoku) của Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光).
Trong khi đó, người biên tập là Định Nham Tịnh Giới (定巖淨戒, ?-1418) đã lược bớt khá nhiều, về sau trong bộ Vạn Lịch Bản Đại Tạng Kinh (萬曆版大藏經, tức Gia Hưng Tạng) đã có ý hồi phục lại nguyên hình và trở thành hình thức hiện tại. Trên đây là quá trình phát triển từ bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu cho đến Bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Lục đã trải qua như thế nào, ngoài ra Hối Thất Sư Minh (晦室師明, tiền bán thế kỷ thứ 13) còn tiếp tục biên tập lại bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu và cho san hành vào năm 1238 ở Cổ Sơn bộ Tục Khai Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (續開古尊宿語要, Zokukaikosonshukugoyō) gồm 80 Ngữ Lục của các Thiền sư. Dường như ông có ý muốn thâu tập cho được 100 Ngữ Lục, nhưng rốt cuộc không thành công.
(s, p: dāna, 檀那): còn gọi là Đà Na (柁那), Đán Na (旦那), Đà Nẵng (馱曩), Đàn (檀); ý dịch là thí (施, cho, ban phát), bố thí (布施), tức lấy tâm từ bi mà ban phát phước lợi cho tha nhân; cả Phạn Hán cùng gọi là Đàn Thí (檀施), Đàn Tín (檀信). Những tín đồ cúng dường y thực cho tăng chúng, hay xuất tiền tài để tiến hành pháp hội, tu hạnh bố thí được gọi là Thí Chủ (s: dānapati, 施主); âm dịch là Đàn Việt (檀越), Đà Na Bát Để (陀那鉢底), Đàn Na Ba Để (檀那波底), Đà Na Bà (陀那婆); cả Phạn Hán đều gọi chung là Đàn Việt Thí Chủ (檀越施主), Đàn Na Chủ (檀那主), Đàn Chủ (檀主). Trong Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập (翻譯名義集) quyển 1 có giải thích rằng: “Đàn Na hựu xưng Đàn Việt; Đàn tức thí; thử nhân hành thí, việt bần cùng hải, cố xưng Đàn Việt; tâm sanh xả pháp, năng phá xan tham, thị vi Đàn Na (檀那又稱檀越、檀卽施、此人行施,越貧窮海、故稱檀越、心生捨法、能破慳貪、是爲檀那, Đàn Na còn gọi là Đàn Việt; Đàn tức là bố thí; người này hành bố thí, vượt qua biển bần cùng; nên gọi là Đàn Việt; tâm sanh khởi pháp xả bỏ, có thể phá tan sự tham lam, keo kiệt, đó là Đàn Na).” Theo Thiện Sanh Kinh (善生經) của Trường A Hàm (長阿含經) quyển 11 có đoạn rằng: “Đàn Việt đương dĩ ngũ sự cung phụng Sa Môn, Bà La Môn. Vân hà vi ngũ ? Nhất giả thân hành từ, nhị giả khẩu hành từ, tam giả ý hành từ, tứ giả dĩ thời thí, ngũ giả môn bất chế chỉ. Thiện Sanh, nhược Đàn Việt dĩ thử ngũ sự cung phụng Sa Môn, Bà La Môn; Sa Môn, Bà La Môn đương phục dĩ lục sự nhi giáo thọ chi. Vân hà vi lục ? Nhất giả phòng hộ bất linh vi ác, nhị giả chỉ thọ thiện xứ, tam giả giáo hoài thiện tâm, tứ giả sử vị văn giả văn, ngũ giả dĩ văn năng sử thiện giải, lục giải khai thị thiên lộ (檀越當以五事供奉沙門、婆羅門、云何爲五、一者身行慈、二者口行慈、三者意行慈、四者以時施、五者門不制止、善生、若檀越以此五事供奉沙門、婆羅門、沙門、婆羅門當復以六事而敎授之、云何爲六、一者防護不令爲惡、二者指授善處、三者敎懷善心、四者使未聞者聞、五者已聞能使善解、六者開示天路, Thí chủ nên lấy năm việc để cung phụng Sa Môn, Bà La Môn. Thế nào là năm ? Một là thân hành từ bi, hai là miệng hành từ bi, ba là ý hành từ bi, bốn là cúng dường đúng thời, năm là cổng không đóng dừng. Này Thiện Sanh ! Nếu Thí chủ lấy năm việc trên để cung phụng Sa Môn, Bà La Môn; Sa Môn, Bà La Môn phải lấy sáu việc để giáo hóa lại cho họ. Thế nào là sáu ? Một là phòng ngừa, bảo hộ không khiến cho làm điều ác; hai là chỉ bày, truyền trao nơi tốt lành; ba là dạy họ luôn nhớ tâm lành; bốn là khiến cho người chưa nghe được nghe; năm là người được nghe có thể khiến cho khéo hiểu rõ; sáu là khai thị rõ đường lên trời).” Lại theo Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 24 cho biết rằng vị Thí Chủ Đàn Việt tùy thời mà bố thí, cúng dường thì sẽ có 5 công đức:
(1) Tiếng tăm vang khắp bốn phương và mọi người đều hoan hỷ, vui mừng;
(2) Nếu sanh làm thân chúng sanh, không mang tâm xấu hổ và cũng không có sự sợ hãi;
(3) Được mọi người kính ngưỡng, người thấy cũng sanh tâm hoan hỷ;
(4) Sau khi mạng hết, hoặc sanh lên cõi Trời, được chư Thiên cung kính; nếu sanh trong cõi người, cũng được người tôn quý;
(5) Trí tuệ xuất chúng, thân hiện đời hết lậu hoặc, chẳng trãi qua đời sau.
Món cháo do Thí Chủ cúng dường cho đại chúng được gọi là Đàn Na Chúc (檀那粥). Như trong Oánh Sơn Thanh Quy (瑩山清規) quyển Thượng, phần Nguyệt Trung Hành Sự (月中行事) của Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾, Keizan Jōkin, 1268-1325), Tổ khai sơn Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji) ở vùng Năng Đăng (能登, Noto), có câu: “Đàn Na Chúc, thán kệ như tiền, kim thần tịnh chúc nhất đường, phụng vị bổn tự Đàn Na thập phương Thí Chủ phước thọ trang nghiêm, ngưỡng bằng tôn chúng niệm (檀那粥、歎偈如前、金晨淨粥一堂、奉爲本寺檀那十方施主福壽莊嚴、仰憑尊眾念, Cháo Đàn Na, kệ tán thán như trước, hôm nay cháo chay một nhà, kính vì cầu chúc Đàn Na chùa này, Thí Chủ mười phương được phước thọ trang nghiêm, ngưỡng mong đại chúng tưởng niệm).” Đặc biệt, tại Nhật Bản, ngôi chùa sở thuộc nhà Đàn Việt được gọi là Đàn Na Tự (檀那寺, Danna-dera) hay Đán Na Tự (旦那寺, Danna-dera); hay còn có nghĩa là ngôi chùa ban pháp cho bản thân mình, hoặc là ngôi chùa do mình cúng dường và duy trì. Từ này xuất hiện trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永, 1624-1644), khi tiến hành đàn áp Thiên Chúa Giáo. Đàn Na Tự còn gọi với tên khác là Bồ Đề Tự (菩提寺), Hương Hoa Viện (香華院).
(頂相): trên đỉnh đầu của đức Phật có nhục kế (s: uṣṇīṣa, 肉髻, khối u bằng thịt như búi tóc), hết thảy trời người đều không thể thấy được, nên có tên là vô kiến đảnh tướng (無見頂相); một trong 32 tướng tốt. Như trong Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh (大法炬陀羅尼經, Taishō Vol. 21, No. 1340) quyển 4, Phẩm Tướng Hảo (相好品), giải thích rằng: “Như Lai đảnh tướng, nhục kế viên mãn, nhất thiết nhân thiên sở bất năng kiến (如來頂相、肉髻圓滿、一切人天所不能見, đảnh tướng của Như Lai, nhục kế tròn đầy, tất cả trời người không thể thấy được).” Trong Thủy Kinh Chú (水經注), phần Hà Thủy (河水) 2, có đoạn: “Tháp tích, Phật nha, Ca Sa, đảnh tướng Xá Lợi, tất tại Phất Lâu Sa quốc (塔跡、佛牙、袈裟、頂相舍利、悉在弗樓沙國, di tích tháp, răng Phật, y Ca Sa, Xá Lợi của đảnh tướng, đều ở tại nước Phất Lâu Sa [Purusapura, hiện tại ở phái Tây Bắc Peshawar]).” Hay trong Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa (法華經通義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 31, No. 611) lại có đoạn rằng: “Phật hữu cửu thập thất chủng đại nhân tướng, nhục kế đảnh tướng vi đệ nhất, thị vi vô kiến đảnh tướng, tùng thử phóng quang (佛有九十七種大人相、肉髻頂相爲第一、是爲無見頂相、從此放光, đức Phật có 97 loại tướng của đại nhân, đảnh tướng nhục kế là số một, đó là vô kiến đảnh tướng, từ đây phóng ra ánh sáng).” Ngoài ra, các Thiền gia gọi tiêu tượng bán thân, hay tượng toàn thân của Tổ sư ngồi trên ghế dựa Khúc Lục (曲彔), là đảnh tướng, tôn kính như vô kiến đảnh tướng của đức Như Lai. Sự lưu hành hình vẽ đảnh tướng khởi đầu từ Trung Quốc, nhưng thịnh hành nhất dưới hai thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) và Thất Đinh (室町, Muromachi) của Nhật Bản. Vẽ mặt nhân vật phần nhiều là bút pháp tả thật, ở giữa có bài từ tự nhân vật được vẽ làm ra. Đây được xem như là tín vật phú pháp, truyền cho đệ tử đắc pháp. Như trong Gia Thái Phổ Đăng Lục (嘉泰普燈錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 79, No. 1559) quyển 29 có bài Đề Vĩnh Minh Trí Giác Thọ Thiền Sư Đảnh Tướng (題永明智覺壽禪師頂相) của Trường Lô Tổ Chiếu Hòa Thiền Sư (長蘆祖照和禪師), rằng: “Tuệ nhật phong cao thu sắc lãnh, Tiền Đường giang tĩnh nguyệt hoa minh, hàn quang nhất thước châu sa giới, bút hạ khan lai vị thập thành (慧日峰高秋色冷、錢塘江靜月華明、寒光一爍周沙界、筆下看來未十成, trời tuệ đỉnh cao thu sắc lạnh, Tiền Đường sông lặng trăng sáng trong, hào quang tỏ rực khắp muôn cõi, dưới bút xem ra chữa vẹn toàn).”
(s, p: Devadatta, 提婆達多): gọi tắt là Đề Bà (提婆), âm dịch là Đề Bà Đạt Đâu (提婆達兜), Địa Bà Đạt Đa (地婆達多), Đề Bà Đạt (提婆達), Điều Đạt (調達); dịch là Thiên Thọ (天壽), Thiên Nhiệt (天熱), Thiên Dữ (天與). Ông là người em họ của đức Thế Tôn, anh của A Nan (s, p: Ānanda, 阿難), con của trưởng giả Thiện Giác (善覺) và là em của công chúa Da Du Đà La (s: Yaśodharā, p: Yasodharā, 耶輸陀羅). Khi đức Thế Tôn về thăm cố hương của mình, ông đã cùng với những người thanh niên của dòng họ Thích Ca như A Nan, A Na Luật (s: Aniruddha, p: Anuruddha, 阿那律), Ưu Ba Ly (s, p: Upāli, 優波離), v.v., đã xuất gia và theo làm đệ tử của đức Phật. Trong suốt 12 năm trường, ông thường có thiện tâm và nỗ lực tu tập, nhưng không chứng được thánh quả nên dần dần tâm ấy thối chuyển và sanh ra ác niệm. Ông càng ganh tỵ với thanh danh của Thế Tôn khi ấy càng lúc càng lên cao, nên đã kết hợp với Thái Tử A Xà Thế (s: Ajātaśatru, p: Ajātasattu, 阿闍世) nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), tìm cách chiếm đoạt ngôi vị quốc vương và pháp vương. Riêng A Xà Thế thì đã chiếm được ngôi vị quốc vương thay cho vua cha Tần Bà Sa La (s, p: Bimbisāra, 頻婆娑羅), nhưng Đề Bà Đạt Đa thì không đạt được nguyện vọng lãnh đạo giáo đoàn thay thế đức Thế Tôn. Hơn nữa, chính ông đã chủ trương thanh lọc hóa giáo đoàn và yêu cầu quy định về nếp sống sinh hoạt nghiêm túc của các Tỳ Kheo, nhưng rồi vẫn không được tán đồng, cho nên ông đã thống lãnh 500 vị Tỳ Kheo phụ họa theo ý kiến của ông để tiến hành ý định muốn biệt lập giáo đoàn, nhưng cuối cùng vẫn không đạt được mục đích của mình. Ông đã rắp tâm lăn đá từ trên Linh Thứu Sơn (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 靈鷲山) xuống để giết hại đức Thế Tôn, nhưng may thay những mảnh vụn đá chỉ làm tổn thương nhẹ ngón chân của đức Phật mà thôi. Bằng tất cả các phương kế của mình, Đề Bà Đạt Đa lại thả con voi say với ý đồ muốn sát hại đức Phật, nhưng con voi kia lại quy phục theo Phật. Với những việc làm như vậy, ông đã phạm vào các nghịch tội như phá hòa hợp tăng, làm cho thân Phật chảy máu, giết hại Tỳ Kheo Ni, v.v., cho nên khi qua đời, ông bị đọa xuống địa ngục Vô Gián.
(s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒): tức Bồ Tát Di Lặc, âm dịch là Mai Đát Ma Da (梅怛魔耶), Mạt Đát Rị Da (末怛唎耶), Di Đế Lệ (彌帝隸), Di Đế Lễ (彌帝禮), Mai Để Lê (梅低梨), Mê Đế Lệ (迷諦隸), Mỗi Đát Rị (每怛哩); ý dịch là Từ Thị (慈氏), Từ Tôn (慈尊). Bên cạnh đó, Bồ Tát còn có tên là A Dật Đa (s, j: Ajita, 阿逸多), dịch là Vô Năng Thắng (無能勝); cho nên có tên A Dật Đa Bồ Tát (阿逸多菩薩). Hoặc A Dật Đa là họ, Di Lặc là tên. Theo Di Lặc Thượng Sanh Kinh (彌勒上生經), Di Lặc Hạ Sanh Kinh (彌勒下生經), Bồ Tát Di Lặc vốn sanh ra trong một gia đình Bà La Môn ở miền nam Thiên Trúc (天竺), sau theo làm đệ tử của Phật, được thọ ký sẽ thành Phật trong tương lai. Hiện tại, ngài thường trú trên cung trời Đâu Suất (s: Tuṣita, p: Tusita, 兜率). Theo truyện kể rằng, do muốn thành thục các chúng sanh, vị Bồ Tát này phát tâm không ăn thịt; vì nhân duyên đó nên có tên là Từ Thị. Tương truyền sau khi đức Phật diệt độ khoảng 56 ức 7 ngàn vạn năm (có thuyết cho là 57 ức 6 ngàn vạn năm), từ trên cung trời, Bồ Tát Di Lặc hạ sanh xuống nhân gian, xuất gia học đạo, ngồi thành chánh giác dưới gốc cây Long Hoa (s: nāga-puṣpa, 龍華樹, Mesuna roxburghii Wigh, Mesuna ferrea) trong vườn Hoa Lâm (華林), Thành Xí Đầu (翅頭城), và thuyết pháp trước sau 3 lần. Đây được gọi là Long Hoa Tam Hội (龍華三會), Long Hoa Tam Đình (龍華三庭), Di Lặc Tam Hội (彌勒三會), Từ Tôn Tam Hội (慈尊三會), hay Long Hoa (龍華). Trong các kinh điển Đại Thừa, Bồ Tát Di Lặc được đề cập nhiều nơi. Tương truyền Tôn giả Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉) vẫn chưa nhập diệt, mà còn đang nhập định trong Kê Túc Sơn (s: Kukkuṭapādagiri, Kurkuṭapādagiri, p: Kukkuṭapadagiri, Kurkuṭapadagiri,雞足山) để chờ đợi Phật Di Lặc xuất hiện. Hay có truyền thuyết cho rằng Bồ Tát Di Lặc ở trên cung trời Đâu Suất, hạ sanh xuống cõi Ta Bà, thuyết Du Già Sư Địa Luận (瑜伽師地論); cho nên, tư tưởng vãng sanh về cõi Đâu Suất trở nên thịnh hành và tín ngưỡng Di Lặc theo đó xuất hiện. Trong Mật Giáo, Di Lặc của Thai Tạng Giới ngự trên tòa sen, phương đông bắc của Trung Đài Bát Diệp Viện (中台八葉院); còn Di Lặc của Kim Cang Giới thì ngự ở phương đông, mật hiệu là Tốc Tật Kim Cang (迅疾金剛). Ngoài ra, Bố Đại Hòa Thượng (布袋, ?-916) ở Huyện Phụng Hóa (奉化縣), Minh Châu (明州), Triết Giang (浙江) được xem như là Di Lặc hóa thân. Trong Minh Châu Định Ứng Đại Sư Bố Đại Hòa Thượng Truyện (明州定應大師布袋和尚傳) có thuật rõ hành trạng của Hòa Thượng. Ông có bài kệ nổi tiếng là: “Nhất bát Thiên gia phạn, cô thân vạn lí du, thanh mục đổ nhân thiểu, vấn lộ bạch vân đầu (一鉢千家飯、孤身萬里遊、青目覩人少、問路白雲頭, bình bát cơm ngàn nhà, thân chơi muôn dặm xa, mắt xanh xem người thế, mây trắng hỏi đường qua).” Sau khi thâu thần tịch diệt, Hòa Thượng có để lại bài kệ tại Nhạc Lâm Tự (岳林寺), Huyện Phụng Hóa: “Di Lặc chơn Di Lặc, phân thân thiên bách ức, thời thời thị thời nhân, thời nhân tự bất thức (彌勒眞彌勒、分身千百億、時時示時人、時人自不識, Di Lặc đúng Di Lặc, phân thân trăm ngàn ức, luôn luôn dạy mọi người, bấy giờ chẳng ai biết).” Từ đó, người ta tạc tượng Hòa Thượng để tôn thờ như là Phật Di Lặc. Trong Động Thượng Già Lam Chư Đường An Tượng Ký (洞上伽藍諸堂安像記) quy định trong 3 tôn tượng an trí tại Chánh Điện, có tượng Di Lặc, ghi rõ rằng: “Chi Na Thiên Đồng Sơn Phật Điện, an Thích Ca Di Đà Di Lặc, nhi ngạch ư Tam Thế Như Lai tứ tự dã. Nhật Bản Vĩnh Bình hiệu chi, Đông Sơn Tuyền Dũng Tự diệc thị dã; án Tuyền Dũng Tự điện đường sắc mục vân, Phật Điện giả an trí Thích Ca, Di Đà, Di Lặc, tam thế chi giáo chủ, dĩ vi nhất tự sùng ngưỡng chi bổn tôn dã. Đại Đường chư tự phổ giai như thử vân vân, y chi tắc an Tam Thế Như Lai giả, bất đản Thiên Đồng dư ? (支那天童山佛殿、安釋迦彌陀彌勒、而額於三世如來四字也。日本永平傚之、東山泉涌寺亦是也、案泉涌寺殿堂色目云、佛殿者安置釋迦彌陀彌勒三世之敎主、以爲一寺崇仰之本尊也。大唐諸寺普皆如此云云、依之則安三世如來者、不但天童歟, Điện Phật của Thiên Đồng Sơn ở Trung Quốc an trí Thích Ca, Di Đà và Di Lặc; trên biển đề bốn chữ 'Tam Thế Như Lai [Như Lai Ba Đời]'. Vĩnh Bình Tự của Nhật Bản bắt chước theo; Tuyền Dũng Tự ở vùng Đông Sơn cũng như vậy. Căn cứ bản danh mục các ngôi điện đường của Tuyền Dũng Tự, nơi Chánh Điện án trí các đức giáo chủ của ba đời là Thích Ca, Di Đà và Di Lặc, để làm các tôn tượng thờ phụng của chùa. Những ngôi chùa của nước Đại Đường [Trung Quốc] thảy đều như vậy, v.v.; nương theo đó mà an trí các đức Như Lai của ba đời, không phải chỉ có Thiên Đồng Sơn mà thôi đâu).” Tại Điện Di Lặc của Thủy Liêm Tự (水簾寺) ở Đồng Bá Sơn (桐柏山), Tỉnh Hà Nam (河南省) có câu đối tán dương Bồ Tát Di Lặc rằng: “Khai khẩu tiện tiếu tiếu cổ tiếu kim phàm sự phó chi nhất tiếu, đại đỗ năng dung dung thiên dung địa ư nhân hà sở bất dung (開口便笑笑古笑今凡事付之一笑、大肚能容容天容地於人何所不容, mở miệng là cười cười xưa cười nay mọi sự phó cho nụ cười, bụng lớn bao dung dung trời dung đất với người chỗ nào chẳng dung).”
(s: puruṣa damyasārathi, p: purisadammasārathi, 調御丈夫): âm dịch là Phú Lâu Sa Đàm Miệu Ta La Đề (富樓沙曇藐娑羅提), một trong 10 danh hiệu của Phật, nghĩa là một bậc thầy khéo điều phục và chế ngự, hóa đạo hết thảy các trượng phu. Đây là đại bi và đại trí của Phật, có khi dùng lời nhu hòa, có khi dùng lời bi thiết hay tạp ngữ, v.v., lấy đủ các loại phương tiện để điều ngự người tu hành, giúp cho họ nhập Niết Bàn. Mười danh hiệu này phát xuất từ trong Phật Thuyết Thập Hiệu Kinh (佛說十號經, Taishō No. 782), phần giải thích về Điều Ngự Trượng Phu như sau: “Vân hà Điều Ngự Trượng Phu ? Phật ngôn: 'Phật thị Đại Trượng Phu, nhi năng điều ngự thiện ác nhị loại; ác giả khởi bất thiện Tam Nghiệp, nhi tác chư ác đọa Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Bàng Sanh nhi đắc ác báo; thiện giả ư thân khẩu ý nhi tu chúng thiện, đắc nhân thiên phước quả; thử chi thiện ác giai do tâm tác, Phật dĩ đệ nhất nghĩa thiện Niết Bàn chi pháp, hiển thị diều ngự linh ly cấu nhiễm hoạch đắc tối thượng tịch diệt Niết Bàn, thị cố đắc danh Điều Ngự Trượng Phu' (云何調御丈夫、佛言、佛是大丈夫、而能調御
善惡二類、惡者起不善三業、而作諸惡墮地
獄餓鬼傍生而得惡報、善者於身口意而修
眾善、得人天福果、此之善惡皆由心作、佛
以第一義善涅槃之法、顯示調御令離垢染
獲得最上寂滅涅槃、是故得名調御丈夫, Thế nào là Điều Ngự Trượng Phu ? Phật dạy: 'Phật là Đại Trượng Phu, có thể điều ngự hai loại thiện và ác; người ác khởi Ba Nghiệp không lành, mà tạo các điều ác, đọa vào Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Bàng Sanh và bị quả báo ác; người thiện tu các điều lành đối với thân, miệng, ý, được quả phước của trời người; thiện và ác này đều do tâm tạo ra; Phật lấy pháp lành Niết Bàn nghĩa thứ nhất để hiển bày, điều ngự, khiến cho xa lìa cấu nhiễm, đạt được Niết Bàn vắng lặng tối thượng; cho nên có tên gọi là Điều Ngự Trượng Phu).” Câu “Điều Ngự Trượng Phu, nãi huấn Tứ Sanh chi tử (調御丈夫、乃訓四生之子)” có nghĩa là đấng Đại Trượng Phu điều ngự, dạy dỗ đàn con của Bốn Loài.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập