Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiên Diệp »»
(檀林, danrin): nguyên lai, nó là từ gọi tắt của Chiên Đàn Lâm (旃檀林), nơi chúng tăng hòa hợp, tập trung tu hành; thường chỉ cho tự viện; cho nên nó cũng là tên gọi khác của tự viện Phật Giáo. Về sau, nó trở thành cơ sở học vấn của Phật Giáo, vì tính chất cũng như cơ năng của nó giống như Học Lâm (學林), Học Liêu (學寮). Tại Nhật Bản, Đàn Lâm Viện (檀林院) được xây dựng vào năm thứ 3 (853) niên hiệu Nhân Thọ (仁壽) được xem như là tiền thân đầu tiên của Đàn Lâm. Đến thời đại Đức Xuyên (德川, Tokugawa), các tông phái bắt đầu thiết kế những cơ sở học vấn Đàn Lâm và Quan Đông Thập Bát Đàn Lâm (關東十八檀林, 18 cơ sở học vấn Đàn Lâm ở vùng Quan Đông) là tiêu biểu, nổi tiếng nhất. Riêng Tào Động Tông, trong khuôn viên của Cát Tường Tự (吉祥寺, Kichijō-ji) ở Giang Hộ (江戸, Edo) có Chiên Đàn Lâm với rất nhiều tăng chúng đến tham học. Tương truyền đến năm thứ 3 (1774) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), nơi đây có đến 641 người. Khoảng vào năm đầu (1624) niên hiệu Khoan Vĩnh, Quan Đông Thập Bát Đàn Lâm được thành lập, nhưng người hình thành hệ thống là Nguyên Dự Tồn Ứng (源譽存應, Genyō Zonō, 1544-1620), vị tổ đời thứ 12 của Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji). Đây là 18 ngôi tự viện có cơ cấu giáo dục cho tăng sĩ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản, gồm:
(1) Quang Minh Tự (光明寺, Kōmyō-ji) ở vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, thuộc Kanagawa-ken [神奈川縣]);
(2) Thắng Nguyện Tự (勝願寺, Shōgan-ji) ở Hồng Sào (鴻巢, Konosu, thuộc Saitama-ken [埼玉縣]);
(3) Thường Phước Tự (常福寺, Jōfuku-ji) ở Qua Liên (瓜連, Urizura, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]);
(4) Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji) ở Đông Kinh (東京, Tokyo);
(5) Hoằng Kinh Tự (弘經寺, Gukyō-ji) ở Phạn Chiểu (飯沼, Iinuma, thuộc Ibaraki-ken);
(6) Đông Tiệm Tự (東漸寺, Tōzen-ji) ở Tùng Hộ (松戸, Maddo, thuộc Chiba-ken [千葉縣]);
(7) Đại Nham Tự (大巖寺, Daigan-ji) ở Thiên Diệp (千葉, Chiba, thuộc Chiba-ken);
(8) Liên Hinh Tự (蓮馨寺, Renkei-ji) ở Xuyên Việt (川越, Kawagoe, thuộc Saitama-ken);
(9) Đại Thiện Tự (大善寺, Daizen-ji) ở Bát Vương Tử (八王子, Hachiōji, thuộc Tokyo);
(10) Tịnh Quốc Tự (淨國寺, Jōkoku-ji) ở Nham Quy (岩槻, Iwatsuki, thuộc Saitama-ken);
(11) Đại Niệm Tự (大念寺, Dainen-ji) ở Đạo Phu (稻敷, Inashiki, thuộc Ibaraki-ken);
(12) Thiện Đạo Tự (善導寺, Zendō-ji) ở Quán Lâm (館林, Tatebayashi, thuộc Gunma-ken [群馬縣]);
(13) Hoằng Kinh Tự (弘經寺, Gukyō-ji) ở Thường Tổng (常總, Jōsō, thuộc Ibaraki-ken);
(14) Linh Sơn Tự (靈山寺, Reizan-ji) ở Mặc Điền (墨田, Sumida, thuộc Tokyo);
(15) Phan Tùy Viện (幡隨院, Banzui-in) ở Tiểu Kim Tỉnh (小金井, Koganei, thuộc Tokyo);
(16) Truyền Thông Viện (傳通院, Denzū-in) ở Văn Kinh (文京, Bunkyō, thuộc Tokyo);
(17) Đại Quang Viện (大光院, Daikō-in) ở Thái Đa (太田, Ōta, thuộc Gunma-ken);
(18) Linh Nham Tự (靈巖寺, Reigan-ji) ở Thâm Xuyên (深川, Fukagawa, thuộc Tokyo).
Trong Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Nghi (孔雀尊經科儀) có câu: “Chiên Đàn Lâm nội lục thù giá trọng ư Ta Bà, Cấp Cô Viên trung nhất chú thông tân ư Linh Thứu, cổ chế bàn toàn thanh thoại khí, ngọc lô liêu nhiễu bích tường vân, ngã kim nhiệt xử hiến Như Lai, duy nguyện từ bi ai nạp thọ (旃檀林內六銖價重於娑婆、給孤園中一炷通津於靈鷲、古晢盤旋清瑞氣、玉爐繚遶碧祥雲、我今熱處獻如來、唯願慈悲哀納受, trong Chiên Đàn Lâm sáu cây giá nặng bằng Ta Bà, nơi Vườn Cấp Cô một nén hương xông tận Linh Thứu, sao xưa xoay chuyển trong lành khí, lò ngọc tỏa vờn mây xanh thiêng, con nay đốt lên cúng Như Lai, cúi mong từ bi thương lãnh thọ).” Hay trong Chứng Đạo Ca (證道歌) của Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺, 675-713) cũng có câu: “Chiên Đàn Lâm vô tạp thọ, uất mật sum trầm sư tử trú, cảnh tĩnh lâm nhàn độc tự du, tẩu thú phi cầm giai viễn khứ (旃檀林無雜樹、鬱密森沉師子住、境靜林間獨自遊、走獸飛禽皆遠去, Chiên Đàn Lâm chẳng cây tạp, rừng rậm thâm u sư tử sống, cảnh vắng non nhàn mặc ngao du, thú chạy chim bay đều xa lánh).”
(p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍): còn gọi là Kỳ Viên Tinh Xá (祇園精舍), tên gọi của tinh xá nằm ở Thành Xá Vệ (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛城), kinh đô của nước Kiều Tát La (s: Kauśala, p: Kosala, 憍薩羅) vào thời Ấn Độ cổ đại. Lúc bấy giờ, trưởng giả Tu Đạt (p: Sudatta, 須達, còn có tên là Cấp Cô Độc [給孤獨]) của Thành Xá Vệ mua khu rừng của Thái Tử Kỳ Đà (s, p: Jeta, 祇陀) để xây dựng tu viện cho giáo đoàn đức Phật. Tên gọi Kỳ Viên vốn phát xuất từ truyền thuyết này. Trưởng giả Tu Đạt là người thường bố thí vật phẩm ăn uống cho những người cô độc, nghèo nàn, cho nên nơi đây còn được gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên (祇樹給孤獨園). Đức Phật đã trãi qua hơn 20 năm vào cuối đời ngài ở tại đây, và khoảng 7, 8 phần kinh điển hiện tại đều được ngài thuyết giảng tại nơi này. Tuy nhiên, ngay sau khi đức Phật diệt độ thì tinh xá này bị suy tàn. Về sau, khi Pháp Hiển (法顯, 340?-?) và Huyền Trang (玄奘, 602-664) sang du hành ở Ấn Độ, tinh xá này đã hoàn toàn hoang phế. Hiện tại nó chỉ còn là di tích rất rộng lớn ở phía Nam vùng Saheṭh-Maheth thuộc tiểu bang Uttar Pradesh. Trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn Kinh (佛說文殊師利般涅槃經, Taishō No. 463) do Cư Sĩ Nhiếp Đạo Chơn (聶道眞) nhà Tây Tấn dịch có đoạn: “Nhĩ thời, Thế Tôn tùng Tam Muội khởi, tức tiện vi tiếu, hữu ngũ sắc quang tùng Phật khẩu xuất, thử quang xuất thời, Kỳ Hoàn Tinh Xá biến thành Lưu Ly (爾時、世尊從三昧起、卽便微笑、有五色光從佛口出、此光出時、祇洹精舍變成琉璃, lúc bấy giờ đức thế tôn từ trong Tam Muội đứng dậy, bèn mĩm cười, có ánh sáng năm sắc từ trong miệng Phật phóng ra, khi ánh sáng này phóng ra, Kỳ Hoàn Tinh Xá biến thành ngọc Lưu Ly).” Hay như trong Trung Thiên Trúc Xá Vệ Quốc Kỳ Hoàn Tự Đồ Kinh (中天竺舍衛國祇洹寺圖經, Taishō No. 1899), phần Trung Thiên Trúc Xá Vệ Quốc Kỳ Hoàn Tự Đồ Kinh Tự (中天竺舍衛國祇洹寺圖經序) lại có đoạn đề cập đến Kỳ Viên Tinh Xá như sau: “Vãng giả Thích Tôn tại Đao Lợi Thiên, thử tượng tại điện vi chư Tỳ Kheo giáo giới thuyết pháp, nãi chí chư vương chi bất kiến Phật tư mộ Thích Ca, thử tượng vi vương tam độ thuyết pháp; Kỳ Viên sơ lập giới đàn, thành thời thử tượng lãnh tiền đồ chúng, chí giới đàn sở nhiễu tam tráp dĩ, bộ bộ giai sanh kim sắc Thiên Diệp Liên Hoa; mỗi thọ giới thời hoa tự nhiên khai, trung hữu thiên đồng tấu ư thiên nhạc (徃者釋尊在忉利天、此像在殿爲諸比丘敎戒說法、乃至諸王之不見佛思慕釋迦、此像爲王三度說法、祇園初立戒壇、成時此像領前徒眾、至戒壇所遶三匝已、步步皆生金色千葉蓮花、每受戒時花自然開、中有天童奏於天樂, xưa kia khi đức Thích Tôn tại Trời Đao Lợi, tượng này tại chánh điện vì các Tỳ Kheo mà dạy bảo, thuyết pháp, cho đến các vua không thấy được Phật, nhớ nghĩ đến Thích Ca, tượng này cũng vì vua thuyết pháp ba lần; lúc ban đầu, Kỳ Viên Tinh Xá mới lập giới đàn, khi hình thành, tượng này dẫn các đồ chúng trước đây, đến giới đàn đi nhiễu quanh ba vòng xong, từng bước đều sanh hoa sen ngàn cánh có màu vàng kim; mỗi khi thọ giới, hoa ấy tự nhiên nở ra, bên trong có thiên đồng tấu khúc nhạc trời).”
(日英, Nichiei, 1346-1423): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, húy là Nhật Anh (日英), hiệu Diệu Thân Viện (妙親院). Ông theo tu học với Nhật Trinh (日貞) ở Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama), Hạ Tổng (下總, Shimōsa); rồi sau khi thầy ông qua đời, ông theo hầu hạ Nhật Tôn (日尊), vị Tổ đời thứ 4 của chùa này. Đến năm 1390, ông được mời đến làm Tổ khai sơn Diệu Tuyên Tự (妙宣寺) vốn do anh ông là Thực Cốc Trùng Kế (埴谷重繼) tạo dựng nên. Trong khi tiến hành lễ khánh thành chùa này, xảy ra vấn đề tranh luận về pháp phục với Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji); nên sinh ra việc kiện tụng lên người quản lãnh vùng Quan Đông (關東, Kantō), và kết quả tại pháp đình thì Cửu Viễn Tự thắng kiện. Từ đó về sau, ông lấy mối quan hệ huyết thống với dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba), tín đồ trung thành của Pháp Hoa Kinh Tự, làm cơ sở để mở ra những trung tâm hoằng pháp ở vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa) cũng như Hạ Tổng (下總, Shimōsa), và phát triển Môn Phái Trung Sơn. Môn hạ của ông có Nhật Thân (日親), Nhật Quốc (日國), v.v. Trước tác của ông có Mạt Tự Giảng Diễn Chức Đẳng Sự (末寺講演職等事) 1 quyển, Nhượng Trạng (讓狀).
(日高, Nikkō, 1257-1314): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Liêm Thương, húy là Nhật Cao (日高), thông xưng là Y Hạ Công (伊賀公), Soái A Xà Lê (帥阿闍梨); tự là Tối Bạch (最白); xuất thân vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]); con của Đại Điền Thừa Minh (大田乘明). Ông đã từng theo tu học với Nhật Liên ở Thân Diên Sơn (身延山). rồi sau khi Nhật Liên qua đời, ông là người thường xuyên canh giữ ngôi tháp của thầy. Năm 1299, ông được bổ nhiệm làm trú trì đời thứ 2 của Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺). Tiếp theo, ông khai sáng Bổn Diệu Tự (本妙寺) trên tư dinh của Đại Điền Thừa Minh, và bắt đầu chế ra quy định một người chủ quyền cả hai chùa Bổn Diệu và Pháp Hoa. Hơn nữa, nhờ sự ủng hộ đắc lực của dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba), ông đã xác lập được thể chế giáo đoàn và cơ sở kinh tế vững chắc. Về sau, ông nhường chức trú trì lại cho Nhật Hựu (日祐), con nuôi của Thiên Diệp Dận Trinh (千葉胤貞). Trước tác của ông để lại có Nhật Cao Trí Văn (日高置文) 1 quyển, Nhật Cao Thân Trạng (日高申狀), Nhật Cao Nhượng Trạng (日高讓狀), v.v.
(日祐, Nichiyū, 1298-1374): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Hựu (日祐); hiệu Tịnh Hành Viện (淨行院), thông xưng là Đại Phụ Công (大輔公); xuất thân vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa), thuộc dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba). Ông là con nuôi của Thiên Diệp Dận Trinh (千葉胤貞), đến nhập môn xuất gia với Nhật Cao (日高) của Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) ở Trung Sơn (中山), Hạ Tổng. Vào năm 1314, sau khi Nhật Cao qua đời, ông làm trú trì đời thứ 3 của chùa này. Ông xây dựng cơ sở làm cho giáo đoàn phát triển nhờ sự hỗ trợ về mặt kinh tế của dòng họ Thiên Diệp, và mở rộng những hoạt động tôn giáo như chú thích cũng như sao chép Kinh Pháp Hoa, kiến lập các ngôi đường vũ, tham bái Thân Diên Sơn, v.v. Thêm vào đó, ông còn có công lao rất lớn trong việc thâu tập và bảo tồn những di văn của Nhật Liên. Trước tác của ông có Bổn Tôn Thánh Giáo Lục (本尊聖敎錄), Nhất Kỳ Sở Tu Thiện Căn Lý Lục (一期所修善根記錄), Vấn Đáp Can Yếu Sao (問答肝要抄), An Quốc Luận Kiến Văn (安國論見聞), Tông Thể Quyết Nghi Sao (宗体決疑抄).
(富木常忍, 1216-1299): tức Phú Mộc Nhật Thường (富木日常, Tōki Nichijō), người ngoại hộ đắc lực cho Nhật Liên, vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa và cuối thời Liêm Thương, húy là Thường Nhẫn (常忍), Nhật Thường (日常); hiệu là Thường Tu Viện (常修院). Vốn là quan có thế lực của dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba) ở vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa), trong khoảng thời gian niên hiệu Kiến Trường (建長, 1249-1256), ông quy y theo Nhật Liên ở vùng Liêm Thương; từ đó về sau, ông trở thành tín đồ dắc lực cho Nhật Liên trong việc ủng hộ Tông môn và truyền bá giáo nghĩa. Sau khi Nhật Liên qua đời, ông xuất gia và biến nhà ông thành chùa, lấy tên là Pháp Hoa Tự (法華寺, tức Pháp Hoa Kinh Tự [法華經寺, Hokkekyō-ji] ở Trung Sơn [中山, Nakayama]), rồi lập nên cơ sở cho Môn Phái Trung Sơn. hơn nữa, ông có công rất lớn trong việc bảo tồn các di thư của Nhật Liên. Trước tác của ông có Thường Tu Viện Bổn Tôn Thánh Giáo Sự (常修院本尊聖敎事).
(聖聰, Shōsō, 1366-1440): vị Tăng của Tịnh Độ Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, Tổ khai sơn Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji); húy là Thánh Thông (聖聰), tục danh là Thiên Diệp Dận Minh (千葉胤明); hiệu Đại Liên Xã (大蓮社), Tây Dự (西譽); xuất thân vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), con của Thiên Diệp Thị Dận (千葉氏胤, Chiba Ujitane). Ban đầu, ông học Mật Giáo ở Minh Kiến Tự (明見寺, tức Thiên Diệp Tự [千葉寺]) thuộc vùng Hạ Tổng, nhưng đến năm 1385 thì được Thánh Quynh (聖冏) cảm hóa, rồi quy y theo Tịnh Độ Tông; từ đó trở đi trải qua trong vòng 9 năm, ông theo học Tông Nghĩa với Thánh Quynh ở Thường Phước Tự (常福寺). Vào năm 1393, ông khai sáng Tăng Thượng Tự ở vùng Bối Trũng (貝塚, Kaizuka), Võ Tàng (武藏, Musashi); được dòng họ Thiên Diệp cũng như tầng lớp hào tộc quy y theo rất đông, và nỗ lực bố giáo ở địa phương này. Chính ông đã phổ cập tư tưởng Ngũ Trùng Truyền Pháp của Thánh Quynh, và hết mình giáo dưỡng chúng đệ tử. Trước tác của ông có Tam Kinh Trực Đàm Yếu Chú Ký (三經直談要註記) 48 quyển, Đương Ma Mạn Đà La Sớ (當麻曼荼羅疏) 48 quyển, Triệt Tuyển Trạch Bản Mạt Khẩu Truyền Sao (徹選擇本末口傳鈔) 2 quyển, Vãng Sanh Luận Chú Ký Kiến Văn (徃生論註記見聞) 2 quyển, v.v.
(淨土宗, Jōdo-shū): tông phái tin vào bản nguyện của đức Phật A Di Đà (s: Amitābha, 阿彌陀佛), và tuyên thuyết rằng nhờ xưng danh hiệu của đức Phật ấy mà tất cả chúng sanh đều được vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tịnh Độ (極樂淨土). Vị tông tổ là Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (法然房源空, Hōnenbō Genkū). Tổng Bản Sơn (ngôi chùa tổ) của tông phái này là Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in), hiện tọa lạc tại Higashiyama-ku (東山區), Kyōto-shi (京都市). Vào tháng 3 năm đầu (1175) niên hiệu An Nguyên (安元), khi đang tu hành trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), Nguyên Không nhân đọc được bản Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (觀無量壽經疏) của Thiện Đạo (善導), có được niềm tin sâu xa, nên ông quay về với pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật. Sau đó, ông hạ sơn, chuyển đến Tây Sơn Quảng Cốc (西山廣谷), nhưng không bao lâu sau lại dời về vùng Cát Thủy (吉水, Yoshimuzu), Lạc Đông (洛東, Rakutō) và chuyên tâm bố giáo tại đây. Đến năm thứ 9 (1198) niên hiệu Kiến Cửu (建久), ông soạn bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) để thể hiện lập trường cứu độ kẻ phàm phu, lấy 3 bộ Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經), A Di Đà Kinh (阿彌陀經) cũng như Vãng Sanh Luận (徃生論) của Thế Thân (s: Vasubandhu, 世親) làm kinh luận y cứ cho tông phái, và chọn việc an tâm, khởi hành, tác nghiệp làm phương pháp tu hành. Tư tưởng của ông đã tạo ảnh hưởng to lớn đối với xã hội đương thời. Đặc biệt, nó đã kích động các tông phái của Phật Giáo cũ, làm gia tăng số lượng người ủng hộ pháp môn Niệm Phật và tạo ác cảm không ít. Sự đàn áp từ sự kiện của Trú Liên (住蓮) cũng như An Lạc Phòng Tuân Tây (安樂房遵西) ngày càng trở nên mãnh liệt, dẫn đến đình chỉ Niệm Phật; vì vậy vào năm đầu (1207) niên hiệu Thừa Nguyên (承元), từ Nguyên Không trở xuống cho đến nhóm đệ tử Thân Loan (親鸞, Shinran) đều bị lưu đày (gọi là Pháp Nạn Thừa Nguyên); nhưng từ đó số lượng người ủng hộ như hàng võ sĩ, nông dân lại tăng lên cao hơn. Vào năm thứ 2 (1212) niên hiệu Kiến Lịch (建曆), khi Nguyên Không qua đời, vị môn hạ trưởng lão Pháp Liên Phòng Tín Không (法蓮房信空) lên kế thừa, muốn thống lãnh giáo đoàn, nên về mặt đối ngoại ông đã tạo sự luận tranh đối kháng với vị tổ của Trường Lạc Tự (長樂寺, Chōraku-ji) là Long Khoan (隆寬). Chính vì vậy, giáo đoàn gặp Pháp Nạn Gia Lộc (嘉祿法難), miếu thờ của Nguyên Không bị phá hoại, Long Khoan thì bị lưu đày đến địa phương Lục Áo (陸奥, Mutsu); nhưng kết quả việc này đã tạo sự khích lệ vô cùng to lớn cho sự phát triển Tịnh Độ Giáo ở vùng Quan Đông (關東, Kantō). Dòng phái của Long Khoan vốn chủ trương Đa Niệm Nghĩa (多念義) thì được nhóm Trí Khánh (智慶) thọ dung; riêng Hạnh Tây (幸西), người chủ trương Nhất Niệm Nghĩa (一念義), thì bị lưu đày đến Nhất Khi (壱岐), nhưng lại được nhóm Minh Tín (明信) ủng hộ. Dòng phái của Trường Tây (長西), người chủ trương Chư Hạnh Bổn Nguyện Nghĩa (諸行本願義) cũng hưng thạnh một thời, nhưng dần dần suy tàn. Mặt khác, vị tổ của môn đồ vùng Tử Dã (紫野, Murasakino) là Nguyên Trí (源智) lại khuyến khích triển khai hoạt động báo ân cho Nguyên Không, tạc bức tượng Phật A Di Đà (hiện an trí tại Ngọc Quế Tự [玉桂寺] thuộc Shiga-ken) để kết duyên với mọi người, nỗ lực phục hưng Tri Ân Viện và có được số lượng tín đồ khá đông. Bên cạnh đó, Chứng Không (証空), vị tổ của Tây Sơn Nghĩa (西山義), thì hoạt động dựa trên bối cảnh thế lực của Từ Viên (慈圓), làm cho Tịnh Độ Giáo thẩm thấu vào trong tầng lớp võ sĩ và quý tộc. Như vậy, sau khi Nguyên Không qua đời, giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật đã phân hóa thành từng nhóm khác nhau và trở thành thời đại không thống nhất về mặt chính trị cũng như tổ chức giáo đoàn. Lương Trung (良忠), đệ tử của Biện Trường (辨長)—vị tổ của Trấn Tây Nghĩa (鎭西義) vốn hoạt động ở vùng Cửu Châu (九州, Kyūshū), đã đi qua vùng kinh đô Kyōto, Tín Nùng (信濃, Shinano), xuống Quan Đông (關東, Kantō), được cả dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba) quy y theo và giáo hóa khắp các nơi; nhưng trở thành bất hòa từ vấn đề kinh tế tại đây nên ông tiến về vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), được Đại Phật Triêu Trực (大佛朝直) quy y theo, sáng lập Ngộ Chơn Tự (悟眞寺) và xác lập cơ sở ở địa phương này. Ngay như tu sĩ của các tông phái khác cũng tín nhiệm ông, nên ông rất nổi tiếng; nhưng vì cao tuổi và để sửa đổi lại những điều không thống nhất trong giáo nghĩa Tịnh Độ Tông, ông xuống Kyōto và cùng hòa hợp với Tín Huệ (信慧), đệ tử của Nguyên Trí (源智). Từ đó, ông thống nhất với môn đồ vùng Tử Dã, tạo thành cứ địa cho Dòng Trấn Tây Chánh Thống. Sau khi Lương Trung qua đời, Lương Hiểu (良曉) của Bạch Kỳ Phái (白旗派), Tánh Tâm (性心, tức Tánh Chơn [性眞]) của Đằng Điền Phái (藤田派), Tôn Quán (尊觀) của Danh Việt Phái (名越派, cả ba được gọi là Ba Phái Quan Đông), Nhiên Không (然空) của Nhất Điều Phái (一條派), Đạo Quang (道光) của Tam Điều Phái (三條派), Từ Tâm (慈心) của Mộc Phan Phái (木幡派, cả ba được gọi là Ba Phái Kinh Đô) phân hóa rõ rệt, mỗi người tự nỗ lực mở rộng giáo tuyến cho giáo phái mình. Khi chủ trương này càng lúc càng mạnh mẽ, ba đời của Tịnh Độ Tông gồm Nguyên Không, Biện Trường, Lương Trung càng được xác định rõ và Dòng Trấn Tây trở thành dòng phái chính của Tịnh Độ Tông. Riêng cuộc luận tranh giữa Danh Việt Phái và Bạch Kỳ Phái vẫn tiếp diễn cho đến thời đại Minh Trị (明治, Meiji). Danh Việt Phái lấy Fukushima-ken (福島縣) làm cứ địa để mở rộng giáo tuyến ở vùng đông bắc, còn Bạch Kỳ Phái thì mở rộng bố giáo ở trung tâm vùng Quan Đông. Đặc biệt, đến thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi), có vị học tăng Tây Liên Xã Liễu Dự Thánh Quynh (西蓮社了譽聖冋) xuất hiện, đưa ra thuyết Ngũ Trùng Tương Truyền (五重相傳) để hệ thống hóa lại toàn bộ huyết mạch cũng như giáo nghĩa và tạo quyền uy đối với các tông phái khác. Sau đó, đệ tử ông là Đại Liên Xã Tây Dự Thánh Thông (大蓮社西譽聖聰) đã sáng lập Tăng Thượng Tự (増上寺) để nuôi dưỡng nhân tài. Hành Liên Xã Đại Dự Khánh Trúc (行蓮社大譽慶竺), đệ tử của Thánh Thông, tiến về kinh đô Kyōto và trú tại Tri Ân Tự (知恩寺, Chion-ji). Nhóm đệ tử của Thông Liên Xã Thán Dự Lương Triệu (聰蓮社嘆譽良肇), người khai sáng Hoằng Kinh Tự (弘經寺) ở Phạn Chiểu (飯沼), tiến về địa phương Tam Hà (三河, Mikawa), sáng lập Đại Ân Tự (大恩寺, Daion-ji), Đại Thọ Tự (大樹寺, Daijū-ji), Tín Quang Minh Tự (信光明寺, Shinkōmyō-ji), lấy những nơi này làm bàn đạp tiến về kinh đô Kyōto; cuối cùng Bạch Kỳ Phái làm chủ thế lực chiếm cứ toàn bộ vùng này. Sau đó, Tri Ân Viện và Tri Ân Viện tranh giành ngôi vị chủ tôn. Tịnh Hoa Viện (淨華院), căn cứ địa của Dòng Nhất Điều, được sự hộ trì của dòng họ Vạn Lý Tiểu Lộ (萬里小路) và trở nên hưng thịnh, nhưng lại bị quý tộc hóa. Trong lúc đó, Lương Như (良如)—đệ tử của Kính Pháp (敬法)—cũng tận lực giáo hóa hàng thứ dân ở địa phương Việt Tiền (越前, Echizen), còn Long Nghiêu (隆堯)—đệ tử của Định Huyền (定玄)—thì giáo hóa tại vùng Cận Giang (近江, Ōmi) và mở rộng giáo tuyến của họ. Như vậy, Tịnh Độ Tông đã được tổ chức hóa về mặt giáo nghĩa, tại các địa phương đều hình thành cơ sở hoạt động, nhưng không thống nhất. Nhân vật tổng hợp thống nhất toàn bộ những thế lực phân tán như vậy là Trinh Liên Xã Nguyên Dự Tồn Ứng (貞蓮社源譽存應), người từng lấy quyền lực của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) làm thế lực. Tồn Ứng chế ra Chế Độ Đàn Lâm (檀林制度), dựa trên Pháp Độ Nguyên Hòa (元和法度, các pháp độ của Tịnh Độ Tông) để xác lập Chế Độ Bản Mạt (本末制度, chế độ chùa tổ chùa con) và lập ra giáo đoàn mang tính hữu cơ. Tuy nhiên, dần dần nảy sinh hiện tượng sa đọa, phóng túng và thế tục hóa trong giáo đoàn. Đến thời Trung Kỳ của thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), lại xuất hiện những vị tăng xa lìa thế tục như Đàn Thệ (彈誓), Tồn Dịch (存易), cuộc vận động hành trì giới luật của nhóm Linh Đàm (靈潭) cũng bộc phát và đã đem lại tính cách cách tân cho giáo đoàn. Về mặt giáo học, có nhóm Lương Định (良定), Văn Hùng (文雄) xuất hiện, tạo sự chú tâm của mọi người, nhưng cuối cùng cũng không có ảnh hưởng nào. Khi chính phủ Duy Tân (維新) ra đời, giáo đoàn đã gặp phải làn sóng Phế Phật Hủy Thích. Chế Độ Tri Ân Viện Môn Tích (知恩院門跡制度) bị phế chỉ và phải chịu biết bao thử thách đồng dạng với các tông phái khác. Tuy nhiên, nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của nhóm Phước Điền Hành Giới (福田行誡), giáo đoàn đã vượt qua thời kỳ hỗn loạn. Đến hậu bán thời đại Minh Trị (明治, Meiji), Tịnh Độ Tông đã xác lập thể chế với tư cách là giáo đoàn cận đại. Về mặt học vấn, có những học giả lãnh đạo giới Phật Giáo Học như Vọng Nguyệt Tín Hanh (望月信亨), Độ Biên Hải Húc (渡邊海旭) xuất hiện, đã tạo nên thời đại hoàng kim của Tịnh Độ Tông từ niên hiệu Đại Chánh (大正, Taishō, 1912-1926) đến Chiêu Hòa (昭和, Shōwa, 1926-1989). Ngoài ra, cuộc vận động tín ngưỡng bắt đầu dấy khởi như Cọng Sanh Hội (共生會) của Chuy Vĩ Biện Khuông (椎尾辨匡), Quang Minh Hội (光明會) của Sơn Khi Biện Vinh (山崎辨榮), v.v., tập trung sự quan tâm của đa số quần chúng. Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, phát sanh vấn đề độc lập phân phái trong Tịnh Độ Tông và cuối cùng vào năm thứ 36 (1961) niên hiệu Chiêu Hòa thì tông phái này đã thống nhất thành một thể. Hiện tại theo bản Tôn Giáo Niên Giám (宗敎年鑑, năm 1997) của Bộ Văn Hóa Nhật Bản, còn lại các phái như sau: Tịnh Độ Tông (淨土宗) có 7080 ngôi chùa, Tịnh Độ Tông Trấn Tây Thâm Thảo Phái (淨土宗鎭西深草派) có 283 ngôi chùa, Tịnh Độ Tông Tây Sơn Thiền Lâm Tự Phái (淨土宗西山禪林寺派) có 372 ngôi chùa, và Tây Sơn Tịnh Độ Tông (西山淨土宗) có 603 ngôi chùa. Một số ngôi tự viện trung tâm, nổi tiếng của tông phái này có Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in, Kyōto-shi); Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji, Kyōto-to); Kim Giới Quang Minh Tự (金戒光明寺, Konkaikōmyō-ji, Kyōto-shi); Bách Vạn Biến Tri Ân Tự (百萬遍知恩寺, Hyakumanbenchion-ji, Kyōto-shi); Thanh Tịnh Hoa Viện (清淨華院, Shōjōkein, Kyōto-shi); Thiện Đạo Tự (善導寺, Zendō-ji, Fukuoka-ken); Quang Minh Tự (光明寺, Kōmyō-ji, Kanagawa-ken); Thiện Quang Tự (善光寺, Zenkō-ji, Nagano-ken); Thiền Lâm Tự (禪林寺, Zenrin-ji, Kyōto-shi); Thệ Nguyện Tự (誓願寺, Seigan-ji, Kyōto-shi), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập