Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Nỗ lực mang đến hạnh phúc cho người khác sẽ nâng cao chính bản thân ta. (An effort made for the happiness of others lifts above ourselves.)Lydia M. Child
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiên Cung Tự »»
(興善惟寛, Kōzen Ikan, 755-817): xuất thân vùng Tín An (信安), Cù Châu (衢州, Tỉnh Triết Giang), họ Chúc (祝). Năm 13 tuổi, ông xuất gia rồi thọ giới Cụ Túc với Tăng Sùng (僧崇). Bên cạnh đó, ông theo học Luật và tu Chỉ Quán với Tăng Như (僧如), nhưng cuối cùng lại ngộ đạo với Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一). Vào năm thứ 6 (790) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông đến hành hóa vùng Mân Việt (閩越, Tỉnh Phúc Kiến), sau đó mở Đằng Nguyên Đạo Tràng (藤原道塲) ở Cối Kê (會稽, Tỉnh Triết Giang) và Hồi Hướng Đạo Tràng (回向道塲) ở Bà Dương (鄱陽, Tỉnh Giang Tây). Ông đã từng sống qua các chùa như Thiếu Lâm Tự (少林寺), Vệ Quốc Tự (衛國寺), Thiên Cung Tự (天宮寺), rồi đến năm thứ 4 (809) niên hiệu Nguyên Hòa (元和), ông nhận sắc chỉ trú trì Đại An Quốc Tự (大安國寺) ở Trường An (長安) và năm sau vào cung nội. Ông cũng từng lưu trú tại Hưng Thiện Tự (興善寺) ở Trường An. Môn đệ của ông có hơn ngàn người, trong đó có thi hào nổi danh Bạch Cư Dị (白居易) và đệ tử đắc pháp có 39 vị. Vào tháng chạp năm thứ 12 (817) niên hiệu Nguyên Hòa, ông thị tịch, hưởng thọ 63 tuổi đời và 39 hạ lạp, được ban cho thụy hiệu là Đại Triệt Thiền Sư (大徹禪師). Bạch Cư Dị soạn văn bia cho ông.
(左溪玄朗, Sakei Genrō, 673-754): vị tăng sống dưới thời nhà Đường, tổ thứ 8 của Thiên Thai Tông Trung Quốc, người vùng Ô Thương (烏傷), Vụ Châu (婺州, Nghĩa Ô, Triết Giang), có thuyết cho là Đông Dương (東陽, cũng thuộc Triết Giang), họ Phó (傅), cháu đời thứ 6 của Phó Đại Sĩ (傅大士), tự là Huệ Minh (慧明), hiệu Tả Khê (左溪). Năm 9 tuổi, ông xuất gia, đến năm đầu (692, tức năm thứ 9 niên hiệu Tự Thánh đời vua Trung Tông) niên hiệu Như Ý (如意) đời Võ Hậu, ông được sắc phong trú trì Thanh Thái Tự (清泰寺) ở Đông Dương. Nhân đến thọ Cụ Túc giới với Ngạn Luật Sư (岸律師) ở Quang Châu (光州), ông theo vị này học về luật nghi cũng như kinh luận, đọc hết các điển tịch, nghiên cứu sâu Kinh Niết Bàn và cũng đã từng đến tham học Thiền yếu với Thiền Sư Ấn Tông (印宗) ở Diệu Hỷ Tự (妙喜寺). Sau ông đến Thiên Cung Tự (天宮寺) ở Đông Dương, theo học Pháp Hoa Kinh, v.v., với Huệ Uy (慧威) và nương theo Thiền Sư Cung (恭禪師) tu tập Chỉ Quán. Ông rất thâm hiểu các sách Nho học, lại rành Đạo Giáo, nhưng rốt cuộc ông nhận thức rằng chỉ có pháp Chỉ Quán là yếu quyết để vào đạo thôi. Từ đó về sau, ông thích chốn núi rừng, tránh xa cõi người, nên vào ẩn cư trong núi Tả Khê thuộc Huyện Bồ Dương (浦陽), Vụ Châu (婺州), thường hành hạnh đầu đà, ăn mặc thô sơ trong vòng hơn 30 năm. Đến năm thứ 16 (728) niên hiệu Khai Nguyên (開元), thể theo lời thỉnh cầu của vị Sắc Sứ Vụ Châu Vương Chánh Dung (王正容), ông tạm thời ra sống ngoài thành, rồi lại cáo bệnh mà trở về núi. Hằng ngày ông chuyên tâm dạy dỗ đồ chúng không hề mệt mỏi, cho nên giáo học Thiên Thai nhờ đó trở nên hưng thịnh. Môn hạ của ông có Trạm Nhiên (湛然)―vị tổ thời trung hưng của Thiên Thai Tông, Pháp Dung (法融)―vị tăng người Tân La (新羅), Lý Ứng (李應), Thuần Anh (純英), v.v. Vào năm thứ 13 niên hiệu Thiên Bảo (天寳), ông thị tịch, hưởng thọ 82 tuổi. Ngô Việt Vương ban cho thụy hiệu là Minh Giác Tôn Giả (明覺尊者), người đời thường gọi ông là Tả Khê Tôn Giả (左溪尊者). Trước tác của ông có Pháp Hoa Khoa Văn (法華科文) 2 quyển.
(神秀, Jinshū, 605-706): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, xuất thân Huyện Úy Dân (尉民縣), Biện Châu (汴州, phía Nam Khai Phong, Hà Nam), họ Lý (李), thân cao 8 thước, mắt rộng mày dài, có đức tướng uy nghiêm. Theo bia văn của Trương Thuyết (張說), lúc nhỏ ông đã đọc các kinh sử (Nho học), học rộng nghe nhiều. Vào năm thứ 8 (625) niên hiệu Võ Đức (武德), ông xuất gia tại Thiên Cung Tự (天宮寺), Lạc Dương (洛陽). Sau đó, ông đi tìm thầy học đạo, đến Song Phong Tự (雙峰寺) ở Huyện Hoàng Mai (黃梅縣), Kì Châu (蘄州) tham yết Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (弘忍), thề nguyện chịu đựng tất cả khổ nhọc chỉ một lòng cầu đạo mà thôi. Lúc đó ông đã 50 tuổi. Nhờ đức nhẫn thụyc ấy, trong chúng ai cũng kính phục và trở thành Thượng Tọa trong chúng môn hạ hơn 700 người của Ngũ Tổ; cho nên ông có tên gọi là Thượng Tọa Thần Tú. Ông cũng có quan hệ thân thiện với Đại Giám Huệ Năng (大鑒慧能). Bài kệ nổi tiếng của ông là “thân thị bồ đề thọ, tâm như minh kính đài, thời thời cần phất thức, mạc sử nhạ trần ai (身是菩提樹、心如明鏡臺、時時勤拂拭、莫使惹塵埃, thân là cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, hằng ngày siêng lau quét, chớ để nhuốm bụi trần)”. Vào tháng 10 năm thứ 2 (675) niên hiệu Thượng Nguyên (上元) đời vua Cao Tông nhà Đường, khi Hoằng Nhẫn viên tịch, ông chuyển đến Đương Dương Sơn (當陽山) ở Giang Lăng (江陵) giáo hóa, chúng đạo tục quy tụ về rất đông, từ đó đạo phong và tiếng tăm của ông càng vang xa. Trong thời gian niên hiệu Cửu Thị (久視, 700), Tắc Thiên Võ Hậu (則天武后) nghe tiếng của ông, cho triệu vào cung nội và cho xây dựng ở Đương Dương Sơn ngôi Độ Môn Tự (度門寺). Đến khi vua Trung Tông lên ngôi, vua lại càng trọng hậu ông và vị quan Trung Thư Lệnh Trương Thuyết (張說) cũng lấy lễ bái ông làm thầy. Vua Duệ Tông (睿宗) thì rất kính mộ ông, cho nên ông được gọi là Tam Đế Quốc Sư (三帝國師), được suy cử làm Pháp Chủ của Trường An và Lạc Dương trong vòng 6 năm. Chính ông đã từng tâu lên Võ Hậu cho triệu thỉnh Huệ Năng, nhưng Huệ Năng cố từ, trả lời rằng ông đã có duyên với Lãnh Nam (嶺南) rồi, nên không đến Đại Dữu Lãnh (大庾嶺) nữa, từ đó trong Thiền môn có câu “Nam Năng Bắc Tú (南能北秀, phía Nam có Huệ Năng, phía Bắc có Thần Tú)”. Ông thị tịch vào tháng 2 năm thứ 2 niên hiệu Thần Long (神龍) tại Thiên Cung Tự ở Lạc Dương (洛陽), hưởng thọ 101 tuổi. Ông được ban cho thụy hiệu là Đại Thông Thiền Sư (大通禪師), là người được nhận thụy hiệu Thiền sư sớm nhất. Thiền phong của ông chủ yếu là tiệm ngộ, thuyết về ly niệm và xem trọng Ngũ Phương Tiện (五方便), trái ngược với chủ trương đốn ngộ của Huệ Năng bên Nam Tông Thiền. Trong khi Nam Tông Thiền được phổ cập ở Hoa Nam (華南) và Giang Tây (江西), Bắc Tông Thiền của Thần Tú thì hưng thạnh ở Hoa Bắc (華北), hai kinh đô Trường An (長安) và Lạc Dương (洛陽) cũng như địa phương Giang Nam (江南). Môn nhân Đạo Tuyền (道璿) của ông là người đến Nhật Bản sớm nhất, cho nên những Thiền tăng thời kỳ đầu của Nhật Bản đều thuộc hệ thống này. Pháp từ của ông có Tung Sơn Huệ Tịch (嵩山慧寂), Kinh Triệu Nghĩa Phước (京兆義福), v.v. Trước tác của ông có Quán Tâm Luận (觀心論) 1 quyển, Đại Thừa Vô Sanh Phương Tiện Môn (大乘無生方便門) 1 quyển, Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏) 30 quyển, Diệu Lý Viên Thành Quán (妙理圓成觀) 3 quyển. Kì Vương Phạm (岐王範), Yến Quốc Công Trương Thuyết (燕國公張說) và Trưng Sĩ Lô Hồng (徴士盧鴻) mỗi người soạn một bài bia minh.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.119 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập