Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thí Hộ »»

(s: Prajñāpāramitā-hṛdaya, t: çes-rah sñiṅ-po bshugs-so, c: Pan-jo-po-lo-mi-to-hsin-ching, j: Hannyaharamittashinkyō, 般若波羅蜜多心經): nói cho đủ là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (摩訶般若波羅蜜多心經), còn gọi là Bát Nhã Đa Tâm Kinh (般若多心經), Bát Nhã Tâm Kinh (般若心經), Tâm Kinh (心經), 1 quyển, hiện còn, Taishō 8, 848, No. 251, Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch vào năm 649 hay 648 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 23 hay 22) nhà Đường. Có 6 dịch bản khác của kinh này:
(1) Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh (摩訶般若波羅蜜大明呪經), do Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch.
(2) Bát Nhã Ba La Mật Đa Na Đề Kinh (般若波羅蜜多那提經), do Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支, 562-727) dịch.
(3) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), do Bát Nhã (s: Prajñā, 般若, 734-?), Lợi Ngôn (利言, khoảng thế kỷ thứ 8) dịch.
(4) Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (普遍智藏般若波羅蜜多心經), do Pháp Nguyệt (s: Dharmacandra, 法月, 653-743) dịch.
(5) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), do Trí Huệ Luân (智慧輪) dịch.
(6) Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (聖佛母般若波羅蜜多心經), do Thí Hộ (s: Dānapāla, 施護, khoảng thế kỷ thứ 10) dịch.
Nếu so sánh các bản trên, bản dịch của Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập được lưu truyền rộng rãi nhất. Phạn bản của kinh này hiện còn ở Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji) của Nhật Bản; năm 1884 F. Max Müller và Bunyū Nanjō (文雄南條) đã cùng hiệu đính, xuất bản; đến năm 1894 nó được dịch sang Anh ngữ. Ngoài ra, vào năm 1864, học giả người Anh là Beal Samuel cũng đã dịch sang Anh ngữ bản dịch của Huyền Trang. Nếu so bản tiếng Sanskrit và bản Hán dịch của Huyền Trang, chúng có nội dung tương đồng. Còn bản được phát hiện ở thạch động Đôn Hoàng là tư liệu rất quý trọng đối với giới học thuật. Về phần chú sớ của kinh này cũng có rất nhiều bản, trong đó quan trọng nhất là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh U Tán (般若波羅蜜多心經幽贊) của Khuy Cơ (窺基, 632-682), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Tán (般若波羅蜜多心經贊) của Viên Trắc (圓測, 613-696), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Lược Sớ (般若波羅蜜多心經略疏) của Pháp Tạng (法藏, 643-712), và Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Sớ (般若波羅蜜多心經疏) của Huệ Tịnh (慧淨, 578-?), v.v.
(讀禮): có hai nghĩa chính:
(1) Học tập lễ tiết. Như trong Tuân Tử (荀子), phần Khuyến Học (勸學) có câu: “Thỉ hồ tụng kinh, chung hồ độc lễ (始乎誦經、終乎讀禮, trước hết là tụng kinh, sau cùng học lễ tiết).” Hay trong Hạc Lâm Ngọc Lộ (鶴林玉露) quyển 5 của La Đại Kinh (羅大經, 1196-1242) nhà Tống có đoạn: “Nhi học hiệu chi sở giảng, phùng dịch chi sở đàm, kỉ hữu nhược đồ nhi chi lễ Phật, xướng gia chi độc lễ giả, thị khả thán dã (而學校之所講、逢掖之所談、幾有若屠兒之禮佛、娼家之讀禮者、是可嘆也, vậy trường học được giảng, Nho học được luận bàn, có mấy kẻ đồ tể đến lễ Phật, bao nhà điếm học lễ nghi, thật đáng buồn thay).”
(2) Người xưa trong thời gian cư tang tại nhà, thường đọc những thư tịch lễ nghi liên quan đến việc Tang Tế, vì vậy cư tang còn được gọi là độc lễ. Như trong Lễ Ký (禮記), phần Khúc Lễ (曲禮) có giải thích rằng: “Cư tang vị táng, độc tang lễ; ký táng, độc tế lễ (居喪未葬、讀喪禮、既葬、讀祭禮, thời gian cư tang chưa an táng thì đọc sách Tang Lễ, đã an táng rồi thì đọc sách Tế Lễ).” Sau này có vài tác phẩm liên quan đến độc lễ như Độc Lễ Nhật Tri (讀禮日知), 2 quyển, do Kim Chiết (金淛, ?-?) nhà Minh soạn; hay Độc Lễ Thông Khảo (讀禮通考), 120 quyển, của Từ Càn Học (徐乾學, 1631-1694) nhà Thanh, v.v. Trong Tam Giáo Bình Tâm Luận (三敎平心論, Taishō Vol. 52, No. 2117) quyển Thượng có câu: “Tăng can triều hiến, Ni phạm tục hình, thí tụng Luật nhi xuyên du, như độc lễ nhi kiêu cứ (僧干朝憲、尼犯俗刑、譬誦律而穿窬、如讀禮而憍倨, Tăng làm sai hiến pháp triều đình, Ni thì vi phạm hình phạt thế tục, giống như tụng Luật mà đào tường (trộm cắp), đọc lễ nghi mà kiêu ngạo).”
(開光): có nhiều loại Khai Quang khác nhau. Căn cứ vào tôn giáo mà có Khai Quang của Phật Giáo, Khai Quang của Đạo Giáo, Khai Quang của Âm Dương Sư (陰陽師), v.v.; như ở các đền thờ Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君) thường tiến hành nghi thức Quan Công Khai Quang (關公開光). Khai Quang của Phật Giáo lại chia thành Quần Khai Quang (群開光, Khai Quang cho nhiều hình tượng) và Đơn Độc Khai Quang (單獨開光, Khai Quang chỉ cho một tượng). Mỗi khi có tự viện nào lạc thành hay trùng tu, sau khi điêu khắc tượng Phật Bồ Tát xong, thường cung thỉnh chư tôn Thiền đức đến để tiến hành lễ Khai Quang Điểm Nhãn (開光點眼) cho các pho tượng đó. Đối với các tôn giáo, Khai Quang được xem như là một loại nghi thức vô cùng linh thiêng, quan trọng, tiếp dẫn linh tánh cũng như tiên khí vào trong tôn tượng. Nguồn gốc của nghi thức này phát xuất từ Đạo Giáo; lấy cái vô hình trong vũ trụ, có đủ linh tánh với pháp lực vô biên đem nhập vào trong thần tượng; cho nên sau khi đem thờ phụng thì tôn tượng ấy trở thành linh hiển. Nguyên lai, Phật Giáo không có nghi thức này, mà chỉ có nghi thức gia trì tượng Phật, so với nghi Khai Quang có khác nhiều. Nếu xét về phương pháp Khai Quang thần tượng theo Đạo Giáo, mọi việc đều thông qua vị Cao Công Pháp Sư (高功法師), chọn ngày giờ tốt để tiến hành nghi Khai Quang Điểm Nhãn. Nghi thức ấy gồm 12 loại khoa nghi: Thanh Tịnh (清淨), Thỉnh Thần (請神), Phát Chỉ (發旨), Phát Lịnh (發令), Thất Tinh (七星), Bát Quái (八卦), Nhập Thần (入神), Sắc Bút (敕筆), Sắc Kính (敕鏡), Sắc Kê (敕雞), Khai Quang (開光), Phát Hào (發毫). Khai Quang còn gọi là Khai Nhãn (開眼), Khai Minh (開明), Khai Quang Minh (開光明), Khai Nhãn Cúng Dường (開眼供養), Khai Nhãn Giới (開眼界), Khai Nhãn Căn (開眼根). Thiền Lâm Tượng Khí (禪林象器) quyển Thượng có ghi rằng: “Phàm tân tạo Phật Tổ Thần Thiên tượng giả, chư tông sư gia, lập địa sổ ngữ, tác bút điểm thế, trực điểm khai tha Kim Cang chánh nhãn, thử vi Khai Nhãn Phật sự, hựu danh Khai Thủy Minh (凡新造佛祖神天像者、諸宗師家、立地數語、作筆點勢、直點開他金剛正眼、此爲開眼佛事、又名開水明, phàm các tượng Phật, Tổ, Thần, chư Thiên mới tạo nên, các nhà Tông sư, đứng trên mặt đất nói vài lời, cầm cây bút theo tư thế điểm, điểm thẳng khai mở chánh nhãn Kim Cang của tượng; đây là Phật sự Khai Nhãn, còn gọi là Khai Thủy Minh).” Phật Giáo cho rằng chúng sanh từ vô thỉ kiếp cho đến nay, đã chịu biết bao nhiêu ô nhiễm của trần cấu, vô minh, nên không thể nào thấy rõ chân lý của các pháp, vì vậy cần phải khai mở trí tuệ bên trong mỗi chúng ta. Khai Quang cũng là một hình thức để tu chứng đạt đến tương ứng với Phật tâm, cầu thỉnh chư Phật Bồ Tát giáng lâm, ấn chứng cho Ứng Thân của tôn tượng, rót vào đó năng lượng đại từ đại bi, đại trí đại tuệ, Ngũ Nhãn Lục Thông, thông qua người tiến hành lễ Khai Quang. Do đó, hiệu quả của việc Khai Quang hoàn toàn liên quan đến vị Đạo Sư hành lễ, chứ không phải do nghi thức hay hình thức gì cả. Về tiến trình lễ Khai Quang, trước khi hành lễ, phải an trí tôn tượng một nơi cố định, trước tụng kinh và thần chú để cung thỉnh chư Phật, Bồ Tát an tọa; sau đó mới thỉnh chư vị cao tăng vì tôn tượng mà tiến hành Khai Quang, thuyết pháp. Hắc Cốc Đăng Ngữ Lục (黑谷燈語錄) quyển Trung có giải thích rằng: “Khai Nhãn giả, bổn thị Phật tượng điêu khai nhãn, thị sự Khai Nhãn, thứ tăng gia tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, nhi thành tựu Phật nhất thiết công đức, thử vị Khai Nhãn dã (開眼者、本是佛匠雕開眼、是事開眼、次僧家誦佛眼真言、誦大日真言、而成就佛一切功德、此謂開眼也, Khai Nhãn vốn là khai mở con mắt của tượng điêu khắc, việc đó là Khai Nhãn; kế đến chư tăng tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, để thành tựu hết thảy công đức, đây được gọi là Khai Nhãn vậy).” Thật ra, Khai Quang là một loại nghi thức thuyết pháp cử hành cho tượng Phật. Nghi thức cụ thể như sau: Trước hết vị chủ lễ cầm một cái khăn lông hướng về tượng Phật làm động tác lau chùi tôn tượng, rồi nói một câu kệ, tán tụng công đức của chư Phật Bồ Tát, như vậy được gọi là Khai Nhãn. Tiếp theo, vị ấy dùng cái kính hướng đối chiếu ngay chánh diện của tượng Phật, nói vài lời về ngôi tự viện hiện tại, nhân duyên hoàn thành tôn tượng. Sau đó, vị chủ lễ cầm cây bút Chu Sa (硃砂), lại nói một câu kệ ngữ khác, rồi cầm cây bút hướng về tôn tượng làm động tác “điểm”, hô vang một tiếng “khai (開, mở ra)”; khi nghi thức ấy đã xong, như vậy việc Khai Quang được xem như là hoàn tất. Khi Khai Quang, do vì công đức của chư Phật Bồ Tát không giống nhau, nên vị chủ lễ nói pháp ngữ cũng không thống nhất. Tại Trung Quốc, Pháp Hội Khai Quang được tiến hành đầu tiên vào năm thứ 5 (980) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國) nhà Bắc Tống. Truyền Pháp Đại Sư Thí Hộ (傳法大師施護), người nước Ô Điền Nẵng (烏塡曩) ở Bắc Ấn Độ, đã dịch bản Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh (佛說一切如來安像三昧儀軌經, Taishō Vol. 21, No. 1418) tại Dịch Kinh Viện (譯經院) của Thái Bình Hưng Quốc Tự (太平興國寺) thuộc Phủ Khai Phong. Dịch bản này ghi rõ toàn bộ quy trình tiến hành nghi thức Khai Quang Điểm Nhãn một cách chi tiết. Tại Nhật Bản, trong Điều Thiên Trí Thiên Hoàng Thập Niên Thập Nguyệt (天智天皇十年十月條, tháng 10 năm thứ 10 [671] đời Thiên Trí Thiên Hoàng [天智天皇, Tenji Tennō, tại vị 661-671]) của bộ Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi lại Lễ Khai Nhãn cho trăm tượng Phật trong cung nội; rồi trong Điều Trì Thống Thiên Hoàng Thập Nhất Niên Thất Nguyệt (持統天皇十一年七月條, tháng 7 năm thứ 11 [697] đời Trì Thống Thiên Hoàng [持統天皇, Jitō Tennō, tại vị 690-697]) có ký lục cho biết rằng tại Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) ở vùng Phi Điểu (飛鳥, Asuka) có tiến hành Hội Khai Nhãn. Vào ngày mồng 8 tháng 4 năm thứ 4 (752) niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寶), lễ Hội Khai Nhãn Tượng Đại Phật (大佛開眼會) được diễn ra tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), thành phố Nại Lương (奈良, Nara). Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758), Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749), Hoàng Thái Hậu và phi tần nội cung, cùng toàn thể quần thần bá quan văn võ đồng đến tham dự với khoảng hơn 1 vạn tăng sĩ hành lễ. Đặc biệt, lễ hội này do Bồ Đề Tiên Na (s: Bodhisena, 菩提僊那) chủ lễ, và điều khiển nhạc lễ thì do Phật Triết (佛哲, Buttetsu, ?-?, hay Phật Triệt [佛徹]), vị tăng sang Nhật Bản dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara), xuất thân vùng Lâm Ấp (林邑, Nam bộ Việt Nam, Huế-Phan Rang). Trong khoảng thời gian niên hiệu Khai Nguyên (開元, 713-741) nhà Đường, ông theo Bồ Đề Tiên Na sang Trung Quốc. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平), thể theo lời thỉnh cầu của vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường là Lý Kính (理鏡) và vị Chánh Sứ Đa Trị Tỉ Quảng Thành (多治比廣成), ông cùng với thầy sang Nhật, đến trú tại Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Bồ Đề Tiên Na dạy Phật pháp, còn Phật Triệt chuyên tâm truyền dạy Nhã Nhạc Lâm Ấp cho nội cung triều đình Nhật, cùng là dạy các điệu múa Bồ Tát, Bạt Đầu, v.v., để cúng dường trong các lễ hội Phật Giáo. Trong lễ Hội Khai Nhãn năm 752 này, Phật Triệt điều khiển dàn nhạc gồm hơn 400 nhạc công và vũ công của Nhã Nhạc Viện (雅樂院) trong nội cung, diễn tấu Nhạc Lâm Ấp để cúng dường Tượng Đại Phật Tỳ Lô Giá Na (s: Vairocana, 毘盧遮那); lễ Hội kéo dài trong 3 tháng. Trong Chuẩn Đề Phần Tu Tất Địa Sám Hối Huyền Văn (准提焚修悉地懺悔玄文, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1482) có ghi lại sự huyền nhiệm của lễ Khai Nhãn như sau: “Hựu như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, vi cư sĩ thời, tằng vi dư y Bất Không dịch, tả Chuẩn Đề tượng ư Dược Sơn viên trung; Khai Quang chi nhật, hốt hữu cốt đổng gia, dĩ Chuẩn Đề Chơn Ngôn Phạn thư cựu hồng nha trục, Phạn thư cổ từ lư, đồng hương hạp, lai trợ trang diễn cúng dường giả, tinh cảm chiêu trung bất tư nghì sự (又如丁元公淨伊禪師、爲居士時、曾爲余依不空譯、寫准提像於藥山園中、開光之日、忽有骨董家、以准提眞言梵書舊紅牙軸、梵書古瓷罏、銅香盒、來助裝演供養者、幷感召中不思議事, lại như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, khi còn làm cư sĩ, từng theo bản dịch của Bất Không, vẽ tượng Chuẩn Đề trong vườn Dược Sơn; ngày lễ Khai Quang, chợt có một người chơi đồ cổ, lấy cuộn sách cũ kỹ ghi Chuẩn Đề Chơn Ngôn bằng tiếng Phạn, bình sứ có ghi tiếng Phạn, hộp đốt hương bằng đồng, đến giúp trang trí cúng dường, bèn cảm biết trong ấy việc không nghĩ bàn).” Trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1252) quyển 1, có lòng văn Sớ về Tạo Tượng Khai Quang (造像開光) như: “Tướng hảo trang nghiêm, dĩ tận quỳ khuynh chi khẩn; trai tu túc liệt, viên thân bộc hiến chi cung; ngung nhược hữu phu, nghiễm nhiên như tại. Thiết niệm: [Mỗ] thọ hạ liệt thân phạp đại nhân tướng, đổ Tử Ma chi sắc, hạt thắng kỳ thừa; vọng bạch hào chi quang, đồ thiết bi ngưỡng; thị dĩ kính vu [mỗ] tự thí tạo [mỗ] tượng nhất tôn, tạo công ký tất nhưng diên tăng kiến Khai Quang thực phước đạo tràng, [nhập Phật sự] phủ tu vi thiện, ngưỡng đáp hồng hưu. Phục nguyện: Ngộ chơn không tướng, hoạch pháp tánh thân; bị nhị nghiêm chi tư, biến du giác uyển; tiêu Ngũ Trược chi uế, hằng xử Tịnh Bang (相好莊嚴、已盡葵傾之懇、齋饈肅列、爰申曝獻之恭、顒若有孚、儼然如在、竊念[某]受下劣身乏大人相、睹紫磨之色、曷勝祇承、望白毫之光、徒切悲仰、是以敬于[某]寺施造[某]像一尊、造功既畢仍延僧建開光植福道塲、[入佛事]俯修微善、仰答洪休、伏願悟眞空相、獲法性身。備二嚴之資、遍遊覺苑、消五濁之穢、恆處淨邦, tướng tốt trang nghiêm, bày tận tấc lòng khẩn thiết; cỗ chay thiết đủ, chí thành dâng hiến cúng dường; vĩ đại đức tin, nghiễm nhiên hiện hữu. Thiết nghĩ: [Con…] thọ thân hạ liệt thiếu tướng đại nhân [bậc giác ngộ], thấy vàng ròng sắc tướng, sao khỏi ước mong; ngắm mày trắng hào quang, không sao buồn tủi; do vậy kính ngưỡng chùa …, tạo dựng tượng một pho, công trình hoàn tất, lại thỉnh chư tăng lập đạo tràng Khai Nhãn gieo phước; [phần Phật sự], cúi tu chút thiện, ngưỡng đáp hồng ân. Cúi mong: Ngộ chơn không tướng, đạt pháp tánh thân; đủ phước trí dáng hình, chơi khắp vườn giác; tiêu Năm Trược ô uế, thường trú Tịnh Bang).” Trong Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh có nêu một số câu Thần Chú dùng cho lễ Khai Quang như Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường (眞言獻閼伽供養, cúng dường nước) là “Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ (唵薩哩嚩播波娑普吒那賀曩嚩日囉野薩嚩賀)”; Hương Du Chơn Ngôn (香油眞言, Chơn Ngôn cúng dường hương dầu) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa ca dã vĩ thú đà nhĩ ta phạ hạ (唵薩哩嚩怛他誐多迦野尾戍馱你娑嚩賀)”; Phật Nhãn Bồ Tát Chơn Ngôn Năng Trừ Nhất Thiết Cấu (佛眼菩薩眞言能除一切垢, Chơn Ngôn của Phật Nhãn Bồ Tát có thể trừ tất cả những dơ bẩn) là “Án, tát rị phạ ra tổ ba hạ ra noa ta phạ hạ (唵薩哩嚩囉祖波賀囉拏娑嚩賀)”; Quán Đảnh Chơn Ngôn (灌頂眞言) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa tỷ sân ca tam ma dã thất rị duệ hồng (唵薩哩嚩怛他誐哆鼻詵迦三摩野室哩曳吽)”; Trước Y Chơn Ngôn (著衣眞言, Chơn Ngôn mặc áo) là “Án, phạ nhật ra phạ ta tế ta phạ hạ (唵嚩日囉嚩娑細娑嚩賀)”; An Nhĩ Chơn Ngôn (安耳眞言, Chơn Ngôn an vị lỗ tai) là “Án, ca ra noa ma lộ đà ra noa hồng (唵迦囉拏摩路馱囉拏吽)”; An Phát Kế Chơn Ngôn (安髮髻眞言, Chơn Ngôn an vị tóc và búi tóc) là “Án, tát rị phạ chỉ ta a phạ đa ra noa hồng ta phạ hạ (唵薩哩嚩枳娑阿嚩哆囉拏吽娑嚩賀)”; An Chỉ Giáp Chơn Ngôn (安指甲眞言, Chơn Ngôn an vị ngón tay) là “Án, tát rị phạ thâu nẵng khư thế na nẵng ra nhã ta phạ hạ (唵薩哩嚩輸曩佉砌那曩囉惹娑嚩賀)”; An Tì Tu Chơn Ngôn (安髭鬚眞言, Chơn Ngôn an vị râu ria) là “Án, tát rị phạ ta ma tô rô đà ra noa hồng hồng hứ lăng (唵薩哩嚩娑摩酥嚕馱囉拏吽吽呬凌)”; Hiến Đồ Hương Chơn Ngôn (獻塗香眞言, Chơn Ngôn dâng cúng dầu hương) là “Án, phạ nhật ra hiến đệ ta phạ hạ (唵嚩日囉巘弟娑嚩賀)”; An Trang Nghiêm Chơn Ngôn (安莊嚴眞言) là “Án, phạ nhật ra bà ra noa vĩ bộ sắt ni ta phạ hạ (唵嚩日囉婆囉拏尾部瑟尼娑嚩賀)”; Bổn Tôn Tam Muội Chơn Ngôn (本尊三昧眞言) là “Án, hồng đát lạc ngật rị ác (唵吽怛落仡哩惡)”; Hiến Hoa Chơn Ngôn (獻花眞言) là “Án, phạ nhật ra bổ sắt bế hồng (唵嚩日囉補瑟閉吽)”; Hiến Hương Chơn Ngôn (獻香眞言) là “Án, phạ nhật ra độ bế (唵嚩日囉度閉)”; Đăng Chơn Ngôn (燈眞言) là “Án, phạ nhật ra nễ bế ta phạ hạ (唵嚩日囉禰閉娑嚩賀)”; Thực Chơn Ngôn (食眞言) là “Án, tân nỗ ba đán bát ra để ngật rị hận nẵng ta phạ hạ (唵賓努波旦缽囉底仡哩恨曩娑嚩賀)”; Khai Nhãn Quang Chơn Ngôn (開眼光眞言) là “Án, tác sô tác sô tam mãn đa tác sô vĩ thú đà nễ ta phạ hạ (唵作芻作芻三滿哆作芻尾戍馱你娑嚩賀)” và “Án, nễ đát ra ba tra lộ ba hạ ra noa hứ lăng (唵你怛囉波吒路波賀囉拏呬凌)”; Hộ Ma Chơn Ngôn (護摩眞言) là “Án, phạ nhật ra dụ thế ta phạ hạ (唵嚩日囉喻世娑嚩賀)”; Tức Tai Tăng Ích Chơn Ngôn (息災增益眞言) là “Án, phạ nhật ra bố sắt tra duệ ta phạ hạ (唵嚩日囉布瑟吒曳娑嚩賀)”; Hộ Thế Chơn Ngôn (護世眞言) là “Ấn, nại ra dã ta phạ hạ (印捺囉野娑嚩賀)”, v.v.
(明珠): viên ngọc sáng, còn gọi là Minh Nguyệt Châu (明月珠), Minh Nguyệt Ma Ni (明月摩尼); là viên ngọc báu sáng như mặt trăng, nên có tên gọi như vậy. Viên ngọc này có đức tánh của nước đục lắng trong. Như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 9, Phẩm Như Lai Tánh (如來性品) thứ 4, có đoạn: “Thí như minh châu trí trọc thủy trung, dĩ châu uy đức, thủy tức vi thanh (譬如明珠置濁水中、以珠威德、水卽爲清, ví như viên ngọc sáng đặt trong nước đục, nhờ oai đức của viên ngọc, nước liền trở thành trong).” Hay trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 16, bài Thị Hồ Băng Lăng Huyện Duẫn (示胡冰稜縣尹), lại có câu: “Ngạch thượng minh châu quang xán lạn, dạ vô ác mộng nhật vô kinh (額上明珠光燦爛、夜無惡夢日無驚, trên trán minh châu chiếu sáng rực, đêm không ác mộng ngày an tâm).” Hoặc trong Quốc Thanh Bách Lục (國清百錄, Taishō Vol. 46, No. 1934) quyển 4, phần Sắc Tạo Quốc Thanh Tự Bi Văn (敕造國清寺碑文) thứ 93, Thiên Thai Quốc Thanh Tự Trí Giả Thiền Sư Bi Văn (天台國清寺智者禪師碑文), cũng có câu: “Hộ giới như minh châu, an tâm như chỉ thủy (護戒如明珠、安心若止水, giữ giới như châu sáng, an tâm giống nước dừng).”
(青林師虔, Seirin Shiken, ?-904): họ Trần (陳), xuất thân Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), đã từng đắc pháp với Động Sơn Lương Giới (洞山良价). Ông trú tại Thanh Lâm (青林), Hán Đông (漢東), sau đó làm vị tổ đời thứ 3 của Động Sơn (洞山, Tỉnh Giang Tây). Vào năm đầu niên hiệu Thiên Hựu (天祐), ông thị tịch. Trước tác của ông có Huyền Cơ Thị Hối Tập (玄機示誨集).
(禪和): còn gọi là Thiền hòa tử (禪和子), Thiền hòa giả (禪和者); tức chỉ cho người tham Thiền. Như trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 20, phần Tổ Sư Cơ Duyên (祖師機緣), có đoạn: “Tằng đáo khiết trà khứ, vị đáo khiết trà khứ, Triệu Châu lão Thiền hòa, khẩu điềm tâm lí khổ (曾到喫茶去、未到喫茶去、趙州老禪和、口甜心裏苦, từng đến [bảo] uống trà đi, chưa đến [cũng bảo] uống trà đi, Triệu Châu lão Thiền sư, miệng ngọt trong tâm đắng).” Hay trong Thiền Tông Tạp Độc Hải (禪宗雜毒海, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1278) quyển 8, bài Kết Hạ (結夏), lại có đoạn: “Nhất bách Thiền hòa tam thập châu, vô thằng tự phược vạn sơn đầu, thùy thị hộ thân thùy thị sát, bạch vân ảnh lí thiết thuyền phù (一百禪和三十州、無繩自縛萬山頭、誰是護身誰是殺、白雲影裏鐵船浮, một trăm Thiền tăng ba mươi châu, không thừng tự buộc vạn non đầu, ai kẻ hộ thân ai là giết, trắng mây trong bóng thuyền sắt trôi).”
(s: khakkhara, khakharaka, 錫杖): âm dịch là Khích Khí La (隙棄羅), Khế Khí La (喫棄羅), Ngật Cát La (吃吉羅), Ngật Khí La (吃棄羅); còn gọi là Thanh Trượng (聲杖), Thiền Trượng (禪杖), Minh Trượng (鳴杖), Trí Trượng (智杖), Đức Trượng (德杖), Kim Tích (金錫); gọi tắt là Trượng (杖); là một trong 18 vật thường dùng của vị Tỳ Kheo, là vật dụng thường mang đi trên đường. Nguyên lai, Tích Trượng được dùng để xua đuổi rắn độc, côn trùng, v.v. Hoặc khi đi khất thực, vị Tỳ Kheo chấn rung cây Tích Trượng, làm cho ở xa cũng nghe biết; và đời sau nó trở thành một trong những pháp khí. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi (大比丘三千威儀, Taishō Vol. 24, No. 1470), có giải thích rõ nguyên do cầm Tích Trượng như thế nào: “Nhất giả vi địa trùng cố, nhị giả vi niên lão cố, tam giả vi phần vệ cố (一者爲地虫故、二者爲年老故、三者爲分衛故, thứ nhất vì côn trùng dưới đất, thứ hai vì tuổi già, thứ ba vì để bảo vệ).” Tích Trượng được sử dụng không những chỉ để xua đuổi côn trùng độc hại, mà còn để báo cho biết khi đi khất thực, hay làm vật chống đỡ cho người lớn tuổi, già yếu. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi còn nêu rất rõ 25 điều cần phải biết đối vị Tỳ Kheo cầm Tích Trượng như “xuất nhập kiến Phật tượng, bất đắc sử đầu hữu thanh (出入見佛像、不得使頭有聲, khi ra vào thấy tượng Phật thì không được làm cho đầu trượng phát ra tiếng vang)”, “bất đắc trì trượng nhập chúng (不得持杖入眾, không được mang trượng vào trong chúng)”, “tam sư dĩ trì trượng xuất, bất đắc phục trì trượng tùy xuất (三師已持杖出、不得復持杖隨出, khi ba thầy đã mang trượng đi ra rồi, không được lại cầm trượng đi theo ra)”, v.v. Cho nên, việc sử dụng Tích Trượng được chế định rất nghiêm cẩn, chứ không được lạm dụng. Trên đầu Tích Trượng có những vòng tròn lớn nhỏ bằng thiếc, khi lắc phát ra tiếng kêu leng keng, nên có tên gọi là Thanh Trượng (聲杖, gậy phát ra âm thanh). Nó được dùng đi khắp các nơi, nên được gọi là Phi Tích (飛錫), Tuần Tích (巡錫); nếu dừng một nơi mà trụ thì gọi là Lưu Tích (留錫). Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 8, có ghi lại câu chuyện của Thiền Sư Ẩn Phong (隱峰) ở Ngũ Đài Sơn (五臺山). Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 806-820) nhà Đường, trên đường lên Ngũ Đài Sơn, lúc đi ngang qua Hoài Tây (淮西), Thiền Sư gặp quan quân triều đình và giặc cướp đang giao tranh lẫn nhau, bất phân thắng bại; để hóa giải họa hoạn này, Thiền Sư bèn ném cây trượng lên không trung, phi thân bay qua. Khi ấy tướng sĩ của hai bên ngước lên nhìn mà khiếp hãi tưởng như trong giấc mơ, không còn tâm trí đánh nhau nữa. Câu chuyện này trở thành nổi tiếng trong Thiền lâm với thuật ngữ phi tích cao tăng (飛錫高僧, vị tăng đức độ cỡi trên Tích Trượng mà bay đi, hay vị tăng đi du hành đó đây). Trong Thiên Thai Tông và Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, khi có pháp hội, người ta thường dùng loại Tích Trượng ngắn, vừa chấn rung vừa tụng thần chú. Về nguồn gốc của Tích Trượng, Căn Bổn Nhất Thuyết Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 34 có giải thích rằng nhân sự việc vị Tỳ Kheo đến nhà người khất thực, gặp vài trở ngại như lên tiếng báo cho biết, hay gõ cửa, v.v., đều bị quở trách; nên Phật chế dùng Tích Trượng như “trượng đầu an hoàn, viên như trản khẩu, an tiểu hoàn tử, dao động tác thanh nhi vi cảnh giác (杖頭安鐶、圓如盞口、安小鐶子、搖動作聲而爲警覺, gắn vòng tròn trên đầu trượng, tròn như miệng chén, gắn vòng nhỏ, rung động tạo thành tiếng để báo cho biết).” Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 5, phần Tích Trượng cho biết rằng: “Phật cáo Tỳ Kheo, ưng thọ trì Tích Trượng, quá khứ vị lai hiện tại chư Phật giai chấp cố; hựu danh Trí Trượng, hựu danh Đức Trượng; chương hiển trí hành công đức bổn cố. Tích giả, khinh dã; y ỷ thị trượng trừ phiền não xuất Tam Giới cố. Tích minh dã, đắc trí minh cố. Tích tỉnh dã, tỉnh ngộ khổ không Tam Giới kết cứu cố. Nhị dịch lục hoàn thị Ca Diếp Phật chế, tứ dịch thập nhị hoàn thị Thích Ca Phật chế (佛告比丘、應受持錫杖、過去未來現在諸佛皆執故、又名智杖、又名德杖、彰顯智行功德本故、錫者、輕也、依倚是杖除煩惱出三界故、錫明也、得智明故、錫醒也、醒悟苦空三界結究故、二股六環是迦葉佛製、四股十二環是釋迦佛製, Phật dạy Tỳ Kheo nên thọ trì Tích Trượng, vì chư Phật trong quá khứ vị lai và hiện tại đều dùng đến; lại có tên là Trí Trượng, lại có tên là Đức Trượng; làm sáng tỏ gốc công đức của Trí và Hành. Tích nghĩa là nhẹ, vì nương tựa vào cây trượng này mà đoạn trừ phiền não, ra khỏi Ba Cõi. Tích nghĩa là sáng, vì đạt được trí tuệ sáng suốt. Tích nghĩa là tỉnh, vì tỉnh ngộ khổ không của Ba Cõi cứu cánh. Trượng có hai đầu sáu vòng là do Phật Ca Diếp chế ra; có bốn đầu 12 vòng là do Phật Thích Ca chế ra).” Trong Phật Thuyết Mục Liên Ngũ Bách Vấn Kinh Lược Giải (佛說目連五百問經略解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 750) quyển Hạ giải thích rằng: “Y bát nãi nhẫn nhục chi pháp khí, Tích Trượng biểu Như Lai chi Pháp Thân (衣缽乃忍辱之法器、錫杖表如來之法身, y bát là pháp khí của nhẫn nhục, Tích Trượng là Pháp Thân của Như Lai).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) cho biết rằng: “Quải tam sự Như Lai y, hướng nhân gian ứng cúng phước điền, thủ trì Tích Trượng hàng long hổ (掛三事如來衣、向人間應供作福田、手持錫杖降龍虎, mang áo Như Lai ba việc, hướng cuộc đời ruộng phước cúng dường, tay cầm Tích Trượng hàng rồng hổ).” Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) do Luật Sư Độc Thể (讀體, 1601-1679), vị cao tăng của Phái Thiên Hoa (千華派) thuộc Luật Tông Trung Quốc soạn, có bài kệ Xuất Tích Trượng (出錫杖, Lấy Tích Trượng) như sau: “Chấp trì Tích Trượng, đương nguyện chúng sanh, thiết đại Thí Hội, thị như thật đạo. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra (執持錫杖、當願眾生、設大施會、示如實道、唵、那㗚噆、那㗚噆、那栗吒缽底、那㗚帝、娜夜缽儜、吽癸吒, cầm giữ Tích Trượng, nguyện cho chúng sanh, thiết hội đại thí, chỉ đường như thật. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập