Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thí Hộ »»
(安慧, Ane, 794-868): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời Bình An, Thiên Thai Tọa Chủ đời thứ 4, xuất thân vùng Hà Nội (河內, Kawachi), con của dòng họ Đại Bạch (大狛). Ông theo xuất gia Quảng Trí (廣智, Kōchi) ở Tiểu Dã Tự (小野寺) vùng Hạ Dã (下野). Năm 13 tuổi, ông theo Tối Trừng (最澄, Saichō) học Mật Giáo và Thiên Thai Chỉ Quán; sau khi vị này qua đời thì theo hầu Viên Nhân (圓仁, Ennin). Vào năm 827, ông trúng tuyển kỳ thi Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經) và được thọ giới. Đến năm 835, ông làm giảng sư cho tiểu quốc Xuất Vũ (出羽, Dewa) và sau đó được bổ nhiệm là một trong 10 Thiền sư của Định Tâm Viện (定心院). Năm 864, ông kế thừa chức Thiên Thai Tọa Chủ. Trước tác của ông có Hiển Pháp Hoa Nghĩa Sao (顯法華義鈔) 10 quyển, Tức Thân Thành Phật Nghĩa (卽身成佛義) 1 quyển.
(s: Prajñāpāramitā-hṛdaya, t: çes-rah sñiṅ-po bshugs-so, c: Pan-jo-po-lo-mi-to-hsin-ching, j: Hannyaharamittashinkyō, 般若波羅蜜多心經): nói cho đủ là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (摩訶般若波羅蜜多心經), còn gọi là Bát Nhã Đa Tâm Kinh (般若多心經), Bát Nhã Tâm Kinh (般若心經), Tâm Kinh (心經), 1 quyển, hiện còn, Taishō 8, 848, No. 251, Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch vào năm 649 hay 648 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 23 hay 22) nhà Đường. Có 6 dịch bản khác của kinh này:
(1) Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh (摩訶般若波羅蜜大明呪經), do Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch.
(2) Bát Nhã Ba La Mật Đa Na Đề Kinh (般若波羅蜜多那提經), do Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支, 562-727) dịch.
(3) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), do Bát Nhã (s: Prajñā, 般若, 734-?), Lợi Ngôn (利言, khoảng thế kỷ thứ 8) dịch.
(4) Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (普遍智藏般若波羅蜜多心經), do Pháp Nguyệt (s: Dharmacandra, 法月, 653-743) dịch.
(5) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), do Trí Huệ Luân (智慧輪) dịch.
(6) Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (聖佛母般若波羅蜜多心經), do Thí Hộ (s: Dānapāla, 施護, khoảng thế kỷ thứ 10) dịch.
Nếu so sánh các bản trên, bản dịch của Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập được lưu truyền rộng rãi nhất. Phạn bản của kinh này hiện còn ở Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji) của Nhật Bản; năm 1884 F. Max Müller và Bunyū Nanjō (文雄南條) đã cùng hiệu đính, xuất bản; đến năm 1894 nó được dịch sang Anh ngữ. Ngoài ra, vào năm 1864, học giả người Anh là Beal Samuel cũng đã dịch sang Anh ngữ bản dịch của Huyền Trang. Nếu so bản tiếng Sanskrit và bản Hán dịch của Huyền Trang, chúng có nội dung tương đồng. Còn bản được phát hiện ở thạch động Đôn Hoàng là tư liệu rất quý trọng đối với giới học thuật. Về phần chú sớ của kinh này cũng có rất nhiều bản, trong đó quan trọng nhất là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh U Tán (般若波羅蜜多心經幽贊) của Khuy Cơ (窺基, 632-682), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Tán (般若波羅蜜多心經贊) của Viên Trắc (圓測, 613-696), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Lược Sớ (般若波羅蜜多心經略疏) của Pháp Tạng (法藏, 643-712), và Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Sớ (般若波羅蜜多心經疏) của Huệ Tịnh (慧淨, 578-?), v.v.
(高峰原妙, Kōhō Genmyō, 1238-1295): vị tăng của phái Phá Am và Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Cao Phong (高峰), xuất thân Huyện Ngô Giang (呉江縣), Phủ Tô Châu (蘇州府), Tỉnh Giang Tô (江蘇省), họ Từ (徐), sanh ngày 23 tháng 3 năm thứ 2 niên hiệu Nguyên Hy (元熙) nhà Nam Tống. Năm 15 tuổi, ông xuống tóc xuất gia, đến năm 17 tuổi thì theo tu học với Pháp Trú (法住) ở Mật Ấn Tự (密印寺) vùng Gia Hòa (嘉禾). Ông còn học cả giáo học Thiên Thai, sau đến tham vấn Đoạn Kiều Diệu Luân (斷橋妙倫), rồi Tuyết Nham Tổ Khâm (雪巖祖欽) và đắc pháp với vị này. Vào năm thứ 2 (1266) niên hiệu Hàm Thuần (咸淳), ông ẩn cư tại vùng Long Tu (龍鬚), Lâm An (臨安) và 5 năm sau thì hoát nhiên triệt ngộ. Đến năm thứ 10 cũng niên hiệu trên, ông đến trú tại Song Kế Phong (雙髻峰), rồi đến năm thứ 16 (1279) niên hiệu Chí Nguyên (至元), ông đến Tây Phong (西峰) trên Thiên Mục Sơn (天目山) và bắt đầu hoằng pháp ở Sư Tử Nham (獅子巖). Ông sáng lập ra 2 ngôi chùa Sư Tử (獅子) và Đại Giác (大覺), đệ tử tham học có đến cả ngàn người và thọ giới hơn vạn người. Ông dùng gia phong gọi là Tam Quan Ngữ (三關語) để lại cho hậu thế bộ Cao Phong Đại Sư Ngữ Lục (高峰大師語錄) 2 quyển. Vào ngày mồng 1 tháng 12 năm đầu niên hiệu Nguyên Trinh (元貞), ông thị tịch, hưởng thọ 58 tuổi đời và 43 hạ lạp, được ban tặng cho thụy hiệu là Phổ Minh Quảng Tế Thiền Sư (普明廣濟禪師). Chi Tốn (之巽) soạn văn bia tháp, cư sĩ Trực Ông (直翁) và Hồng Kiêu Tổ (洪喬祖) viết hành trạng của ông.
(織田, Oda): tên gọi của một dòng họ, con của Bình Tư Thạnh là vị Tổ của họ này. Con cháu ông kế thừa nhau, sống ở vùng Chức Điền (織田), Quận Đơn Sanh (丹生郡), Việt Tiền (越前, Echizen). Đến đầu thời đại Thất Đinh thì họ này theo vị quan Thủ Hộ Tư Ba (斯波) đến vùng Vĩ Trương (尾張, Owari), và đến thời Tín Trưởng (信長) thì rất hưng thạnh.
(証誠寺, Shōjō-ji): ngôi chùa Tổ trung tâm của Phái Sơn Nguyên (山元派) thuộc Chơn Tông, hiện tọa lạc tại số 13-43 Yokogoshi-chō (横越町), Sabae-shi (鯖江市), Fukui-ken (福井縣); hiệu là Sơn Nguyên Sơn Hộ Niệm Viện (山元山護念院), thường được gọi là Hoành Việt Bản Sơn (横越本山), là một trong 4 ngôi chùa Tổ trung tâm ở vùng Việt Tiền (越前, Echizen). Phái Sơn Nguyên là một trong 10 phái lớn của Chơn Tông. Xưa kia, Thân Loan (親鸞, Shinran) kiến lập một ngôi chùa ở vùng Sơn Nguyên (山元), rồi sau đó Thiện Loan (善鸞, Zenran), Tịnh Như (淨如, Jōnyo) kế thế làm trú trì chùa, đến năm 1304 (Gia Nguyên [嘉元] 2) thì được sắc phong của Hậu Nhị Điều Thiên Hoàng (後二條天皇, Gonijō Tennō) với hiệu chùa như hiện tại. Vào năm 1475 (Văn Minh [文明] 7), dưới thời vị trú trì thứ 8 của chùa là Đạo Tánh (道性), chùa được dời về vị trí hiện tại. Dưới thời đại Giang Hộ, chùa phụ thuộc vào Thánh Hộ Viện (聖護院) của Thiên Thai Tông, nhưng đến thời Minh Trị (明治, Meiji) thì được hoàn trả cho Phái Bổn Nguyện Tự và sau đó thì hoàn toàn độc lập, tách riêng hẳn thành một tông phái. Tương truyền tượng thờ chính của chùa là A Di Đà Như Lai do Tăng Đô Huệ Tâm (惠心) sáng tác.
(s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 大方廣佛華嚴經): gọi tắt là Hoa Nghiêm Kinh (c: Hua-yen-ching, j: Kegonkyō, 華嚴經), Tạp Hoa Kinh (雜華經). Đây là một trong những bộ kinh quan trọng của Phật Giáo Đại Thừa. Hoa Nghiêm Tông (華嚴宗, Kegonshū) của Trung Hoa và Nhật Bản đều ý cứ vào bộ kinh này, lập ra diệu nghĩa gọi là pháp giới duyên khởi (法界緣起), sự sự vô ngại (事事無礙), v.v., để làm tông chỉ. Theo tựa đề mà luận, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh lấy pháp dụ cho nhân quả, nêu lên danh xưng gọi là “lý trí nhân pháp (理智人法, lý trí người và pháp)”; cho nên yếu chỉ của kinh đều ở trong đây. Từ đại (大) ở đây có nghĩa là bao hàm; phương (方) là quỹ phạm; quảng (廣) là cùng khắp; tức nói chung thể dụng của pháp giới nhất tâm, rộng lớn không cùng, nên mới gọi là đại phương quảng. Phật là đấng chứng nhập vào pháp giới vô tận to lớn không cùng; hoa (華) là thí dụ nhân hạnh thành tựu vạn đức tròn đầy; cho nên để khai diễn muôn hạnh nhân vị, lấy thâm nghĩa của hoa để trang sức cho quả vị Phật, nên có tên là Phật Hoa Nghiêm (佛華嚴). Vào ngày thứ 14 sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ Đề, kinh này được đức Như Lai thuyết cho các Bồ Tát thượng vị như Văn Thù (s: Mañjuśrī, 文殊), Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢), v.v., về pháp môn tự nội chứng. Giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm là bánh xe pháp căn bản trong các giáo pháp, vì vậy có tên là Xưng Tánh Bản Giáo (稱性本敎); hơn nữa, giáo pháp này thuộc về pháp môn Đốn Giáo (頓敎), nên được gọi là Sơ Đốn Hoa Nghiêm (初頓華嚴). Mặc dầu kinh này xuất phát từ Ấn Độ, nhưng vẫn chưa phát huy toàn bộ huyền chỉ tối cao của kinh; cho đến khi Trung Hoa thành lập Hoa Nghiêm Tông, áo nghĩa đó mới đạt đến tột đỉnh chân nghĩa. Về Phạn bản của kinh này, từ xưa đến nay vẫn có nhiều thuyết khác nhau. Theo bản Hoa Nghiêm Kinh Truyền Ký (華嚴經傳記, Taishō Vol. 51, No. 2073) quyển 1 của Sa Môn Pháp Tạng (法藏, 643-712) của Sùng Phước Tự (崇福寺) ở Kinh Triệu (京兆) cho biết rằng Bồ Tát Long Thọ (s: Nāgājruna, 龍樹) thấy kinh này dưới Long Cung, có 3 bản Thượng Trung Hạ. Trong bản Thượng và Trung, số phẩm tụng rất nhiều, với sức phàm tình thì không thể nào thọ trì được; nên ẩn tàng không truyền ra. Và bản được truyền đến nay là bản Hạ, có đến mười vạn (100.000) câu kệ và 48 phẩm (hay 38 phẩm). Về sau, Bồ Tát Thế Thân (s: Vasubandhu, 世親) viết ra Thập Địa Kinh Luận (十地經論, Taishō Vol. 26, No. 1522, 12 quyển) để giải thích Phẩm Thập Địa (十地品) của kinh này. Các luận sư khác như Kim Cang Quân (金剛軍), Kiên Huệ (堅慧), v.v., cũng có các luận chú về Phẩm Thập Địa. Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký (華嚴經探玄記, Taishō Vol. 35, No. 1733) quyển 1 lại chia kinh này thành 6 bản là Hằng Bản (恆本), Đại Bản (大本), Thượng Bản (上本), Trung Bản (中本), Hạ Bản (下本) và Lược Bản (略本). Ngoài ra, Hoa Nghiêm Kinh Chỉ Quy (華嚴經旨歸, Taishō Vol. 45, No. 1871), Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Sớ (大方廣佛華嚴經疏, Taishō Vol. 35, No. 1735) quyển 3 lại nêu ra 10 tên khác của kinh như Dị Thuyết Kinh (異說經), Đồng Thuyết Kinh (同說經), Phổ Nhãn Kinh (普眼經), Thượng Bản Kinh (上本經), Trung Bản Kinh (中本經), Hạ Bản Kinh (下本經), Lược Bản Kinh (略本經), Chủ Bạn Kinh (主伴經), Quyến Thuộc Kinh (眷屬經), Viên Mãn Kinh (圓滿經). Lại theo Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 100, Phạn bản của Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát Kinh (不可思議解脫經, tức Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh [四十華嚴經]) có tất cả mười vạn câu kệ. Tuy nhiên, Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (攝大乘論釋, Taishō Vol. 31, No. 1595) quyển 15, bản dịch của Thiên Trúc Tam Tạng Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nhà Lương, lại cho rằng Hoa Nghiêm Kinh có trăm ngàn kệ, nên có tên là Bách Thiên Kinh (百千經). Bản hiện tồn có ba loại: (1) Lục Thập Hoa Nghiêm (六十華嚴, Taishō Vol. 9, No. 278), 60 quyển, do Phật Đà Bạt Đà La (s: Buddhabhadra, 佛駄跋陀羅, 359-429) dịch từ năm 418-420 hay 421 (niên hiệu Nghĩa Hy [義熙] thứ 14 đến niên hiệu Nguyên Hy [元熙] thứ 2 hoặc Nguyên Sơ [元初] thứ 2) thời Đông Tấn; còn gọi là Cựu Hoa Nghiêm (舊華嚴), Cựu Dịch Hoa Nghiêm Kinh (舊譯華嚴經), Cựu Kinh (舊經), Tấn Kinh (晉經); tổng thành 7 nơi, 8 hội, 34 phẩm. Hoa Nghiêm Tông lấy 8 hội phân thành phần trước và phần sau; 7 hội của phần trước được thuyết trong thời gian 21 ngày sau khi đức Phật thành đạo; 1 hội của phần sau được thuyết vào thời kỳ sau. Trong khi đó, Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支, 562-727) lại cho rằng 5 hội trước được thuyết vào 7 ngày đầu sau khi đức Phật thành đạo; còn 2 hội sau được thuyết vào tuần thứ hai. Trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Sớ quyển 4, Trừng Quán (澄觀, 738-839) cho rằng trong 9 hội của Tân Hoa Nghiêm (新華嚴, tức Bát Thập Hoa Nghiêm, theo thuyết 7 chỗ, 9 hội), 5 hội đầu được thuyết vào tuần đầu tiên; hội thứ 6, 8 và 8 thuộc vào tuần thứ 2; và hội thứ 9 có Phẩm Nhập Pháp Giới (入法界品) thì thuộc về sau này. Về việc phiên dịch kinh này, theo Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集, Taishō Vol. 55, No. 2145) quyển 9, Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký quyển 1, v.v., Phạn bản của Hoa Nghiêm Kinh nguyên lai có mười vạn (100.000) câu kệ, do Chi Pháp Lãnh (支法領) nhà Đông Tấn mang từ nước Vu Điền (s: Ku-stana, 于闐) vào ba vạn sáu ngàn (360.000) câu kệ, từ tháng 3 năm 418 (Nghĩa Hy [義熙] thứ 14) đời vua An Đế (安帝, tại vị 397-419); rồi được Phật Đà Bạt Đà La dịch thành 60 quyển; nên có tên gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm. Đây là bản dịch thứ nhất. Tuy nhiên, trong dịch bản này, Phẩm Nhập Pháp Giới vẫn còn khuyết văn, và mãi cho đến năm 680 (Vĩnh Long [永隆] nguyên niên) đời vua Huyền Tông (玄宗, 712-756) nhà Đường mới được bổ dịch. Bản Chú Sớ của kinh này thì rất nhiều, như Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏, 7 quyển) của Huệ Viễn (慧遠, 334-416); Hoa Nghiêm Kinh Sưu Huyền Phân Tề Thông Trí Phương Quỹ (華嚴經搜玄分齊通智方軌, 5 quyển) của Trí Nghiễm (智儼, 620-668); Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký (華嚴經探玄記, 20 quyển) của Pháp Tạng (法藏, 643-712), v.v. (2) Bát Thập Hoa Nghiêm (八十華嚴, Taishō Vol. 10, No. 279), 80 quyển, do Thật Xoa Nan Đà (s: Śikṣānanda, 實叉難陀, 652-710) nhà Đường dịch; còn gọi là Tân Hoa Nghiêm (新華嚴), Đường Kinh (唐經); tổng thành 7 chỗ, 9 hội, 39 phẩm, là bản dị dịch của Lục Thập Hoa Nghiêm. Một vài điểm dị đồng giữa hai bản Lục Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập Hoa Nghiêm có thể nêu ra như sau: Phạn bản của Bát Thập Hoa Nghiêm được Thật Xoa Nan Đà mang từ nước Vu Điền vào Trung Quốc thể theo lời thỉnh cầu của Võ Tắc Thiên (武則天, tại vị 684-705); bắt đầu dịch từ tháng 3 năm 695 (Chứng Thánh [證聖] nguyên niên) tại Biến Không Tự (遍空寺), đến tháng 10 năm 699 (Thánh Lịch [聖曆] thứ 2) thì hoàn tất. Tương truyền trong khoảng thời gian này, đích thân Võ Hậu đến dịch trường, tự tay đề tên phẩm kinh. Đây được xem như là bản dịch thứ hai. So với bản Cựu Dịch Lục Thập Hoa Nghiêm, bản Tân Dịch này có văn từ lưu loát, nghĩa lý tròn đầy, cho nên được lưu thông thịnh hành. Kinh điển chính của Hoa Nghiêm Tông chính là bản Bát Thập Hoa Nghiêm này. Ngoài ra, dịch bản tiếng Tây Tạng có 45 phẩm; trong đó 44 phẩm đầu tương đương với 38 phẩm trước của kinh này, phẩm thứ 45 thì tương đương với Phẩm Nhập Pháp Giới thứ 39. Về các bản Chú Sớ của Bát Thập Hoa Nghiêm, có Lược Sớ San Định Ký (略疏刊定記, 15 quyển) của Huệ Uyển (慧苑, 673-?); Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏, 30 quyển) của Thần Tú (神秀, 605-706); Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏, 60 quyển) của Trừng Quán (澄觀, 738-839); Hoa Nghiêm Kinh Luân Quán (華嚴經綸貫, 1 quyển) của Phục Am (復菴); Hoa Nghiêm Kinh Cương Yếu (華嚴經綱要, 80 quyển) của Hám Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623), v.v. (3) Tứ Thập Hoa Nghiêm (四十華嚴), 40 quyển, do Bát Nhã (s: Prajñā, 般若, 734-?) nhà Đường dịch; gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm (大方廣佛華嚴經入不思議解脫境界普賢行願品, Taishō Vol. 10, No. 293); gọi tắt là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm (普賢行願品), còn có tên là Trinh Nguyên Kinh (貞元經). Bản này được truyền vào nước Ni Ba La (尼波羅, tức Ni Bạc Nhĩ [尼泊爾], Nepal), là cùng với bản Hoa Nghiêm Kinh trong 9 bộ kinh Đại Thừa. Nội dung bộ kinh thuật lại việc Thiện Tài Đồng Tử (s: Sudhana-śreṣṭhi-dāraka, 善財童子) từng đi tham vấn qua 55 (hoặc 53) vị thiện tri thức và thành tựu hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Đặc biệt, trong bản Tứ Thập Hoa Nghiêm này có nêu lên 10 hạnh nguyện của Phổ Hiền. Về vấn đề phiên dịch bản kinh này, vào tháng 11 năm 795 (Trinh Nguyên [貞元] thứ 11) đời vua Đức Tông (德宗, tại vị 779-805) nhà Đường, do Sư Tử Vương (師子王) của nước Ô Đồ (s: Oḍra, 烏荼), Thiên Trúc (天竺), phái sứ giả tiến cống Phạn bản Hoa Nghiêm Kinh vốn do tự tay nhà vua viết. Đến tháng 6 năm sau, bản này được Bát Nhã Tam Tạng (般若三藏) người Kế Tân (罽賓, tức Ca Tất Thí [s: Kāpiśa, 迦畢試]) dịch tại Sùng Phước Tự (崇福寺), Trường An (長安). Hai cao tăng Trừng Quán và Viên Chiếu (圓照) giám định dịch bản tại Giám Hư Tự (鑑虛等); và đến tháng 2 năm 798 (Trinh Quán thứ 14) thì hoàn tất công tác phiên dịch. Phạn bản của kinh này hiện bảo tồn tại thư viện của các nước như Anh, Pháp, Ấn Độ, v.v. Bản biệt dịch của kinh này có La Ma Già Kinh (羅摩伽經, 3 quyển) của Thánh Kiên (聖堅, ?-?) nhà Đông Tấn; Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Pháp Giới Phẩm (大方廣佛華嚴經入法界品, 1 quyển) của Địa Bà Ha La (地婆訶羅, 613-687) nhà Đường; Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Pháp Giới Phẩm Tứ Thập Nhị Tự Quán Môn (大方廣佛華嚴經入法界品四十二字觀門, 1 quyển) của Bất Không (s: Amoghavajra, 不空, 705-774) nhà Đường, v.v. Về bản Chú Sớ của kinh có Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện Phẩm Sớ (華嚴經行願品疏, 10 quyển) của Trừng Quán; Hoa Nghiêm Kinh Biệt Hành Sớ (華嚴經別行疏, 2 quyển) của Trọng Hy (仲希, ?-?); Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tu Chứng Nghi (華嚴經普賢行願修證儀, 1 quyển) của Tịnh Nguyên (淨源, 1011-1088), v.v. Ngoài ra, còn có một số bản tán vịnh Thiện Tài Đồng Tử đi tham vấn chư thiện trí thức như Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Nhập Pháp Giới Phẩm Tán (大方廣華嚴入法界品讚) của Dương Kiệt (楊傑, hậu bán thế kỷ 11); Văn Thù Chỉ Nam Đồ Tán (文殊指南圖讚) của Phật Quốc Duy Bạch (佛國惟白, ?-?), v.v.
(讀禮): có hai nghĩa chính:
(1) Học tập lễ tiết. Như trong Tuân Tử (荀子), phần Khuyến Học (勸學) có câu: “Thỉ hồ tụng kinh, chung hồ độc lễ (始乎誦經、終乎讀禮, trước hết là tụng kinh, sau cùng học lễ tiết).” Hay trong Hạc Lâm Ngọc Lộ (鶴林玉露) quyển 5 của La Đại Kinh (羅大經, 1196-1242) nhà Tống có đoạn: “Nhi học hiệu chi sở giảng, phùng dịch chi sở đàm, kỉ hữu nhược đồ nhi chi lễ Phật, xướng gia chi độc lễ giả, thị khả thán dã (而學校之所講、逢掖之所談、幾有若屠兒之禮佛、娼家之讀禮者、是可嘆也, vậy trường học được giảng, Nho học được luận bàn, có mấy kẻ đồ tể đến lễ Phật, bao nhà điếm học lễ nghi, thật đáng buồn thay).”
(2) Người xưa trong thời gian cư tang tại nhà, thường đọc những thư tịch lễ nghi liên quan đến việc Tang Tế, vì vậy cư tang còn được gọi là độc lễ. Như trong Lễ Ký (禮記), phần Khúc Lễ (曲禮) có giải thích rằng: “Cư tang vị táng, độc tang lễ; ký táng, độc tế lễ (居喪未葬、讀喪禮、既葬、讀祭禮, thời gian cư tang chưa an táng thì đọc sách Tang Lễ, đã an táng rồi thì đọc sách Tế Lễ).” Sau này có vài tác phẩm liên quan đến độc lễ như Độc Lễ Nhật Tri (讀禮日知), 2 quyển, do Kim Chiết (金淛, ?-?) nhà Minh soạn; hay Độc Lễ Thông Khảo (讀禮通考), 120 quyển, của Từ Càn Học (徐乾學, 1631-1694) nhà Thanh, v.v. Trong Tam Giáo Bình Tâm Luận (三敎平心論, Taishō Vol. 52, No. 2117) quyển Thượng có câu: “Tăng can triều hiến, Ni phạm tục hình, thí tụng Luật nhi xuyên du, như độc lễ nhi kiêu cứ (僧干朝憲、尼犯俗刑、譬誦律而穿窬、如讀禮而憍倨, Tăng làm sai hiến pháp triều đình, Ni thì vi phạm hình phạt thế tục, giống như tụng Luật mà đào tường (trộm cắp), đọc lễ nghi mà kiêu ngạo).”
(嘉平): nguyên nghĩa là tên gọi của lễ hội vào tháng 12 Âm Lịch, từ đó nó có nghĩa là tháng 12 Âm Lịch. Sự việc này liên qua đến một câu chuyện thần tiên. Tương truyền vào cuối thời nhà Chu (周, 1134-250 ttl) có một người tên Mao Mông (茅濛), tự Sơ Thành (初成); xuất thân Nam Quan (南關), Hàm Dương (咸陽), Thiểm Tây (陝西), là Cao Tổ của Đông Khanh Mao Quân Doanh (東卿茅君盈). Mao Mông tánh tình rất từ bi, lương thiện, ngày thường hay tích đức, làm việc phước thiện, cần kiệm, thanh bần, học rộng nghe nhiều. Biết được vô thường của cuộc đời và kiếp người, ông bái Quỷ Cốc Tử (鬼谷子) làm thầy, học về thuật trường sanh bất tử và tiên đơn bí dược. Sau khi nhà Chu diệt vong, ông vào trong Hoa Sơn (華山), xa lìa trần thế, tĩnh tâm tu đạo luyện đơn; về sau ông cỡi rồng lướt mây bay lên trời thành tiên. Trong đô thành nơi ông thành tiên vẫn còn lưu truyền bài ca dao rằng: “Thần tiên đắc giả Mao Sơ Thành, giá long thượng thăng nhập đại thanh, thời hạ Huyền Châu hí Xích Thành, kế thế nhi vãng tại ngã doanh, đế nhược học chi lạp Gia Bình (神仙得者茅初成、駕龍上升入太清、時下玄洲戲赤城、繼世而徃在我盈、帝若學之臘嘉平, thần tiên đắc đạo Mao Sơ Thành, cỡi rồng bay lên tận trời xanh, bấy giờ Huyền Châu vui Xích Thành, kế nghiệp rồi đến tại chốn ta, vua nên biết tháng Chạp Gia Bình).” Sau này, Tần Thỉ Hoàng (秦始皇, tại vị 246-210 ttl) thích tu tiên cầu đạo, bèn đổi tên gọi tháng Chạp (臘月, lạp nguyệt) thành Gia Bình và lưu truyền cho đến hiện tại. Như trong Sử Ký (史記) quyển 6, phần Tần Thỉ Hoàng Bổn Kỷ (秦始皇本紀) có giải thích rằng: “Tam thập nhất niên thập nhị nguyệt, cánh danh Lạp viết Gia Bình (三十一年十二月、更名臘曰嘉平, vào tháng 12 năm thứ 31 [216 ttl], lại đổi tháng Chạp thành Gia Bình).” Trong Tu Dược Sư Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp (修藥師儀軌布壇法, Taishō No. 928) có câu: “Đại Thanh Đạo Quang tuế thứ Giáp Thân Gia Bình nguyệt cát nhật Tịnh Trú Tự (大清道光歲次甲申嘉平月吉日淨住寺, Tịnh Trú Tự, ngày tốt tháng 12 năm Giáp Thân [1824] niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh).”
(軒氏): tức Hiên Viên (軒轅), Hoàng Đế (黃帝), một trong Tam Hoàng Ngũ Đế (三黃五帝) của truyền thuyết Trung Quốc, là tổ tiên của dân tộc Trung Hoa. Hoàng Đế họ là (公孫), hiệu là Hiên Viên Thị (軒轅氏), Hữu Hùng Thị (有熊氏) hay Quy Tàng Thị (歸藏氏). Như trong Sử Ký (史記), phần Ngũ Đế Bản Ký (五帝本記) có ghi rằng: “Hoàng Đế giả, Thiếu Điển chi tử, tánh Công Tôn, danh Hiên Viên; Hoàng Đế cư Hiên Viên chi kheo (黃帝者、少典之子、姓公孫、名軒轅、黃帝居軒轅之丘, Hoàng Đế là con của Thiếu Điển; họ Công Tôn, tên Hiên Viên; Hoàng Đế sống trên Đồi Hiên Viên).” Vị trí của Đồi Hiên Viên hiện vẫn còn đang tranh luận, nhưng phần lớn các học giả đều công nhận là ở tại Trịnh Châu (鄭州), Hà Nam (河南). Xưa kia nơi đây có đô thành của vương quốc Hữu Hùng (有熊); phụ thân của Hiên Viên là quốc vương của xứ sở này. lại có thuyết cho là đồi này hiện ở tại vùng Khúc Phụ (曲阜), Sơn Đông (山東). Tương truyền rằng ông sanh vào ngày mồng 2 tháng 2 Âm Lịch. Trong trận chiến Trác Lộc (涿鹿), ông giết chết vua Xi Vưu (蚩尤), giành được thắng lợi, thống nhất các bộ lạc Trung Nguyên. Sau cuộc chiến, Hoàng Đế xuất binh tiến vào địa khu Cửu Lê (九黎), tại núi Thái Sơn (泰山), tập trung các bộ lạc trong thiên hạ, tiến hành long trọng nghi thức cáo tế trời đất. Đột nhiên, trên trời hiện ra con con giun lớn, màu vàng; mọi người cho rằng lấy đức của đất làm vua, nên vua tự xưng là Hoàng Đế. Trước kia Viêm Đế (炎帝) cùng với Hoàng Đế đã từng liên minh chống lại Xi Vưu. Tuy nhiên, sau khi vua Xi Vưu thất bại, Viêm Đế lại sanh bất hòa với Hoàng Đế. Hai bên quyết chiến trong trận Phản Tuyền (阪泉), và cuối cùng thì Hoàng Đế thắng trận và xác lập địa vị độc tôn thiên hạ. Trong thời gian trị vì, nhà vua đã từng dạy cho nhân dân biết cách lấy lửa nấu cơm, ăn cơm nóng, sáng chế kỹ thuật dệt lụa, chế ra lịch pháp, chế tạo y phục, mũ giày để đè phòng giá lạnh, che thân, v.v. Hoàng Đế có 4 vợ chính và 10 bà hầu. Bà Chánh Phi họ Tây Lăng (西陵), tên Luy Tổ (嫘祖), người phát minh và dạy nhân dân nuôi tằm, dệt tơ để làm y phục, nên có hiệu là Tiên Tàm (先蠶). Bà Thứ Phi là Mô Mẫu (嫫母), tuy hình dung xấu xí nhưng đức hạnh cao thượng, rất được Hoàng Đế kính trọng. Ông có 25 người con, trong số đó 14 người được phong cho 12 họ khác nhau, gồm: Cơ (姬), Tây (酉), Kì (祁), Kỷ (己), Đằng (滕), Hàm (葴), Nhiệm (任), Tuân (荀), Hy (僖), Cật (姞), Huyên (儇), Y (衣). Các đời vua Thiếu Hạo (少昊), Chuyên Húc (顓頊), Đế Khốc (帝嚳), Đường Nghiêu (唐堯), Ngu Thuấn (虞舜), cho đến vua triều nhà Hạ (夏), Thương (商), Chu (周) đều là con cháu của Hoàng Đế. Sau khi qua đời, Hoàng Đế được an táng tại Kiều Sơn (橋山), tức là Hoàng Đế Lăng (黃帝陵) ở Tỉnh Thiểm Tây (陝西省) ngày nay. Trong Đạo Giáo, ông được xem như là một trong những người khai sáng ra tôn giáo này. Trong bài Đông Đô Phú (東都賦) của Ban Cố (班固) nhà Hán có đoạn ca ngợi công lao của Hiên Viên rằng: “Phân xuyên thổ, lập thị triều, tác chu dư, tạo khí giới, tư nãi Hiên Viên Thị chi sở khai đế công dã (分州土、立市朝、作舟輿、造器械、斯乃軒轅氏之所以開帝功也, chia sông hồ, đất đai; lập chợ, triều đình; làm thuyền, xe; tạo khí giới; thảy đều là công khai sáng đầu tiên của Hiên Viên Thị).”
(華嚴宗, Kegon-shū): tông phái được thành lập vào khoảng đời nhà Tùy cho đến đầu nhà Đường và hìnhthành nên giáo học cố hữumang tính căn bản dựa trên kinh điển tối cao là Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經) và tư tưởng của bộ kinh này. Theo cách nhìn truyền thống thì có hai thuyết: Ngũ Tổ và Thất Tổ. Ngũ Tổ gồm Sơ Tổ Đỗ Thuận (杜順, 557-640), Nhị Tổ Trí Nghiêm (智嚴, 602-668), Tam Tổ Pháp Tạng (法藏, 643-712), Tứ Tổ Trừng Quán (澄觀, 738-839) và Ngũ Tổ Tông Mật (宗密, 780-841). Thất Tổ thì trước Đỗ Thuận có thêm vào Mã Minh (Aśvaghoṣa, 馬鳴, khoảng thế kỷ thứ 2) và Long Thọ (Nāgārjuna, 龍樹, khoảng 150-250). Ở Trung Hoa, sau thời Tông Mật thì Hoa Nghiêm Tông bắt đầu yếu dần thế lực. Đến năm 671 có Nghĩa Sương (義湘), người đồng hàng sư huynh của Pháp Tạng, đã truyền tông này sang Tân La (新羅, tức Triều Tiên); và vào năm 736 thì Thẩm Tường (審祥), môn hạ của Pháp Tạng, truyền tông này sang Nhật Bản. Bên cạnh căn cứ vào Hoa Nghiêm Kinh, Hoa Nghiêm Tông của Nhật còn chú trọng đến Phạm Võng Kinh (梵綱經), lập cước ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), kết hợp giữa tư tưởng của Lý Thông Huyền (李通玄) và tư tưởng Mật Giáo. Thêm vào đó, việc xác lập nên hệ thống giáo học Đông Đại Tự của Ngưng Nhiên (凝然, Gyōnen, 1240-1321) là điểm trọng yếu.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập